Leo I () (401 – 474) là Hoàng đế Đông La Mã từ năm 457 đến 474. Vốn là dân vùng Dacia Aureliana gần xứ Thracia trong lịch sử, vì vậy mà ông còn được gọi là Leo người xứ Thracia ( Leōn ha ho Thrax).
Trị vì Đế quốc Đông La Mã trong gần 20 năm từ 457 đến 474 Leo tỏ ra là một nhà lãnh đạo tài ba, ông đã giám sát nhiều kế hoạch chính trị và quân sự đầy tham vọng nhằm mục đích chủ yếu trợ giúp cho Đế quốc Tây La Mã đang dần suy yếu và phục hồi vùng các vùng lãnh thổ của họ như xưa. Ông nổi danh vì là vị Hoàng đế Đông La Mã đầu tiên làm luật viết bằng tiếng Hy Lạp chứ không phải là tiếng Latinh như trước đây.
Ông được Giáo hội Chính Thống giáo phương Đông tưởng niệm như một vị Thánh trong ngày lễ diễn ra vào ngày 20 tháng 1 hằng năm.
Triều đại
[[Đế quốc Đông La Mã vào năm 460 dưới thời Leo I.]]
Leo I hay còn gọi là Leo Marcellus lúc nhỏ sinh ở xứ Thracia hoặc tại tỉnh Dacia Aureliana vào năm 401 trong một gia đình La Mã gốc Thracia. Học giả Candidus Isaurus còn đề cập đến gốc gác Dacia của ông, trong khi John Malalas tin rằng ông xuất thân từ dòng dõi Bessian. Hồi còn trẻ, Leo vốn từng phục vụ trong quân đội La Mã rồi sau do đạt được nhiều chiến công hiển hách mà ông được thăng lên chức comes. Leo là người cuối cùng trong một loạt hoàng đế được đưa lên ngôi báu từ tay viên Đại tướng quân Đông La Mã gốc man tộc Alan là Aspar, vì nghĩ rằng Leo sẽ là một ông vua bù nhìn dễ bề chi phối. Trái lại, Leo ngày càng trở nên độc lập với Aspar, gây nên căng thẳng giữa đôi bên mà sẽ lên đến đỉnh điểm trong vụ ám sát sau này.
Lễ đăng quang của Leo diễn ra vào ngày 7 tháng 2 năm 457, ông là người đầu tiên được biết đến có liên quan đến chức Thượng phụ thành Constantinopolis. Leo I đã vội liên minh với người Isauria nhằm mục tiêu loại bỏ tên quyền thần Aspar. Cái giá của liên minh là Leo phải gả con gái của mình cho Tarasicodissa, thủ lĩnh của người Isauria cùng một cách mà Zeno đã làm khi trở thành hoàng đế vào năm 474. Năm 469, Aspar đã cố gắng phái người ám sát Zeno nhưng bất thành. Cuối cùng vào năm 471, con trai của Aspar là Ardabur có liên can đến một âm mưu chống lại Leo và chẳng mấy chốc cả hai đều bị thủ hạ do ông phái đến ám sát.
Leo đánh giá quá cao khả năng của mình và ông đã mắc phải một số sai lầm đe dọa đến trật tự nội bộ của Đế quốc. Vùng Balkan đã bị người Ostrogoth tàn phá tơi bời sau một bất đồng giữa Hoàng đế và vị thủ lĩnh trẻ tuổi Theodoric Đại đế đã xảy ra tại triều đình của Leo ở Constantinopolis, nơi ông đang đắm chìm với những chiến thuật quân sự và bộ máy cai trị của Đế quốc La Mã. Ngoài ra còn có một số cuộc tấn công của người Hun. Tuy nhiên, những kẻ tấn công đã không thể nào chiếm được Constantinopolis nhờ vào các bức tường thành kiên cố, mà đã được xây dựng lại và củng cố dưới thời Theodosius II nhằm để chống lại những khí cụ công thành đầy uy lực của kẻ thù.
