✨Belisarius

Belisarius

Flavius Belisarius (, khoảng. 500 – 565) là một vị tướng của Đế quốc Byzantine. Ông đóng vai trò quan trọng trong kế hoach tham vọng của hoàng đế Justinian I nhằm khôi phục lãnh thổ Địa Trung Hải của Đế quốc Tây La Mã từng bị rơi vào tay man tộc gần một thế kỉ trước đó.

Một trong nét nổi bật trong sự nghiệp của Belisarius là những thắng lợi hầu như không đứt đoạn của ông bất chấp sự thay đổi mức độ ủng hộ từ Justinian. Tên của ông thường được xem, cùng với một số người khác, là "Người La Mã cuối cùng".

Tiểu sử

Belisarius sinh ra ở Germania, một thị trấn ở nơi này ngay là Sapareva Banya thuộc miền tây nam Bulgaria, gần biên giới giữa Thrace và Illyria. Ông nhập quân ngũ La Mã khi còn trẻ, gia nhập đội cận vệ của Hoàng đế Justinus I. Sớm tỏ ra là một sĩ quan triển vọng, ông được phép thành lập một trung đoàn kị binh nặng, mà về sau ông mở rộng thành một trung đoàn của tư gia ông, gồm 1500 người, và là hạt nhân của các đội quân mà sau này ông tổ chức.

thumb|Map of the Byzantine-Persian frontier Khi Justin qua đời, hoàng đế mới Justinian I bổ nhiệm ông chỉ huy quân đội La mã ở miền đông để đối phó với những cuộc đột kích từ Đế quốc Sassanid. Ông đã dẫn dắt thành công quân đội trong Chiến tranh Iberia, đánh bại người Ba Tư trong các trận Dara (530) và trận Callinicum (531), dẫn đến hiệp ước "Hòa bình Vĩnh cửu" (532) giữa hai đế chế. Trở về Constantinople, ông cùng với Thống chế miền Illyrium là Mundus, đã dập tắt cuộc nổi dậy Nika trong bể máu.

Tiếp đó, Belisarius được trao quyền thống lĩnh đội quân chinh phạt Vương quốc Vandal. Đổ bộ gần Chebba (Tunisia), ông cho hành quân dọc bờ biển và giữ hạm đội theo sát, trước khi tiến thẳng vào kinh đô Vandal ở Carthage nhằm tránh bị cắt đứt đường vận chuyển lương thực. Trên đường tới Carthage, quân La Mã đụng độ với quân Vandal tại trận Ad Decimum (13 tháng 9 năm 533) và thắng trong gang tấc. Chiến thắng khác tại trận Tricamarum hai ngày sau đó buộc vua Gelimer (người sát vị vua Vandal trước đó thân Byzantine là Hilderic, tạo ra cái cớ trực tiếp cho cuộc chiến) phải đầu hàng. Khôi phục được tỉnh Bắc Phi, Belisarius trở về Constantinople trong lễ khải hoàn La Mã (người cuối cùng nhận vinh dự này). Ông cũng được phong làm Chấp chính duy nhất năm 535 và là một trong những người cuối cùng mang danh hiệu thừa hưởng từ thời Cộng hòa La Mã này.

Thắng lợi ở Bắc Phi cổ vũ Justinian nỗ lưc khôi phục phần lớn Đế quốc Tây La Mã. Năm 535 Belisarius lại được trao nhiệm vụ chinh phạt người Ostrogoth ở Ý. Belisarius đổ bộ ở Sicily và chiếm hòn đảo làm căn cứ tấn công Ý, trong khi Mundus khôi phục Dalmatia. Sau khi quay lại châu Phi một thời gian ngắn để đánh bại một cuộc nổi dậy, cuối năm 536 Belisarius đổ bộ vào Ý, chiếm Naples tháng 11 và khôi phục thành La Mã tháng 12. Những năm 537-538 ông thành công trong việc bảo vệ cố đô trước người Goth. Năm 540 ông đánh bại quân đội Goth, bắt giữ vua Ostrogoth là Witiges, tiến đến kinh đô của họ ở Ravenna. Người Goth hứa tuyên bố ông là hoàng đế phương Tây. Belisarius giả vờ dồng ý và đi vào thành Ravenna qua lối vào duy nhất, một con đường nhỏ xuyên qua đầm lầy cùng với một tùy tướng. Ít lâu sau, ông tuyên bố chiếm đóng Ravenna dưới danh nghĩa hoàng đế Justinian. Điều này đã tiết kiệm được máu đổ nhưng khiến cho Justinian nghi ngờ và triệu hồi Belisarius về kinh đô.

