Công đồng Constantinopolis đầu tiên được công nhận là Công đồng chung thứ hai của Cảnh giáo, Chính thống giáo Cổ Đông phương, Chính thống giáo Đông Phương, Công giáo Rôma, Công giáo Cổ, Anh giáo, và một số nhóm Kitô giáo Tây phương khác. Đây là công đồng đại kết đầu tiên được tổ chức tại Constantinopolis và được triệu tập bởi hoàng đế Theodosius I. Công đồng này tái khẳng định Tín điều Nicea, khẳng định thần tính đích thực của Chúa Kitô và lên án những tư tưởng của lạc giáo Arian diễn ra ở Nhà thờ Hagia Irene từ tháng năm - tháng bảy năm 381.
Giáo hoàng Đamasô I có thể không được mời hoặc đã từ chối tham dự, do đó công đồng này đôi khi được gọi là công đồng "unecumenical" (phi phổ quát, phi đại kết). Tuy nhiên, nó đã được khẳng định là công đồng đại kết tại Công đồng Chalcedon (451).
Bối cảnh
Thần học
Công đồng Nicaea I năm 325 đã không kết thúc được cuộc tranh cãi Arian về Chúa Ba Ngôi. Nhiều vị Giám mục sau này quyết định rằng, giáo hội không thể dùng một chữ không có trong phúc âm (homoousios – đồng bản tính) để giải quyết vấn đề, do đó họ quyết định là Arius đúng. Năm 327, Hoàng đế Constantine I bắt đầu hối hận về những quyết định được đưa ra tại công đồng Nicea. Dưới tác động của Eusebius thành Nicomedia, hoàng đế mở công đồng Tyro (335), ân xá cho Arius và chào đón ông quay trở lại.
Trái lại Công đồng Sardica (343) kết án Athanasius. Athanasius bị đi đày ở Trèves Hilariô, Eusebius thành Vercellis bị lưu đày ở Đông phương. Thế nhưng cả Athanasius và Eusebius trong những năm bị đày đã tiếp tục rao giảng cho nhiều giới về tầm quan trọng của vấn đề, sự nguy hiểm của lạc thuyết Arian.
Tại Rôma, Giáo hoàng đối lập Fêlix II đoạn quyền Giáo hoàng Libêrô đang ở chốn tù đày. Dưới áp lực, Libêrô đã kết án những ai dùng từ homoousios để truyền bá thuyết Sabellius (một Chúa với ba hình thức). Năm 359, hoàng đế thành công khi đưa ra công thức homoios: "Chúa Giêsu giống Chúa Cha theo như Kinh Thánh dạy".
Năm 361, tân hoàng đế Julianus (361-363) cho các Giám mục công giáo cũng như phái Arian đang bị lưu đày được trở về. Ở Tây phương, Hilarius (367) và Eusebius (370) đã thuyết phục được hàng giáo sĩ Gaulois và Ý trở về với tín điều của Công đồng Nicea. Trong khi đó, Athanasius cũng đạt được kết quả nơi hàng giáo sĩ Ai Cập và Palestina (qua công đồng Alexandria năm 362). Ngoại trừ phe Arian thuần túy, còn hầu hết đều nhìn nhận Công đồng Nicea.
Thế nhưng khi hoàng đế Valens (364-378) lên cai trị đế quốc Đông phương, ông lại ủng hộ phe Arian. Ông ra lệnh đưa đi đày nhiều Giám mục. Lần thứ hai Athanasius phải rời khỏi Alexandria trong gần một năm.
Ba giáo phụ xứ Cappadocia là Basilius (379), Gregori Nazianzen (390) và Gregori Nyssen (395) cũng tuyên bố trung thành với công đồng Nicea nhưng tìm ra một lối trình bày mới cho tín điều Chúa Ba Ngôi. Trước đó có hai luồng quan điểm. Một là nhấn mạnh về Bản tính duy nhất (una ousia) tin rằng không có sự khác biệt về Bản tính trong Ba Ngôi. Hai là nhấn mạnh vào sự phân biệt Ngôi vị (treis hypostases).
Các giáo phụ xứ Cappadocia đưa ra quan điểm: Thiên Chúa Ba Ngôi vị (treis hypostases), nhưng Ba Ngôi đồng (cùng một) Bản tính (una ousia). Điều này vừa chống lại chủ trương của phe Arian: "Chúa Con khác Chúa Cha về Bản tính", vừa chống lại lạc thuyết Sabellius: "Chúa Cha và Chúa Con cùng một Ngôi vị".