Triều đại của Leo còn đáng chú ý vì ảnh hưởng của ông lên Đế quốc Tây La Mã đã được chứng tỏ bằng việc sắc phong Anthemius làm Hoàng đế Tây La Mã vào năm 467. Ông đã cố gắng vun đắp thành tích chính trị này bằng một cuộc viễn chinh chống lại người Vandal vào năm 468 để rồi bị thảm bại do sự kiêu ngạo của người em rể Basiliscus. Thảm họa này làm tiêu hao binh lính và tiền bạc của Đế quốc. Cuộc viễn chinh này có chi phí lên đến 130,000 bảng vàng và 700 bảng bạc, bao gồm 1113 tàu chở 100.000 quân nhưng đến lúc cuối bị mất 600 tàu. Sau thất bại này, người Vandal càng tăng cường đột kích vùng bờ biển Hy Lạp cho đến khi buộc Leo phải ký kết một thỏa thuận hòa bình tốn kém với Genseric nhằm kết thúc cuộc chiến quá tốn kém này.
Về cuối đời Leo mắc bệnh lỵ nghiêm trọng dù được các danh y tận tình cứu chữa nhưng ông đã không qua khỏi và mất vào ngày 18 tháng 1 năm 474 ở tuổi 73.
Gia đình
Đồng vàng [[solidus (đồng tiền)|solidus của Leo I, được đúc từ năm 462–473 tại Constantinopolis.]]
Leo và Verina có ba người con. Con gái lớn của họ là Ariadne được sinh ra trước khi Marcianus qua đời (trị vì 450-457). Ariadne có một người em gái là Leontia. Leontia lần đầu tiên được hứa gả cho Julius Patricius, con trai của Aspar thế nhưng hôn ước của họ đã bị hủy bỏ khi Aspar và một người con khác của ông là Ardabur bị ám sát vào năm 471. Leontia sau đó kết hôn với Marcianus, một người con của Hoàng đế Anthemius và Hoàng hậu Marcia Euphemia. Cặp đôi này đã dẫn đầu một cuộc nổi dậy bất thành chống lại Zeno vào khoảng năm 478-479. Cuộc nổi dậy bị đàn áp đẫm máu và cả hai đều bị đày biệt xứ đến chốn Isauria.
Một người con trai không rõ danh tính khác của ông được sinh ra năm 463 nhưng mất sớm sau năm tháng hạ sinh. Những nguồn tài liệu duy nhất viết về ông là từ một lá số tử vi của Rhetorius và một cuốn tiểu sử các vị Thánh của Daniel Nhà Ẩn sĩ. Vị vua tiền nhiệm này có lẽ là Leo I, câu chuyện có nhắc đến người con gái thứ ba của Leo. Cyril Toumanoff đã xác nhận vị hoàng đế này có hai người con từ cuộc hôn nhân này là Mithridates xứ Iberia và Leo xứ Iberia. Người con thứ hai Leo này chính là cha của Guaram I xứ Iberia. Tính chính xác về dòng dõi này hiện vẫn còn mơ hồ.
