✨Đệ Nhất Đế quốc Bulgaria

Đệ Nhất Đế quốc Bulgaria

Đế quốc Bulgaria thứ nhất (, Latin hoá: blŭgarĭsko tsěsarǐstvije ) () là một nhà nước Bulgaria thời trung cổ được thành lập ở phía đông bắc bán đảo Balkan năm 680 bởi người Bunga, đã chặn đứng và đánh đuổi Đế quốc Byzantine và liên minh với những người định cư Slavơ nam. Vào thời hoàng kim của mình, nó trải dài từ Budapest đến biển đen và từ sông Đa-Nuýp tại Ukraina hiện đại đến biển Adriatic. Khi nhà nước này đã củng cố vị trí của nó ở bán đảo Ban-Kăng, nó tham gia vào một mối liên hệ dài nhiều thế kỷ, khi thi thân thiện, khi thì thù địch với Đế quốc Byzantine. Bulgaria hiện diện như là địch thủ lớn nhất của Đế quốc Byzantine ở bán đảo Ban-Kăng, gây nên nhiều cuộc chiến tranh. Tuy nhiên hai thế lực cũng hưởng những thời kỳ hòa bình và liên minh, đặc biệt trong Cuộc vây hãm Constantinopolis của người Ả Rập lần hai, quân Bulgaria đóng vai trò quyết định trong cuộc giải vây. Thành phố Byzantium có một ảnh hưởng văn hóa mạnh mẽ lên Bulgaria, điều mà cũng dẫn đến sự chấp nhận Thiên Chúa giáo sau cùng của Bulgaria năm 864. Sau sự tan rã của Hãn quốc Avar, người Bulgaria bành trướng lãnh thổ đến bình nguyên Pannonian (ở Hungary ngày nay). Sau đấy, người Bulgaria đối diện với bước tiến công của người Pecheneg và Cuman, và giành được chiến thắng quyết định trước người Hungary, buộc họ chấp nhận dừng chân dài lâu ở Pannonia.

Vào cuối thế kỷ thứ 9 và đầu thế kỷ thứ 10, Sa hoàng Simeon I giành được một chuỗi thắng lợi trước Đế quốc Byzantine, và bành trướng Đế quốc Bulgaria đến tột đỉnh của nó. Sau sự hủy diệt của quân Byzantine trong trận Achelous năm 917, người Bulgaria vây hãm Constantinopolis năm 923 và 924. Các cuộc chiến tranh với người Croắc-ti-a, Hungary, Pecheneg và Séc-bi và sự lan rộng của dị giáo Bogomil đã làm suy yếu Bulgaria sau cái chết của Simeon. Một hòa bình lâu dài đã được ký kết với Đế quốc Byzantine và cuối cùng họ(Byzantine) đã phục hồi, chiến thắng cuộc phân tranh cuối cùng từ năm 968 đến 1018, sau đấy là việc Đế quốc Bulgaria thứ nhất chấm dứt tồn tại. Nó được tiếp nối bởi Đế quốc Bulgaria thứ hai năm 1185.

Sau sự chấp nhận Thiên Chúa giáo năm 864, Bulgaria trở thành trung tâm của slavơ châu Âu. Vị trí lãnh đạo văn hóa của nó được củng cố thêm bằng việc sáng tạo ra bảng chữ cái Cyrillic tại thủ đô Preslav, và văn học viết bằng tiếng Bulgaria cổ nhanh chóng bắt đầu lan rộng lên phương bắc. Tiếng Bulgaria cổ trở thành ngôn ngữ chung của Đông Âu, nơi nó được biết với tên gọi Tiếng Slavơ Giáo hội Cổ. Năm 927 nhà thờ Chính thống giáo Bulgaria hoàn toàn độc lập được chính thức thừa nhận.

Giữa thế kỷ thứ 7 và 10, cư dân địa phương, người Bunga và các bộ tộc khác trong Đế quốc, bị áp đảo bởi người Slavơ, dần dần bị họ (người Slavơ) hấp thụ, chấp nhận ngôn ngữ nam slavơ. Từ cuối thế ky thứ 10, những cái tên "dân tộc Bulgaria" và "người Bulgaria" trở nên phổ biến và trở thành những danh tính lâu dài cho cư dân địa phương, cả trong văn học và trong ngôn ngữ nói. Sự phát triển của việc biết đọc viết tiếng Slavơ Giáo hội Cổ có tác dụng ngăn ngừa sự đồng hóa của người Sla-vơ Nam vào các nền văn hóa lân cận, đồng thời kích thích sự hình thành của một bản sắc Bun-ga-ri riêng biệt.

