✨Trường đua Constantinopolis

Trường đua Constantinopolis

right|thumb|Hippodrome năm 2005, tháp Obelisk bằng gạch ở tiền cảnh và tháp Obelisk của Thutmose III ở hậu cảnh. thumb|Vị trí của Hippodrome tại Constantinopolis thumb|Đám rước của [[phường hội, tiểu họa Ottoman từ Surname-i Vehbi (1582).]]

Trường đua Contantinopolis hay còn gọi là Hippodrome (tiếng Hy Lạp: Ἱππόδρομος τῆς Κωνσταντινουπόλεως, Hippódromos tēs Kōnstantinoupóleōs) là một trường đua xe ngựa, là trung tâm sinh hoạt xã hội, thể thao, giải trí ở kinh đô Constantinopolis của Đế quốc Đông La Mã. Ngày nay, nó là một quảng trường được đặt tên là Sultanahmet Meydanı (Quảng trường Vua Ahmet) ở thành phố Istanbul của Thổ Nhĩ Kỳ, cùng với nhiều mẫu vật còn sót lại của công trình ban đầu.

Lịch sử

Mặc dù khi nói đến Hippodrome, người ta thường liên kết nó đến những ngày vinh quang của Constantinopolis khi nó là kinh đô của đế quốc, nhưng nó đã xuất hiện trước đó. Hippodrome đầu tiên được xây dựng khi thành phố còn được gọi là Bysantium, và còn là một thị trấn cấp tỉnh có tầm quan trọng vừa phải. Vào năm 203, Hoàng đế Septimius Severus khi xây dựng lại thành phố và mở rộng tường thành đã cho xây dựng thêm cho nó một hippodrome, một đấu trường cho các cuộc đua xe ngựa cũng như vui chơi giải trí khác.

Năm 324, hoàng đế Constantinus Đại Đế quyết định thiên đô từ Roma sang Byzantium và đổi tên nó thành Nova Roma (Tân La Mã). Tên gọi này không gây ấn tượng cho lắm nên thành phố đã nhanh chóng trở thành Konstantinoupolis (Constantinople), tức thành phố của Constantinus. Constantinus khi cho mở rộng thành phố đã cam kết là sẽ xây mới Hippodrome. Người ta ước tính rằng Hippodrome của Constantinus dài khoảng 450 m (1.476 ft) và rộng 130 m (427 ft). Những khán đài của nó có khả năng chứa tới 100.000 khán giả.

Đường đua ngựa tại Hippodrome có hình chữ U và phòng Kathisma (phòng lô của hoàng đế) nằm ở cuối phía đông của đường đua. Kathisma được liên kết trực tiếp với Đại Cung điện thông qua một hành lang mà chỉ có hoàng đế hoặc các thành viên khác trong hoàng tộc có thể sử dụng. Ô ngựa của Hippodrome, được trang trí bằng bốn bức tượng ngựa bằng đồng mạ vàng trên đỉnh, nằm ở phía bắc. Sphendone (kiến trúc cong của cấu trúc hình chữ U, phần dưới của nó vẫn còn tồn tại đến ngày nay) nằm ở phía nam. Bộ tứ mã mạ vàng này, ngày nay được gọi là Ngựa của Thánh Máccô, có gốc gác Hy Lạp hoặc La Mã nhưng chưa bao giờ được xác định chính xác, đã bị cướp đi trong cuộc thập tự chinh thứ tư diễn ra năm 1204 và được đặt tại mặt tiền của Vương cung thánh đường Thánh Máccô ở Venezia. Trường đua còn được trang hoàng bởi nhiều tuyệt tác bằng đồng khác, phần lớn chúng đều nằm trên Euripos (tiếng Latin: spina, có nghĩa là đường phân cách giữa sân): Nội dụng của các tác phẩm này không chỉ là các con ngựa hay tay đua nổi tiếng mà còn những khung cảnh trong thần thoại khác nhau và một bức tượng Herakles đả Sư tử. Chỉ một trong số chúng còn tồn tại đến ngày nay, một cột đồng có ba đầu rắn, vốn được đúc để tưởng niệm các tử sĩ Hy Lạp trong đại thắng tại Plataea trước đại quân Ba Tư, đã được đưa về Constantinopolis từ Delphi.