👁️
1 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Leo I** () (401 – 474) là Hoàng đế Đông La Mã từ năm 457 đến 474. Vốn là dân vùng Dacia Aureliana gần xứ Thracia trong lịch sử, vì vậy mà ông còn được
**Zeno** hay **Zenon** (; ; ) (425 – 491), tên thật là **Tarasis**, là Hoàng đế Đông La Mã từ năm 474 tới 475 và một lần nữa từ 476 tới 491. Các cuộc nổi
**Leo II** (, Tiếng Hy Lạp cổ: _Λέων Β_, _Leōn II_; 467 – 474) là Hoàng đế Đông La Mã trị vì chưa đầy một năm vào năm 474. Ông là con trai của Zeno
**Anastasius I** (, ; 430 – 518) là Hoàng đế Byzantine từ năm 491 đến 518. Dưới triều đại của ông biên cương Đế quốc Đông La Mã đã mở rộng việc gia cố lại
**Friedrich III của Đức** ( _Prinz von Preußen_; 18 tháng 10 năm 1831 – 15 tháng 6 năm 1888) là Hoàng đế Đức và là Vua của Phổ trong khoảng ba tháng (99 ngày) từ
**Alexandros** (, _Alexandros_, 19 tháng 9, 866 6 tháng 6, 913), đôi lúc còn gọi là **Alexandros III**, là Hoàng đế Đông La Mã từ năm 912 đến 913. Ông là con trai thứ ba
**Friedrich Wilhelm Viktor Abert von Hohenzollern, Wilhelm II** của Phổ và Đức, (27 tháng 1 năm 1859 – 4 tháng 6 năm 1941) là vị Hoàng đế (_Kaiser_) cuối cùng của Đế quốc Đức, đồng
nhỏ|Vương miện Hoàng đế Áo từ năm 1804 tới 1918. **Hoàng đế Áo**, đôi khi còn gọi là **Áo hoàng** (tiếng Đức: **_Kaiser von Österreich_**) là ngôi Hoàng đế cha truyền con nối và là
Dưới đây là **danh sách các hoàng đế Đông La Mã**, bắt đầu từ khi thành phố Constantinopolis được thành lập vào năm 330 CN đến khi nó thất thủ vào tay Đế quốc Ottoman
**Hoàng đế quân nhân** (còn gọi là "Hoàng đế chiến binh") là một Hoàng đế La Mã chiếm được quyền lực nhờ vào việc chỉ huy quân đội. Những hoàng đế quân nhân đặc biệt
**Giáo hoàng Lêôn I** hay **Lêôn Cả** (Latinh: _Leo I_) là giáo hoàng thứ 45 của Giáo hội Công giáo Rôma, kế vị giáo hoàng Xíttô III. Ông là một trong những vị Giáo hoàng
Dom **Pedro I** (tiếng Việt:Phêrô I; 12 tháng 10 năm 1798 – 24 tháng 9 năm 1834), biệt danh "Người Giải phóng", là người thành lập và nhà cai trị đầu tiên của Đế quốc Brasil. Với
**Aleksandr I** (, Aleksandr Pavlovich; – ) là Sa Hoàng của đế quốc Nga từ 23 tháng 3 năm 1801 đến 1 tháng 12 năm 1825. Ông là người Nga đầu tiên trở thành Vua
**Maximiliano I của México** (tiếng Đức: _Ferdinand Maximilian Joseph Maria von Habsburg-Lothringen_; tiếng Tây Ban Nha: _Fernando Maximiliano José María de Habsburgo-Lorena_; 6 tháng 7 năm 1832 - 19 tháng 6 năm 1867) là một
**Basiliscus** (; ) (không rõ năm sinh, mất năm 476/477) là Hoàng đế Đông La Mã (Byzantine) từ năm 475 đến 476. Ông là một thành viên xuất thân từ Dòng họ Leo, bắt đầu
**Justinian I** (; _Flávios Pétros Sabbátios Ioustinianós_) ( 482 13 tháng 11 hay 14 tháng 11 năm 565), còn được biết đến trong tiếng Việt với tên gọi **Justinianô** trong các bản dịch của Giáo
**Hoàng hậu** (chữ Hán: 皇后; Kana: こうごうKōgō; Hangul: 황후Hwang Hu; tiếng Anh: Empress consort) là danh hiệu dành cho chính thê của Hoàng đế, bởi Hoàng đế sách lập. Danh hiệu này tồn tại trong
**Nhà Sassan**, còn gọi là **Sassanian**, **Sasanid**, **Sassanid**, (tiếng