Tên gọi

Đế quốc Bulgaria thứ nhất được biết tới đơn giản là Bulgaria từ khi được thừa nhận bởi Đế quốc Byzantine Empire năm 681. Một số nhà sử học dùng các cụm từ Bulgaria Đa-nuýp, Nhà nước Bulgaria thứ nhất, hoặc Tsardom (Đế quốc) Bulgaria thứ nhất. Từ năm 681 đến 864 đất nước này cũng được biết tới là Hãn quốc Bulgaria, Hãn quốc Bulgaria Đa-Nuýp, hoặc Hãn quốc Bunga Đa-Nuýp nhằm phân biết nó với Bulgaria Volga, nhà nước tồn tại từ nhóm người Bunga khác. Vào thời kỳ đầu, đất nước này còn được gọi là nhà nước Bunga hoặc Qaghnate Bunga. Từ năm 864 đến 917/927, quốc gia này được biết đến là Công quốc Bulgaria hoặc Knyazhestvo Bulgaria.

Được hình thành như một liên minh giữa người Bunga và Slavơ, cho việc bảo vệ lẫn nhau trước Đế quốc Byzantine ở phía nam và Hãn quốc Avar về phía tây-bắc, Đế quốc Bulgaria thứ nhất được điều hành theo truyền thống Bunga với người đứng đầu nhà nước là Khả Hãn. Người Slavơ giữ sự tự trị lớn và sau cùng ngôn ngữ và các truyền thống của họ định hình con người và văn hóa Bulgaria bằng việc Bulgaria trở thành một quốc gia slavơ.

Bối cảnh

Vào cuối thời kỳ Đế quốc La Mã, các vùng đất Bulgaria ngày nay được tổ chức thành các tỉnh - Scythia Minor, Moesia (thượng và hạ), Thrace, Macedonia (thứ nhất và thứ hai), Dacia (Bắc Đa-Nuýp), Dardania, Rhodope và Hemimont, và có một dân số hỗn tạp gồm người Getae bị la mã hóa và người Thracia bị hi lạp hóa. Vài làn sóng di cư liên tục của người Slavơ suốt thế kỷ thứ 6 và thứ 7 dẫn đến sự slavơ hóa hầu như hoàn toàn của khu vực, ít nhất về mặt ngôn ngữ.

Người Bunga

Người Bunga, bao gồm các nhóm người Thổ và chắc chắn cả các nhóm người Sarmatia-Scythia, hình thành nên một phần Hãn quốc của người Thổ ở phía tây. Giữa năm 630 và 635, Hãn Kubrat thống nhất các bộ lạc người Bunga chủ chốt, thành lập một liên minh hùng mạnh gọi là Đại Bulgaria Cổ, hay được biết tới là Onoguria. Dưới áp lực mạnh mẽ của hãn quốc Khazar Đại Bulgaria Cổ tan rã năm 668. Sau đó Hãn Asparuh tách ra để tìm một mảnh đất an toàn. 30.000 đến 50.000 người Bunga đi theo ông. Năm 680 Asparukh thành lập Đế quốc Bulgaria thứ nhất sau trận Ongal, phía nam sông Đa-Nuýp trên lãnh thổ Byzantine. Nó được công nhận chính thức là một nhà nước độc lập bởi Đế quốc Byzantine năm 681.

Sự thành lập dân tộc Bulgaria

Thực sự chắc chắn rằng người Bunga gốc bị áp đảo rất nhiều bởi dân số Slavơ. Giữa thế kỷ thứ 7 và 10, những người còn sót lại của cư dân bản xứ và người Bunga từ từ bị đồng hóa bởi người Slavơ, chấp nhận ngôn ngữ nam Slavơ

Người kế nhiệm của Hãn Asparuh, Khả Hãn Tervel giúp hoàng đế Byzantine bị phế truất lấy lại ngai vàng năm 705. Đổi lại ông ta được tặng vùng Zagore phía bắc Thrace, đó là cuộc bành trướng đầu tiên của đất nước xuống phía nam dãy Ban-Kăng. Tuy nhiên ba năm sau Justinian cố lấy lại nó bằng vũ lực, nhưng quân của ông ta bị đánh bại tại trận Anchialus. Năm 716 Hãn Tervel ký một giao kèo quan trọng với Byzantine. Trong cuộc vây hãm Constantinopolis năm 717-718 ông gửi 50.000 quân đến giúp thành phố bị bủa vây. Trong trận đánh quyết định quân Bulgaria đã tàn sát khoảng 30.000 người ả rập và Hãn Tervel được gọi là Vị cứu tinh của châu âu vào thời của ông.