Dưới thời Đông La Mã, Hippodrome là một trung tâm văn hóa, xã hội của thành phố. Số tiền lớn được bỏ ra trong các vụ cá cược đua ngựa và ban đầu 4 câu lạc bộ Xanh lam (venetoi), Xanh lục (prasinoi), Đỏ (rousioi) và Trắng (leukoi), mỗi đội được tài trợ và hỗ trợ bởi các đảng phái chính trị (Deme) trong thượng viện Đông La Mã tham dự. Tuy vậy, theo thời gian, hai câu lạc bộ Đỏ và Trắng dần dần bị yếu đi và nhập vào đội Xanh lam và Xanh lục.

Tổng cộng có đến tám chiếc xe ngựa (hai chiếc xe ngựa mỗi đội), mỗi xe có bốn con ngựa, cạnh tranh trên sân đua của Hippodrome. Những cuộc đua này không phải chỉ là các sự kiện thể thao đơn giản, mà cũng tạo ra một số trong những dịp hiếm hoi để Hoàng đế và các thường dân có thể đến với nhau tại một địa điểm duy nhất. Các cuộc thảo luận chính trị thường được thực hiện tại Hippodrome, nơi có thể được trực tiếp truy cập bởi Hoàng đế thông qua một đoạn nối Kathisma (Loge của Hoàng đế ở khán đài phía đông) với cung điện Constantinople.

Sự kình địch giữa hai đội còn lại và các fan của họ thường bị trộn lẫn với sự ganh đua chính trị và tôn giáo, đôi khi dẫn đến bạo động hoặc thậm chí là nội chiến bùng ra trong thành phố giữa họ với nhau. Sự cố nghiêm trọng nhất xảy ra là cuộc bạo loạn Nika năm 532. Trong cuộc bạo loạn này, các khán giả đã la hét ầm ĩ phản đối hoàng đế Justinianus I (527-565) và sau đó các nghị viên tôn một vị hoàng đế khác lên ngôi. Tuy nhiên, quân đội trung thành dưới sự chỉ huy của Belisarius cuối cùng đã dập tắt cuộc nổi loạn. Cuộc bạo loạn này đã khiến 30.000 người thiệt mạng và hàng loạt công trình quan trọng, như nhà thờ Hagia Sophia thứ hai, bị lửa cháy. Nhà thờ Hagia Sophia hiện nay (là nhà thờ thứ 3) được Justinianus cho xây dựng lại sau cuộc bạo loạn Nika.

Constantinopolis không bao giờ có thể khôi phục sau cuộc Thập tự chinh thứ tư cho dù Đế quốc Đông La Mã/Byzantine còn tồn tại đến năm 1453. Trong thời điểm này, Hippodrome đã trở thành đống đổ nát. Những người Thổ Ottoman, những người đã chiếm thành phố năm 1453 và biến nó trở thành kinh đô của Đế quốc Ottoman, không hứng thú với những cuộc đua xe ngựa cho lắm và Hippodrome đã dần dần rơi vào lãng quên, dù khu vực bị để trống và không bị xây dựng đè lên.

Hippodrome đã được sử dụng cho những dịp như lễ cắt bao quy đầu của các hoàng tử của Sultan Ahmed III. Trong các bức tiểu họa Ottoman, Hippodrome được thể hiện với khán đài cũng như các công trình ở giữa sân vẫn còn nguyên vẹn.