Lạc giáo về Chúa Thánh Thần. Họ chủ trương Chúa Thánh Thần chỉ là một tạo vật như Chúa Con và còn kém hơn. Từ năm 360, đã có một số Giám mục phe Arian đưa ra chủ trương này. Với sự đỡ đầu của Macedonius Giám mục Constantinopoli, và Marathon Giám mục Nicomedia, thuyết này mở rộng khá mạnh.
Dựa vào câu "Lời đã thành xác phàm" (Logos-sarx egeneto) trong Tin Mừng Gioan 1,14, Apollinaire, Giám mục Laodicea cho rằng Ngôi Lời đảm nhận một bản tính nhân loại không có linh hồn. Đức Kitô là Ngôi Lời thần linh nhập thể. Là một con người thiên thai, Đức Kitô sử dụng thân xác như một dụng cụ. Nhiều Thượng Hội đồng địa phương, nhiều giáo phụ như Epiphane, Gregoire de Nysse, Gregoire de Nazianze chống lại ông.
Thời gian này cũng nổi lên chủ trương "nghiêm trị" của giám nục Lucifer thành Cagliari: không tha thứ những người đã xúc phạm đến Chúa, những người đã sa ngã tại Rimini phải rửa tội lại. Nhưng Athanasius, tại công đồng Alexandria (362), tuyên bố: "Chỉ đòi họ thành thật bỏ lạc thuyết" mà không phải rửa tội lại.
Công đồng
Công đồng đại kết Constantinople (381) trích trong Bài giảng của Grégory de Nazianzus (BNF MS grec 510), folio 355.
Triệu tập và chủ tọa
Năm 381, hoàng đế Theodosius I triệu tập công đồng Constantinopoli.
Công đồng gồm 150 Giám mục công giáo Đông phương và 36 Giám mục phe Macedonius. Trong những phiên họp đầu tiên, thấy con số của mình quá ít, các Giám mục phe Macedonius đã rút lui.
Công đồng đặt dưới quyền chủ tọa của ba vị liên tiếp: Giám mục Melecius thành Antiokia, Gregori Nazianzen Giám mục thành Constantinopoli, Giám mục Nectar. Không có đại diện nào của Giáo hoàng Đamasô I đến dự.
Nội dung
Công đồng nhìn nhận giáo thuyết Nicea, và thêm vào bản Tuyên xưng đức tin của Nicea về Chúa Giêsu như sau: "Bởi phép Đức Chúa Thánh Thần, Người đã nhập thể trong lòng Trinh Nữ Maria, và đã làm Người. Người chịu đóng đinh vào thập giá vì chúng tôi, chịu khổ hình và mai táng thời Phongxiô Philatô".
Về Chúa Thánh Thần, công đồng thêm câu: "Tôi tin kính Đức Chúa Thánh Thần là Thiên Chúa, và là Đấng ban sự sống, Người bởi Đức Chúa Cha và Đức Chúa Con mà ra. Người cùng được phụng thờ và tôn vinh với Đức Chúa Cha và Đức Chúa Con. Người đã dùng các ngôn sứ mà phán dạy".
Về tổ chức giáo hội, công đồng theo quy định:
Các Giám mục "khu vực" không can thiệp vào những giáo hội không thuộc quyền mình, cũng không được gây bất ổn cho giáo hội đó, nhưng cứ theo luật, Giám mục Alexandria chỉ điều hành công việc ở Aicập, các Giám mục Đông phương thì chỉ điều hành công việc ở Đông phương; vẫn giữ những đặc quyền dành cho giáo hội Antiokia theo các điều khoản của công đồng Nicea; các Giám mục ở Tiểu Á chỉ điều hành công việc ở Pont, các vị ở Thrace thì lo việc của Thrace...
Giám mục Constantinople có quyền danh dự kế sau Giám mục Roma, vì thành phố này là Roma mới.
Công Đồng Constantinople cũng lên án lạc giáo của Apollinaire: "Chúng tôi không đồng ý với chủ trương Ngôi Lời đảm nhận một thân xác không có linh hồn, không có trí tuệ, vì biết chắc rằng Ngôi Lời Thiên Chúa trọn hảo từ muôn thuở, đã trở thành con người cách trọn vẹn vào thời sau cùng để cứu độ chúng ta" (Lá thư các Giám mục họp tại Constantinople gởi Giáo hoàng Đamasô I năm 382).