Sau đó, ông được trao quyền thống lĩnh chiến dịch Syria (541-542) để đẩy lùi người Ba Tư ở đây, một chiến dịch kéo dài không có trận đánh nào quyết định và cuối cùng một hòa ước được ký kết, trong đó Byzantine nộp cống phẩm cho Ba Tư để đổi lại cam kết không tấn công trong 5 năm.

Quay lại Ý năm 544, ông đối mặt với người Ostrogoth đã tập hợp lại dưới vua mới Totila và tái chiếm hầu hết bán đảo. Belisarius đã nhanh chóng khôi phục thành La Mã, nhưng chiến dịch tái chiếm Ý bất thành, phần lớn do triều đình Constantinople đang bận bịu khôi phục sau nạn dịch hạch khủng khiếp năm 542 đã không tăng viện và chu cấp cho quân đội của ông. Năm 548-549, Justinian phái quân giải vây cho ông và năm 551 một đội quân lớn do hoạn quan Narses chỉ huy đã đưa chiến dịch Ý tới thắng lợi chung cuộc. Belisarius quyết định rút lui khỏi vị trí cầm quân.

Trong chiến dịch thành La Mã, Belisarius đã quyết định bãi chức Giáo hoàng đương nhiệm Silverius và thay thế bằng Vigilus, gây ra sự bất bình trong giới tăng lữ La Mã. Vào đỉnh điểm của cuộc vây hãm (537), Silverius bị kết tội mưu phản cấu kết với người Goth và bị đem đi đày. Sau này ông được minh oan nhưng cuối cùng bị đi đày thêm một lần nữa và chết ở Ponza. Để ăn năn về phần mình Belisarius có xây một số nhà thờ, tu viện và nhà nguyện, nhưng sự việc khiến cho ông mang tiếng xấu trong giáo hội Thiên Chúa một thời gian dài về sau.

Năm 559, Belisarius một lần nữa lại được triệu tập để cầm quân đối phó với người Bulgar vượt sông Danube đe dọa tới Constantinople. Với một quân số ít hơn hẳn, ông đã đánh bại quân địch và đẩy họ về bờ kia dòng sông.

Năm 562, Belisarius phải ra tòa vì cáo buộc tham nhũng, một cáo buộc mà giới sử học ngày nay cho là âm mưu chính trị, và dường như thư ký cũ của ông, Procopius của Caesarea đã chủ tọa phiên tòa. Ông bị tuyên án và bỏ vào tù nhưng ít lâu sau Justinian đã ân xá và cho ông một vị trí ở cung đình.

Năm 565, Belisarius qua đời, có lẽ là điền trang Ruìnianae ở phần châu Á của ngoại ô Constantinople, và được chôn ở một trong hai nhà thờ gần đó. Mất cùng năm đó là Justinian; hai người đã góp phần mở rộng diện tích đế chế Byzantine khoảng 45% lãnh thổ vào thời điểm họ qua đời.