👁️ 1 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
right|thumb|Hippodrome năm 2005, tháp Obelisk bằng gạch ở tiền cảnh và tháp Obelisk của Thutmose III ở hậu cảnh. thumb|Vị trí của Hippodrome tại Constantinopolis thumb|Đám rước của [[phường hội, tiểu họa Ottoman từ _Surname-i
thumb|Bản sao Bộ tứ mã của thánh Marco thumb|Bản gốc Bộ tứ mã trong bảo tàng viện **Bộ tứ mã của thánh Marco** (), (còn được gọi là **Triumphal Quadriga**) là một bộ tượng bằng
**Istanbul** ( hoặc ; ), là thành phố lớn nhất, đồng thời là trung tâm kinh tế, văn hóa và lịch sử của Thổ Nhĩ Kỳ. Với dân số hơn 14 triệu người (2014), Istanbul
phải|nhỏ|Sultan [[Mehmed II cùng đoàn binh chiến thắng tiến vào thành Constantinopolis]]**Thành phố Constantinople**, kinh đô của Đế chế Đông La Mã, sụp đổ sau một cuộc vây hãm của Đế chế Ottoman kéo dài
**Công đồng Constantinopolis đầu tiên** được công nhận là Công đồng chung thứ hai của Cảnh giáo, Chính thống giáo Cổ Đông phương, Chính thống giáo Đông Phương, Công giáo Rôma, Công giáo Cổ, Anh
**Romanos III Argyros** (, _Rōmanos III Argyros_; 968 – 11 tháng 4, 1034), là Hoàng đế Đông La Mã từ ngày 15 tháng 11 năm 1028 cho đến lúc qua đời. ## Tiểu sử ###
**Trận Salamis** (tiếng Hy Lạp cổ: Ναυμαχία τῆς Σαλαμῖνος, _Naumachia tēs Salaminos_), là một trận hải chiến giữa các thành bang Hy Lạp và đế quốc Ba Tư vào năm 480 TCN ở một eo
thumb|[[Bộ tứ mã của thánh Marco ở Venezia, bản sao của điêu khắc tứ mã duy nhất của thời cổ đại còn tồn tại]] **Chiến xa tứ mã** (, có nguồn gốc từ từ _quattuor_
**Ioannes II Komnenos** (, _Iōannēs II Komnēnos_; 13 tháng 9, 1087 – 8 tháng 4, 1143) là Hoàng đế Đông La Mã từ năm 1118 đến năm 1143. Còn gọi là "Ioannes Hiền minh" hay "Ioannes Nhân
**Romanos I Lekapenos** hoặc **Lakapenos** (, _Rōmanos I Lakapēnos_; khoảng 870 – 15 tháng 6, 948), Latinh hóa thành **Romanus I Lecapenus**, là một người Armenia trở thành tư lệnh hải quân Đông La Mã
**Andronikos I Komnenos** (; khoảng 1118 – 12 tháng 9, 1185), là Hoàng đế Đông La Mã từ năm 1183 đến năm 1185. Ông là con trai của Isaakios Komnenos và là cháu của hoàng
**Zoë** (, _Zōē_ nghĩa là "_sinh mệnh_") ( 978 – Tháng 6, 1050) là Nữ hoàng Đông La Mã thuộc nhà Makedonia trị vì cùng với em gái Theodora từ ngày 19 tháng 4 đến
**Flavius Theodosius Augustus** (11 tháng 1 năm 347 – 17 tháng 1 năm 395), cũng được gọi là **Theodosius I** hay **Theodosius Đại đế**, là hoàng đế La Mã) trị vì từ năm 379 đến
**Arcadius** (; ; 377/378 – 1 tháng 5, 408) là Hoàng đế Đông La Mã từ năm 395 đến 408. Ông là con trưởng của Hoàng đế Theodosius I và người vợ đầu Aelia Flaccilla
**Tiberios III** () (mất ngày 15 tháng 2 năm 706) là Hoàng đế Đông La Mã từ năm 698 đến 21 tháng 8 năm 705. Dù thời kỳ trị vì của ông được coi là
**Lịch sử thành phố Beograd** truy ngược về 7.000 năm trước Công nguyên kéo dài cho tới ngày nay khi Beograd giữ vị trí thủ đô Serbia. Văn hóa Vinča, một trong những nền văn
**Nền văn minh La Mã cổ đại** đã có lịch sử lâu đời và để lại nhiều giá trị to lớn cho nhân loại ngày nay trong nhiều lĩnh vực. **Roma** ngày nay trước kia
**Eustathios thành Thessaloniki** (; khoảng 1115 – 1195/6) là học giả Đông La Mã gốc Hy Lạp và là Tổng giám mục Thessaloniki. Ông trở nên nổi tiếng vì là chứng nhân đương thời tường
thumb|Theodora được miêu tả như một vị thánh, trong một biểu tượng tôn giáo của [[Hy Lạp vào thế kỷ 19.]] **Theodora** (, khoảng 815 – sau 867) là Hoàng hậu Đông La Mã và