Ảnh hưởng
Vì không xác định danh từ và quan niệm về vấn đề nhiệm xuất của Chúa Thánh Thần: bên Tây phương dùng công thức "a Patre Filioque procedit" (Bởi Đức Chúa Cha và Đức Chúa Con mà ra), còn bên Đông phương dùng: "a Patre per Filium procedit" (Bởi đức Chúa Cha qua đức Chúa Con mà ra). Sự khác biệt này sẽ đưa đến cuộc tranh luận sau này về vấn đề Filioque.
Các Giám mục Pháp và Bắc Ý cũng họp nhau tại Aquiléa truất phế các Giám mục theo Arian. Phe Arian biến dần, chỉ còn sót lại nơi dân German do Giám mục Wulfila phổ biến.
👁️
0 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Công đồng Constantinopolis đầu tiên** được công nhận là Công đồng chung thứ hai của Cảnh giáo, Chính thống giáo Cổ Đông phương, Chính thống giáo Đông Phương, Công giáo Rôma, Công giáo Cổ, Anh
**Công đồng Êphêsô** là công đồng chung thứ ba của Kitô giáo. Vào thế kỷ thứ 5 Nestorio, giáo chủ Constantinopolis chủ trương rằng: "_Chúa Giêsu có hai bản tính nên có hai ngôi vị.
**Công đồng constantinople IV** là công đồng thứ 8 của Công giáo nhóm họp năm 870, do Hoàng đế Basilius I triệu tập, dưới triều Giáo hoàng Adrianus II. Có khoảng 120 giám mục Đông
**Công đồng Constantinople II** do Hoàng đế Justinianus I triệu tập vào năm 553 dưới triều Giáo hoàng Vigilius. Có khoảng 150 giám mục Đông Phương, 8 giám mục Phi Châu tham dự 8 khóa
thumb|Công đồng Calcêđônia **Công Đồng Calcêđônia** đã đưa ra một định nghĩa quan trọng có tính cách quyết định cho việc trình bày đức tin về tín điều Nhập thể của Chúa Giêsu. Công đồng
phải|nhỏ|Tranh vẽ [[Constantinus Đại đế (giữa), cùng các Giám mục của Công đồng Nicaea I (năm 325), trên tay họ cầm bảng Kinh Tin Kính Nicea-Constantinopolis năm 381.]] **Bảy công đồng đại kết đầu tiên**
**Biên niên sử Giáo hội Công giáo Rôma** này ghi lại nhiều sự kiện xảy ra trong lịch sử Giáo hội Công giáo Rôma trải dài gần hai nghìn năm, song song cùng lịch sử
nhỏ|phải|_Chúa Kitô Toàn năng_, tranh vẽ [[thế kỷ 6|thế kỷ thứ 6, bức linh ảnh cổ xưa tại Tu viện Thánh Catarina (Sinai).]] **Giáo hội Chính thống giáo Đông phương**, tên chính thức là **Giáo
**Đại Ly giáo** hay **Ly giáo Đông–Tây** là sự kiện chia rẽ Kitô giáo xảy ra vào thời Trung Cổ mà kết quả là hai hệ phái Kitô giáo được hình thành: phương Đông (theo
**Chính thống giáo Cổ Đông phương** là các Giáo hội Kitô giáo Đông phương chỉ công nhận ba công đồng đại kết đầu tiên: Công đồng Nicaea thứ nhất, Công đồng Constantinopolis thứ nhất và
**Giáo hội Công giáo**, gọi đầy đủ là **Giáo hội Công giáo Rôma**, là giáo hội Kitô giáo được hiệp thông hoàn toàn với vị giám mục giáo phận Rôma, hiện tại là Giáo hoàng
**Đế quốc Byzantine**, còn được gọi là **Đế quốc Đông La Mã**, là sự tiếp nối của Đế quốc La Mã ở các tỉnh phía đông trong thời kỳ Hậu Cổ đại và Trung cổ
**Justinian I** (; _Flávios Pétros Sabbátios Ioustinianós_) ( 482 13 tháng 11 hay 14 tháng 11 năm 565), còn được biết đến trong tiếng Việt với tên gọi **Justinianô** trong các bản dịch của Giáo
**Suleiman I** (; ; 6 tháng 11 năm 14946 tháng 9 năm 1566) là vị Sultan thứ 10 và trị vì lâu nhất của đế quốc Ottoman, từ năm 1520 cho đến khi qua đời
**Giáo hoàng Lêôn I** hay **Lêôn Cả** (Latinh: _Leo I_) là giáo hoàng thứ 45 của Giáo hội Công giáo Rôma, kế vị giáo hoàng Xíttô III. Ông là một trong những vị Giáo hoàng
**Alexios I Komnenos** (, 1048 hoặc 1056 – 15 tháng 8, 1118), là Hoàng đế Đông La Mã từ năm 1081 đến năm 1118. Xuất thân là một tướng lĩnh và điền chủ, dù không phải
Bài này là một tổng quan về **lịch sử Trung Đông**. Để có thông tin chi tiết hơn, xem các bài viết riêng về lịch sử các quốc gia và các vùng. Để thảo luận