Ba Tư: ساسانیان) hay **Tân Đế quốc Ba Tư**, là triều đại Hỏa giáo cuối cùng của Đế quốc Ba Tư trước sự nổi lên của
**Pavel I của Nga**, còn được chép là **Paul I** (; _Pavel Petrovich_) ( – ) là Hoàng đế Nga từ năm 1796 đến năm 1801. Trong triều đại mình, Pavel đã bãi bỏ nhiều
nhỏ|Quân thập tự chinh bao vây Damascus năm 1148 **Friedrich I Barbarossa** (1122 – 10 tháng 6 năm 1190) là Hoàng đế của Đế quốc La Mã Thần thánh từ năm 1155 cho đến khi băng
**Andronikos I Komnenos** (; khoảng 1118 – 12 tháng 9, 1185), là Hoàng đế Đông La Mã từ năm 1183 đến năm 1185. Ông là con trai của Isaakios Komnenos và là cháu của hoàng
**Basileios I**, danh xưng **người xứ Makedonia** (, _Basíleios hō Makedṓn_; 811 – 29 tháng 8, 886) là Hoàng đế Đông La Mã trị vì từ năm 867 đến 886. Sinh ra trong một gia
**Franz Joseph I Karl của Áo** - tiếng Đức, **I. Ferenc Jozséf** theo tiếng Hungary, còn viết là **Franz Josef I** (18 tháng 8 năm 1830 - 21 tháng 11 năm 1916) của nhà Habsburg
**Giáo hoàng** (, ) là vị giám mục của Giáo phận Rôma, lãnh đạo tinh thần của Giáo hội Công giáo toàn thế giới. Theo quan điểm của Giáo hội Công giáo, giáo hoàng là
**Đế quốc Tây La Mã** là phần đất phía tây của Đế quốc La Mã cổ đại, từ khi Hoàng đế Diocletianus phân chia Đế chế trong năm 285; nửa còn lại của Đế quốc
Giáo hoàng Gioana đội [[Triều thiên Ba tầng, đang trong cuộc diễu hành thì sinh đứa bé. Minh họa thế kỉ 15.]] **Giáo hoàng Gioana** (tiếng Anh: _Pope Joan_), cũng gọi **La Papessa Giovanna** hay
**Lịch sử của chế độ Giáo hoàng** là một lịch sử lâu dài kéo dài trong suốt 2000 năm với rất nhiều sự kiện và biến động. Giáo hội Công giáo nhìn nhận Giáo hoàng
**Lêô III** (Tiếng Latinh: **Leo III**) là vị giáo hoàng thứ 96 của giáo hội Công giáo. Ông đã được Giáo hội suy tôn là thánh sau khi qua đời. Niên giám tòa thánh năm
**Caterina de' Medici** (; – ), hoặc **Catherine de Médicis** theo tiếng Pháp, là một nữ quý tộc người Ý và trở thành Vương hậu nước Pháp từ năm 1547 đến năm 1559, với tư
**Đế quốc Byzantine**, còn được gọi là **Đế quốc Đông La Mã**, là sự tiếp nối của Đế quốc La Mã ở các tỉnh phía đông trong thời kỳ Hậu Cổ đại và Trung cổ
**Lêô X** (Latinh: **Leo X**) là vị giáo hoàng thứ 217 của giáo hội công giáo. Theo niên giám tòa thánh năm 1806 thì ông đắc cử Giáo hoàng năm 1513 và ở ngôi Giáo
**Giáo hoàng Piô IX** (Tiếng Latinh: _Pie IX_; tiếng Ý: _Pio IX_; tên khai sinh: **Giovanni Maria Mastai Ferretti**;) là vị giáo hoàng thứ 255 của Giáo hội Công giáo. Theo niên giám tòa thánh
**Giáo hoàng Hilariô** (Tiếng Latinh: _Hilarius_, tiếng Ý: _Ilario_) là người kế nhiệm giáo hoàng Lêô I và là vị Giáo hoàng thứ 46. Ông đã được suy tôn là thánh của nhà thờ công
**Giáo hoàng Grêgôriô I** (Latinh: _Gregorius I_), thường được biết đến là **Thánh Grêgôriô Cả**, là vị giáo hoàng thứ 64 của Giáo hội Công giáo. Cùng với Giáo hoàng Lêôn I, ông được suy
**Giáo hoàng Phaolô III** (Tiếng Latinh: **Paulus III**, Tiếng Ý: _Paolo III_) (29 tháng 2 năm 1468 – 10 tháng 11 năm 1549) là vị Giáo hoàng thứ 220 của Giáo hội Công giáo Rôma.