👁️ 2 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Flavius Belisarius** (, khoảng. 500 – 565) là một vị tướng của Đế quốc Byzantine. Ông đóng vai trò quan trọng trong kế hoach tham vọng của hoàng đế Justinian I nhằm khôi phục lãnh
#đổi Đại bàng vàng nâu
**Justinian I** (; _Flávios Pétros Sabbátios Ioustinianós_) ( 482 13 tháng 11 hay 14 tháng 11 năm 565), còn được biết đến trong tiếng Việt với tên gọi **Justinianô** trong các bản dịch của Giáo
**Trận Dara** diễn ra vào năm 530 giữa Đế quốc Đông La Mã và Đế chế Ba Tư Sassanid. Đây là một trong những trận đánh thuộc Chiến tranh Iberia. Tác phẩm của Procopius về
**Totila**, tên thật là **Baduila** (mất ngày 1 tháng 7 năm 552) là vị vua áp chót của vương quốc Ostrogoth, trị vì từ năm 541 đến năm 552 sau Công nguyên. Là một vị
Tiếng xấu nổi tiếng của người Vandal, bức tranh khắc màu bằng thép mô tả trận cướp phá thành Rome (455) của [[Heinrich Leutemann (1824–1904), c. 1860–80]] **Người Vandal** là một bộ tộc Đông German,
**Vương quốc Vandal** () hoặc **Vương quốc Vandal và Alan** () là một vương quốc được thành lập bởi người Vandal dưới thời vua Gaiseric ở Bắc Phi and the Địa Trung Hải từ năm
**Đế quốc Byzantine**, còn được gọi là **Đế quốc Đông La Mã**, là sự tiếp nối của Đế quốc La Mã ở các tỉnh phía đông trong thời kỳ Hậu Cổ đại và Trung cổ
nhỏ|Bản đồ cho thấy Đế quốc La Mã (màu tím) và Parthia (màu vàng) cùng nhau chia sẻ [[Đế quốc Seleukos (màu xanh ở giữa) và qua đó giúp họ trở thành quốc gia mạnh
thumb|Cơ cấu chỉ huy ban đầu của [[quân đội hậu La Mã, với một _magister equitum_ riêng biệt và một _magister peditum_ thay thế cho toàn bộ _magister militum_ sau này trong cơ cấu chỉ
**Theodora** (; Hy Lạp:. Θεοδώρα; - 28 tháng 6 năm 548) là hoàng hậu của Đế chế Đông La Mã, là vợ của Hoàng đế Justinian I. Bà là một trong những hoàng hậu có
**Jacques-Louis David** (30 tháng 8 năm 1748 - 29 tháng 12 năm 1825) là một họa sĩ người Pháp theo trường phái Tân cổ điển. Ông là tác giả của nhiều bức họa đề tài
**Silvêriô** (Latinh: _Silverius_) là vị giáo hoàng thứ 58 của Giáo hội Công giáo. Niên giám tòa thánh năm 1806 cho rằng ông đắc cử năm 535 và ở ngôi trong 2 năm vài ngày.
**Đế quốc Tây La Mã** là phần đất phía tây của Đế quốc La Mã cổ đại, từ khi Hoàng đế Diocletianus phân chia Đế chế trong năm 285; nửa còn lại của Đế quốc
thumb|Thế giới Địa Trung Hải theo như mô tả trong bộ sử _Getica_ của Jordanes. [[Đế quốc Đông La Mã, thủ đô Constantinopolis được tô màu hồng. Những vùng bị Justinianus chinh phạt được tô
**Công quốc Roma** () là một giáo khu nhỏ của Đông La Mã nằm ở Trấn khu Ravenna. Cũng giống như các nước khác thuộc Đông La Mã tại Ý được đặt dưới sự cai
Ngày **15 tháng 12** là ngày thứ 349 (350 trong năm nhuận) trong lịch Gregory. Còn 16 ngày nữa là cuối năm. ## Sự kiện *533 – Tướng Belisarius đánh bại Vandals, dưới sự chỉ