**Cộng hòa Venezia** (, _Repùblica Vèneta_ hoặc **') là một quốc gia xuất phát từ thành phố Venezia ở Đông Bắc Ý. Quốc gia này đã tồn tại trong một thiên niên kỷ, từ cuối
**István I**, còn được gọi là **Vua thánh** **Stêphanô** ( ; ; hay ; – 15 tháng 8 năm 1038), là đại vương công cuối cùng của người Magyar từ năm 997 đến năm 1000/1001
**Giáo hoàng Grêgôriô I** (Latinh: _Gregorius I_), thường được biết đến là **Thánh Grêgôriô Cả**, là vị giáo hoàng thứ 64 của Giáo hội Công giáo. Cùng với Giáo hoàng Lêôn I, ông được suy
thumb|Hình ảnh vệ tinh của Arwad, phía đông là bờ biển Tartus, [[Syria]] **Arwad**, tên trước đây là **Aradus**, là một thị trấn ở Syria trên một hòn đảo cùng tên nằm ở Địa Trung
**Công quốc Milano** (tiếng Ý: _Ducato di Milano_; tiếng Lombard: _Ducaa de Milan_) là một nhà nước ở Bắc Ý, được thành lập vào năm 1395 bởi Gian Galeazzo Visconti, khi đó là lãnh chúa
thumb|Gaeta vào khoảng năm 1000. **Công quốc Gaeta** là một quốc gia đầu thời Trung Cổ tập trung vào thành phố duyên hải Gaeta ở miền nam nước Ý. Công quốc xuất hiện lần đầu
thumb|Công quốc Benevento của người Lombard vào thế kỷ 8. **Công quốc Benevento** và sau là **Thân vương quốc Benevento** là một công quốc của người Lombard nằm ở cực nam nước Ý thời Trung
**Tín biểu Nicea**, **Bản tín điều Nicea** hay **Kinh tin kính Nicea** (tiếng Latinh: _Symbolum Nicaenum_) là kinh tuyên xưng đức tin của Giáo hội Công giáo. Có hai kinh tin kính mang tên Nicea.
**Cộng hòa Ragusa**, hay **Cộng hòa Dubrovnik**, là một nước cộng hòa hàng hải đặt tại trung tâm thành phố Dubrovnik (_Ragusa_ trong tiếng Ý và Latinh) ở Dalmatia (ngày nay là vùng cực nam
**Công quốc Napoli** (, ) ban đầu là một tỉnh của Đế quốc Đông La Mã được thành lập vào thế kỷ 7, tại các vùng đất ven biển nhỏ bé mà người Lombard đã
**Andronikos I Komnenos** (; khoảng 1118 – 12 tháng 9, 1185), là Hoàng đế Đông La Mã từ năm 1183 đến năm 1185. Ông là con trai của Isaakios Komnenos và là cháu của hoàng
**Romanos I Lekapenos** hoặc **Lakapenos** (, _Rōmanos I Lakapēnos_; khoảng 870 – 15 tháng 6, 948), Latinh hóa thành **Romanus I Lecapenus**, là một người Armenia trở thành tư lệnh hải quân Đông La Mã
**Basileios I**, danh xưng **người xứ Makedonia** (, _Basíleios hō Makedṓn_; 811 – 29 tháng 8, 886) là Hoàng đế Đông La Mã trị vì từ năm 867 đến 886. Sinh ra trong một gia
phải|nhỏ|Sultan [[Mehmed II cùng đoàn binh chiến thắng tiến vào thành Constantinopolis]]**Thành phố Constantinople**, kinh đô của Đế chế Đông La Mã, sụp đổ sau một cuộc vây hãm của Đế chế Ottoman kéo dài