Bất ổn nội bộ và tranh đấu tồn tại

Hãn Sevar, công tử cuối cùng của bộ lạc Dulo, chết năm 753. Với cái chết của ông ta Hãn quốc rơi vào một cuộc khủng hoảng chính trị dài trong khi quốc gia trẻ đang trên bờ vực của sự diệt vong. Chỉ trong 15 năm, bảy Khả Hãn cầm quyền, tất cả trong số họ bị giết. Có hai phe cánh chính: một số quý tộc muốn chiến tranh không khoan nhượng chống lại Đế quốc Byzantine, trong khi những người khác lại tìm kiếm một thỏa hiệp hòa bình cho cuộc chiến. Tình trạng bất ổn đó được sử dụng bởi hoàng đế Byzantine Constantine V (745–775), người đã triển khai 9 chiến dịch lớn nhằm xóa sổ Bulgaria. Năm 763 ông đánh bại Hãn Bulgaria Telets ở trận Anchialus, nhưng quân Byzantine không thể tiến xa hơn về phía bắc. Năm 775 Hãn Telerig đánh lừa Constantine bằng việc tiết lộ những thành viên trung thành với ông tại cung điện Bulgaria, rồi xử tử tất cả mật thám Byzantine ở thủ đô Pliska. Dưới thời người kế vị ông Hãn Kardam, cuộc chiến giành được một sự xoay chiều thuận lợi sau đại thắng tại trận Marcelae năm 792. Đế quốc byzantine hoàn toàn bị đánh bại và bị buộc phải triều cống một lần nữa cho các Hãn. Là một kết quả của chiến thắng, khủng hoảng cuối cùng được giải quyết, và Bulgaria bước vào thế kỷ mới ổn định, mạnh hơn, và được củng cố.

Bành trướng lãnh thổ

nhỏ|trái|Hãn [[Krum ăn mừng sau chiến thắng ở Varbitsa Pass.]]

Dưới thời đại hãn Krum (803–814), còn được biết đến là Crummus và Keanus Magnus, Bulgaria bành trướng về phía nam và phía tây-bắc, chiếm đóng lãnh thổ giữa trung Đa-Nuýp và Moldova, toàn bộ lãnh thổ România ngày nay, Sofia năm 809 và Adrianople (Edirne hiện đại hoặc ở Odrin Bulgaria) năm 813, thực sự uy hiếp Constantinopolis. giữa năm 804 và 806 quân Bulgaria hoàn toàn xóa sổ Hãn quốc Avar và biên giới với Đế quốc Frank được thiết lập dọc trung Đa-Nuýp. Năm 811 một đạo quân Byzantine đông đảo bị đánh bại một cách quyết định tại trận Varbitsa Pass. Hoàng đế Byzantine Nicephorus I bị giết cùng tất cả binh lính của mình, và sọ của ông được sử dụng như một chiếc cốc ống rượi. Krum ngay lập tức nắm thế chủ động và chuyển cuộc chiến sang Thrace, đánh bại Đế quốc Byzantine thêm lần nữa ở trận Versinikia năm 813. Sau khi một người Byzantine nham hiểm cố giết vị Hãn trong các cuộc thương lượng, Krum cướp phá toàn bộ Thrace, đoạt chiếm Odrin, và cho định cư 10.000 cư dân trong "Bulgaria xuyên sông Đa-Nuýp". Ông chuẩn bị chu đáo để giành lấy Constantinopolis: 5,000 xe ngựa kéo bọc sắt được đóng để tải thiết bị vây hãm; Đế quốc Byzantine thậm chí cầu xin sự trợ giúp từ hoàng đế Frank Louis Mộ Đạo. Tuy nhiên do cái chết đột ngột của đại hãn, chiến dịch không bao giờ được tiến hành. Hãn Krum đã thi hành cải cách pháp lý, xây dựng các luật lệ công bằng và sự trừng trị cho tất cả các sắc tộc sống trong biên giới đất nước, nhằm giảm đói nghèo và làm mạnh các mối quan hệ xã hội bên trong nhà nước được mở rộng rất nhiều của mình. Lãnh thổ Bulgaria cuối thời Hãn Krum năm 814.