**Lêôn IX** (Latinh: **Leo IX**) là người kế nhiệm Giáo hoàng Đamasô Nhị Thế và là vị giáo hoàng thứ 152 của Giáo hội Công giáo. Ông đã được giáo hội suy tôn là thánh
**Lêô VIII** (Latinh: _Leo VIII_) là người kế nhiệm Giáo hoàng Biển Đức V và là vị giáo hoàng thứ 132 của Giáo hội Công giáo. Theo niên giám Tòa Thánh năm 2003 thì ông
**Yekaterina I Alekseyevna** (tiếng Nga: Екатери́на I Алексе́евна; 15 tháng 4 năm 1684 – 17 tháng 5 năm 1727), hay còn gọi với tên gọi **Yekaterina I**, là Nữ hoàng đầu tiên của Đế quốc
**Charles I của Anh** (19 tháng 11 năm 1600 – 30 tháng 1 năm 1649) là vua của ba vương quốc Anh, Scotland, và Ireland từ 27 tháng 3 năm 1625 đến khi bị hành quyết
**Gioan XII** (Latinh: **Johnnes XII**) là vị giáo hoàng thứ 130 của Giáo hội Công giáo. Ông là người kế nhiệm Giáo hoàng Agapêtô II. Theo niên giám Tòa Thánh năm 2003 thì ông đắc
**Clêmentê VII** (Latinh: **Clemens VII**) là vị giáo hoàng thứ 219 của giáo hội công giáo. Theo niên giám tòa thánh năm 1806 thì ông được bầu làm Giáo hoàng năm 1523 và ở ngôi
**Gioan Phaolô II** (hay **Gioan Phaolô Đệ Nhị;** tiếng Latinh: _Ioannes Paulus II_; tên khai sinh: **Karol Józef Wojtyła,** ; 18 tháng 5 năm 1920 – 2 tháng 4 năm 2005) là vị giáo hoàng
**Đế quốc Quý Sương**, tức **Đế quốc Kushan** (vào khoảng thế kỷ thứ 1–3), là một cường quốc cổ đại tại Trung Á. Vào thời đỉnh cao (105-250), đế chế này trải dài từ Tajikistan
**Đế quốc Tây Ban Nha** () là một trong những đế quốc lớn nhất thế giới và là một trong những đế quốc toàn cầu đầu tiên trên thế giới. Đạt tới thời kỳ cực
**Biển Đức V** hoặc **Bênêđictô V** (Latinh: _Benedictus V_) là giáo hoàng thứ 131 của Giáo hội Công giáo. Theo niên giám Tòa Thánh năm 1806 thì ông đắc cử Giáo hoàng năm 964, là
**Grêgôriô II ** (Tiếng Latinh: _Gregorius II_) là vị giáo hoàng thứ 89 của giáo hội Công giáo. Ông là người kế nhiệm Giáo hoàng Constantinô và đã được giáo hội suy tôn là thánh
nhỏ| Các loại vỏ sò, [[san hô, hàm cá mập và cá đòn khô được bày bán ở Hy Lạp ]] nhỏ| Bướm, [[bướm đêm, bọ cánh cứng, dơi, bọ cạp Hoàng đế và nhện
**Suleiman I** (; ; 6 tháng 11 năm 14946 tháng 9 năm 1566) là vị Sultan thứ 10 và trị vì lâu nhất của đế quốc Ottoman, từ năm 1520 cho đến khi qua đời
**Đế quốc Nga** () là một quốc gia tồn tại từ năm 1721 đến khi Chính phủ lâm thời lên nắm quyền sau cuộc Cách mạng Tháng Hai năm 1917. Là đế quốc lớn thứ
**Nicôla I** (Latinh: Nicolaus I) là vị giáo hoàng thứ 105 của giáo hội Công giáo. Là người kế nhiệm Giáo hoàng Benedict III, Giáo hoàng Nicolau I được giáo hội suy tôn là thánh