nhỏ|Hagia Sophia nhìn từ bên ngoài Hagia Sophia, Istanbul **Hagia Sophia** (tiếng Hy Lạp: Ἁγία Σοφία, "Sự khôn ngoan của Thiên Chúa", tiếng Latinh: _Sancta Sapientia_, tiếng Thổ Nhĩ Kỳ: _Ayasofya_) ban đầu là một
Tiếng xấu nổi tiếng của người Vandal, bức tranh khắc màu bằng thép mô tả trận cướp phá thành Rome (455) của [[Heinrich Leutemann (1824–1904), c. 1860–80]] **Người Vandal** là một bộ tộc Đông German,
**Vương quốc Vandal** () hoặc **Vương quốc Vandal và Alan** () là một vương quốc được thành lập bởi người Vandal dưới thời vua Gaiseric ở Bắc Phi and the Địa Trung Hải từ năm
**Romanos IV Diogenes** (, _Rōmanós IV Diogénēs_; khoảng 1030 – 1072), là một thành viên thuộc tầng lớp vũ huân quý tộc kết hôn với vị hoàng hậu góa bụa Eudokia Makrembolitissa, đã đăng quang
[[Thánh đường Palatina - xây dựng theo phong cách kiến trúc Byzantine. Nghệ thuật khảm đá trong nội thất được thực hiện bởi những họa sĩ Byzantine]] nhỏ|Kết cấu vòm trong kiến trúc Byzantine **Kiến
**Đế quốc La Mã** hay **Đế quốc Rôma** ( ; ) là giai đoạn tiếp nối Cộng hòa La Mã cổ đại. Chính thể Đế chế La Mã, được cai trị bởi các quân chủ
**Chiến dịch giải phóng Bulgaria** (5 tháng 9 - 15 tháng 9 năm 1944) là một chiến dịch quân sự do Phương diện quân Ukraina 3 (Liên Xô) dưới sự chỉ huy của nguyên soái
**Ioannes I Tzimiskes** (, _Iōannēs I Tzimiskēs_; khoảng 925 – 10 tháng 1, 976) là Hoàng đế Đông La Mã từ ngày 11 tháng 12 năm 969 đến ngày 10 tháng 1 năm 976. Là một
nhỏ|Hình ảnh của Giáo hoàng đối lập Christophero **Christopher** đã được đưa lên làm giáo hoàng từ tháng 10 năm 903 đến tháng 1 năm 904. Mặc dù ông đã được liệt kê như một
**Giáo hoàng Grêgôriô I** (Latinh: _Gregorius I_), thường được biết đến là **Thánh Grêgôriô Cả**, là vị giáo hoàng thứ 64 của Giáo hội Công giáo. Cùng với Giáo hoàng Lêôn I, ông được suy
nhỏ|Một chi tiết từ đĩa bạc _Missorium của Aspar_, khắc họa viên thống chế _magister militum_ đầy quyền uy **Aspar** và ngươi con trưởng [[Ardabur (khoảng năm 434).]] **Flavius Ardabur Aspar** (khoảng 400 – 471)
**Julius Patricius** (Latin: _Iulius Patricius_ or _Patriciolus_; ; _floruit_ 459 – 471) là con trai của vị tướng đầy quyền uy Aspar đã chi phối triều chính của Đế quốc Đông La Mã trong gần
nhỏ|[[Hoàng đế La Mã Augustus trong vai thần Jupiter, tay cầm quyền trượng và quả cầu (nửa đầu thế kỷ 1 CN)]] **Thần quyền** là một dạng của chế độ chuyên quyền, trong đó một