**William Tecumseh Sherman** (8 tháng 2 năm 1820 – 14 tháng 2 năm 1891), là một tướng của quân đội Liên bang miền Bắc thời Nội chiến Hoa Kỳ. Tuy nổi tiếng tài giỏi về
**Sicilia** ( , ) là một vùng hành chính tự trị của Ý. Vùng này gồm có đảo Sicilia lớn nhất Địa Trung Hải và lớn thứ 45 thế giới, cùng một số đảo nhỏ
**Napoli** (; tiếng Hy Lạp cổ đại: Νεάπολις – _Neapolis_ có nghĩa là "_thành phố mới_", còn phổ biến với tên gọi **Naples** trong tiếng Anh và tiếng Pháp) là thành phố lớn thứ ba
nhỏ|Trận Poitiers qua bức họa "Bataille de Poitiers en Octobre 732" của [[Charles de Steuben]] **Sơ kỳ Trung cổ** là một thời kỳ lịch sử của châu Âu kéo dài từ năm 600 tới khoảng
Bản đồ Leptis Magna nhỏ|Di tích Thánh đường Severan Basilica **Leptis Magna**, (tiếng Ả Rập: لبدة ]) còn được gọi là **Lectis Magna** (hoặc **Lepcis Magna** như đôi khi nó được phát âm), còn gọi
**Theodoricus** (tiếng Goth: _Þiudareiks_; ; , _Theuderikhos_; tiếng Anh Cổ: _Þēodrīc_; tiếng Na Uy Cổ: _Þjōðrēkr_, _Þīðrēkr_; 454 – 526), là vua của người Ostrogoth (471 – 526), kẻ cai trị nước Ý (493 –
**Văn hóa từ chức** là một văn hoá chính trị, văn hoá ứng xử dựa trên lương tri, khi những người lãnh đạo thấy mình có thiếu sót, khuyết điểm, hay nói cách khác là
Comes **Bonifacius** (Anh hóa là **bá tước Boniface**) (mất năm 432) là một vị tướng La Mã và thống đốc của giáo khu châu Phi. Cùng với đối thủ của mình, Flavius ​​Aëtius, ông đôi
**Trận Sena Gallica** là một trận hải chiến ngoài khơi bờ biển Adriatic thuộc nước Ý trong mùa thu năm 551 giữa Đế quốc Đông La Mã và một hạm đội của người Ostrogoth, trong
**George Crowninshield Jr.** (27 tháng 5 năm 1766 - ngày 26 tháng 11 năm 1817) là một thương nhân, người chơi du thuyền và chủ tàu người Mỹ. Cùng với cha mình, ông vận hành
liên_kết=https://en.wikipedia.org/wiki/File:Insulae_Sardiniae_novae_accurata_descriptio_-_Janssonius_Johannes,_1642-44.jpg|nhỏ|Huy hiệu của Vương quốc Sardegna từ thế kỷ 14 Sardegna ban đầu được cai trị bởi nền văn minh Nuragic, theo sau đó là cuộc xâm lược của Hy Lạp, bị người Carthage chinh
**Trận dãy núi Nervasos** () diễn ra vào năm 419 giữa liên minh người Suebi do Vua Hermeric chỉ huy cùng với quân đội La Mã đóng tại tỉnh Hispania, chống lại liên quân người
right|thumb|Hippodrome năm 2005, tháp Obelisk bằng gạch ở tiền cảnh và tháp Obelisk của Thutmose III ở hậu cảnh. thumb|Vị trí của Hippodrome tại Constantinopolis thumb|Đám rước của [[phường hội, tiểu họa Ottoman từ _Surname-i
**Hệ động vật của Châu Âu** là tất cả các loài động vật sinh sống ở châu Âu và các vùng biển và hải đảo xung quanh. Vì không có ranh giới địa lý sinh
**_Foederatus_** , hoặc số nhiều **_Foederati_** là cách La Mã chu cấp những lợi ích nhằm đổi lấy viện trợ quân sự từ bất kỳ một quốc gia xa xôi hẻo lánh. ## Lịch sử
Thuật ngữ **người La Mã cuối cùng** (_Ultimus Romanorum_) về mặt lịch sử dùng để mô tả một người là hiện thân cho những giá trị của nền văn minh La Mã cổ đại với
nhỏ|Bốn con thú và Đấng Thượng Cổ, được vẽ bởi [[Silos Apocalypse]] Bốn vương quốc được tiên tri trong sách của Danien là bốn vương quốc sẽ tiên tri về "thời kỳ cuối cùng" và
**Bucellarii** (số nhiều Latinh của _Bucellarius_; nghĩa là "kẻ ăn bánh quy", ) là thuật ngữ về một đơn vị lính vào cuối thời La Mã và Byzantine không được sự hỗ trợ của nhà
**Romanos I Lekapenos** hoặc **Lakapenos** (, _Rōmanos I Lakapēnos_; khoảng 870 – 15 tháng 6, 948), Latinh hóa thành **Romanus I Lecapenus**, là một người Armenia trở thành tư lệnh hải quân Đông La Mã