**Theodoros I Komnenos Laskaris** (, _Theodōros I Laskaris_; khoảng 1174 – Tháng 8, 1222) là vị Hoàng đế Nicaea đầu tiên trị vì từ năm 1204 hoặc 1205 cho đến năm 1221 hoặc 1222. ##
**Leo I** () (401 – 474) là Hoàng đế Đông La Mã từ năm 457 đến 474. Vốn là dân vùng Dacia Aureliana gần xứ Thracia trong lịch sử, vì vậy mà ông còn được
nhỏ|Quân thập tự chinh bao vây Damascus năm 1148 **Friedrich I Barbarossa** (1122 – 10 tháng 6 năm 1190) là Hoàng đế của Đế quốc La Mã Thần thánh từ năm 1155 cho đến khi băng
**Flavius Theodosius Augustus** (11 tháng 1 năm 347 – 17 tháng 1 năm 395), cũng được gọi là **Theodosius I** hay **Theodosius Đại đế**, là hoàng đế La Mã) trị vì từ năm 379 đến
**Thượng phụ Đại kết**, tức Thượng phụ thành Constantinopolis là Tổng giám mục thành Constantinopolis và là phẩm bậc cao nhất trong Chính Thống giáo Đông phương, được coi là _primus inter pares_ ("đứng đầu
**Konstantinos IV** (, ), (652 – 685), đôi lúc còn gọi sai là _Pogonatos_ nghĩa là "Có Râu", để khỏi nhầm lẫn với phụ hoàng, là Hoàng đế Đông La Mã từ năm 668 đến
**Albania** hay **Albanie** (An-ba-ni, ), tên chính thức **Cộng hoà Albania** (tiếng Albania: _Republika e Shqipërisë_, IPA ) là một quốc gia tại Đông Nam Âu. Nước này giáp biên giới với Montenegro ở phía
**Manuel I Komnenos "Đại đế"** (hay **Comnenus**) (tiếng Hy Lạp: Μανουήλ Α 'Κομνηνός, _Manouēl I Komnenos_; ngày 28 tháng 11 năm 1118 - 24 tháng 9 năm 1180) là một Hoàng đế Byzantine vào thế
Đây là **Cuộc vây hãm Constantinopolis** quy mô lớn đầu tiên của người Thổ diễn ra vào năm 1422 xuất phát từ những nỗ lực của Hoàng đế Đông La Mã Manuel II nhằm can
**Isaakios I Komnenos** (, _Isaakios I Komnēnos_; k. 1007– 1060/61) là Hoàng đế Đông La Mã từ năm 1057 đến năm 1059, thành viên tại vị đầu tiên của nhà Komnenos. Dưới thời kỳ trị
**Ioannes I Tzimiskes** (, _Iōannēs I Tzimiskēs_; khoảng 925 – 10 tháng 1, 976) là Hoàng đế Đông La Mã từ ngày 11 tháng 12 năm 969 đến ngày 10 tháng 1 năm 976. Là một
**Mikhael I Rhangabe** (, _Mikhaēl I Rhangabe_; _khoảng_ 770 – 11 tháng 1, 844) là Hoàng đế Đông La Mã từ năm 811 đến năm 813. Mikhael là con trai của nhà quý tộc (_patrikios_)
**Venezia** (, , , ), thường gọi "thành phố của các kênh đào" và _La Serenissima_, là thủ phủ của vùng Veneto và của tỉnh Venezia ở Ý. Trong tiếng Việt, thành phố này được
Dưới đây là **danh sách các hoàng đế Đông La Mã**, bắt đầu từ khi thành phố Constantinopolis được thành lập vào năm 330 CN đến khi nó thất thủ vào tay Đế quốc Ottoman
**Cộng hòa Pisa** là một quốc gia độc lập _trên thực tế_ tập trung vào thành phố Pisa của Toscana trong suốt cuối thế kỷ 10 và 11. Nó vươn lên trở thành một cường
**Abbās I** (tức **Abbās Đại đế**, 27 tháng 1 năm 1571 tại Herat – 19 tháng 1 năm 1629) là vua thứ năm của vương triều Safavid trong lịch sử Ba Tư. Ông thường được
**Chiến dịch tấn công chiến lược Iaşi–Chişinău** hay **Chiến dịch tấn công chiến lược Jassy-Kishinev** (,, gọi tắt là **Chiến dịch Iaşi-Chişinău** hay **Chiến dịch Jassy-Kishinev** là một chiến dịch tấn công chiến lược của
**Kitô giáo** hay **Cơ Đốc giáo**, ở Việt Nam đôi khi gọi là **đạo Thiên Chúa** hay **Thiên Chúa giáo**, là một tôn giáo truyền thống Abraham độc thần, đặt nền tảng vào cuộc đời,
**Sylvestrô I** (Latinh: **Sylvester I**) là người kế nhiệm Giáo hoàng Miltiades và là vị Giáo hoàng thứ 33 của giáo hội Công giáo. Năm sinh của ông không được xác định, hình như ông