**Konstantinos VIII** (, _Kōnstantinos VIII_) (960 – 11 tháng 11, 1028) là Hoàng đế Đông La Mã trị vì từ ngày 15 tháng 12 năm 1025 cho đến khi ông qua đời. Ông là con trai
**Nikephoros III Botaneiates** (, khoảng 1002 – 10 tháng 12, 1081), là Hoàng đế Đông La Mã trị vì từ năm 1078 đến 1081. Ông thuộc về một gia tộc tự xưng là hậu duệ
**Justinian I** (; _Flávios Pétros Sabbátios Ioustinianós_) ( 482 13 tháng 11 hay 14 tháng 11 năm 565), còn được biết đến trong tiếng Việt với tên gọi **Justinianô** trong các bản dịch của Giáo
**Zeno** hay **Zenon** (; ; ) (425 – 491), tên thật là **Tarasis**, là Hoàng đế Đông La Mã từ năm 474 tới 475 và một lần nữa từ 476 tới 491. Các cuộc nổi
**Cuộc Chiến tranh giành độc lập Hy Lạp** (1821–1829), cũng được biết đến với tên gọi **Cuộc chiến tranh cách mạng Hy Lạp** (tiếng Hy Lạp: Ελληνική Επανάσταση, _Elliniki Epanastasi_; tiếng Thổ Nhĩ Kỳ: يؤنان
**Lịch sử châu Âu** mô tả những sự kiện của con người đã diễn ra trên lục địa châu Âu. Từ thời tiền sử tới thời hiện đại. Châu Âu có một lịch sử dài,
**Heraclius** (; 11 tháng 2 năm 641) là Hoàng đế Đông La Mã từ năm 610 đến 641. Con đường lên ngôi của Heraclius bắt đầu từ năm 608, khi ông cùng với cha mình,
nhỏ|Trận Poitiers qua bức họa "Bataille de Poitiers en Octobre 732" của [[Charles de Steuben]] **Sơ kỳ Trung cổ** là một thời kỳ lịch sử của châu Âu kéo dài từ năm 600 tới khoảng
**Phục bích** (chữ Hán: 復辟), còn được phiên âm là **phục tích** hay **phục tịch**, nghĩa đen là "khôi phục ngôi vua" là trường hợp một quân chủ đã từ nhiệm hoặc đã bị phế
Sultan **Abdül Mecid I**, **Abdul Mejid I**, **Abd-ul-Mejid I** và **Abd Al-Majid I** **Ghazi** (Tiếng Thổ Ottoman: عبد المجيد الأول _'Abdü'l-Mecīd-i evvel_) (25 tháng 4 năm 1823 – 25 tháng 6 năm 1861) là vị
phải|Sự sụp đổ của Constantinopolis, Trong hình là [[Mehmed II đang dẫn quân tiến vào thành. Tranh của Fausto Zonaro.]] **Hậu kỳ Trung Cổ** hay **Giai đoạn cuối Trung Cổ** (tiếng Anh: _Late Middle Ages_)
**Đế quốc Byzantine**, còn được gọi là **Đế quốc Đông La Mã**, là sự tiếp nối của Đế quốc La Mã ở các tỉnh phía đông trong thời kỳ Hậu Cổ đại và Trung cổ
nhỏ|[[Muhammad Ali của Ai Cập|Muhammad Ali Pasha]] **Lịch sử Ai Cập dưới triều đại Muhammad Ali Pasha** (1805 - 1953) là một thời kỳ cải cách và hiện đại hóa nhanh chóng, khiến Ai Cập
**Đế quốc Tây La Mã** là phần đất phía tây của Đế quốc La Mã cổ đại, từ khi Hoàng đế Diocletianus phân chia Đế chế trong năm 285; nửa còn lại của Đế quốc
Lịch sử của nước Nga, bắt đầu từ việc người Slav phương Đông tái định cư ở Đồng bằng Đông Âu vào thế kỷ thứ 6-7, những người sau đó được chia thành người Nga,
**Đế quốc Bulgaria thứ nhất** (, Latin hoá: _blŭgarĭsko tsěsarǐstvije_ ) () là một nhà nước Bulgaria thời trung cổ được thành lập ở phía đông bắc bán đảo Balkan năm 680 bởi người Bunga,
thumb|300x300px|Các tiểu vùng của Châu Âu - CIA World Factbook **Châu Âu** hay **Âu Châu** (, ) về mặt địa chất và địa lý là một bán đảo hay tiểu lục địa, hình thành nên
**Alexander II** (; 29 tháng 4 năm 181813 tháng 3 năm 1881)) là Hoàng đế Nga, Vua của Ba Lan và Đại vương công Phần Lan từ ngày 2 tháng 3 năm 1855 cho đến khi