Hãn Omurtag (814–831) ký một hiệp ước hòa bình 30 năm với Đế quốc Byzantine, do đó cho phép hai quốc gia khôi phục kinh tế và tài chính của mình sau những cuộc chiến đẫm máu trong thập kỷ đầu tiên của thế kỷ. vùng biên giới tây bắc với Đế quốc Frank được định cư mạnh mẽ dọc trung lưu sông Đa-Nuýp năm 827. Việc xây dựng quy mô được tiến hành ở thủ đô Pliska, bao gồm xây dựng một cung điện lộng lẫy, các nhà thờ đa thần, tư dinh cho các vua, thành trì, pháo đài, ống dẫn nước, và nhà tắm, chủ yếu từ đá và gạch.

Vào Triều đại ngắn của Hãn Malamir (831–836), thành phố Plovdiv quan trọng được sáp nhập vào đất nước. Dưới thời Hãn Presian (836–852), người Bulgaria chiếm toàn bộ Macedonia, và biên giới đất nước chạm đến biển Adriatic và Aegea. Các nhà sử học Byzantine không đề cập đến bất cứ sự phản kháng nào chống lại sự bành trướng của Bulgaria ở Macedonia, dẫn đến kết quả là cuộc bành trướng diễn ra hoàn toàn bình yên. Giữa năm 839 và 842 người Bulgaria tiến hành cuộc chiến với người Séc-Bi nhưng không tạo ra bước tiến nào.

Bulgaria dưới thời Boris I

Triều đại Boris I (852–889) khởi đầu với nhiều đi xuống. Trong mười năm đất nước chống lại các Đế quốc Byzantine và Frank phía đông, Đại Moravia, người Croắc-ti-a và người Séc-bi lập một số liên minh thất bại và đổi phe. Tháng tám năm 863 có một giai đoạn động đất liên tiếp 40 ngày và có một năm đói kém, gây ra nạn đói khắp đất nước. Và sau cùng, là nạn châu chấu.

Thiên chúa giáo hóa

Bulgaria trong thởi cai trị của Boris I.

Năm 864 Byzantine dưới thời Michael III xâm lược Bulgaria vì nghi ngờ rằng Hãn Boris I chuẩn bị chấp nhận Thiên chúa giáo theo các nghi lễ phương tây. Biết tin về cuộc xâm lược, Boris I triển khai các cuộc đàm phán hòa bình. Byzantine trao trảo một số lãnh thổ ở Macedonia và điều kiện duy nhất của họ là Boris chấp nhận thiên chúa giáo của Constantinopolis chứ không phải Rôm. Hãn Boris I đồng ý yêu cầu và được rửa tội tháng 9 năm 865 nhận tên của cha đỡ đầu là hoàng đế Byzantine Michael, và trở thành Boris-Mihail. Danh xưng đa thần giáo "Hãn" bị từ bỏ và danh xưng "Knyaz" được chấp nhận thay thế. Tuy nhiên, lý do cho sự cải đạo sang Thiên chúa giáo không phải là cuộc xâm lược của Byzantine. Vị vua Bulgaria thực sự là một người có tầm nhìn và ông thấy trước rằng việc đưa vào một tôn giáo độc nhất sẽ hoàn tất sự thống nhất của dân tộc Bulgaria non trẻ, mà vẫn bị chia rẽ vì lý do tôn giáo. Ông cũng biết rằng đất nước của mình không thực sự được tôn trọng bởi châu Âu Thiên chúa giáo và các hiệp ước của đất nước có thể bị lờ đi bởi các bên ký kết khác vì lý do tôn giáo.

Mục đích của Byzantine là đạt được hòa bình điều họ không thể sau hai thế kỷ chiến tranh: để dần dần thu phục Bulgaria qua thiên chúa giáo và biến nó thành một quốc gia vệ tinh, hiển nhiên, các vị trí cao nhất trong Giáo hội Bulgaria vừa được thành lập là phải được nắm giữ bởi Byzantine vì họ thuyết giảng bằng tiếng Hi Lạp. Knyaz Boris I hoàn toàn ý thức về việc đó và sau khi Constantinopolis từ chối chấp nhận quyền tự trị của Giáo hội Bulgaria năm 866, ông đã gửi một đoàn đại diện đến Rôm trình bày mong muốn chấp nhận Thiên chúa giáo theo các nghi thức phương tây cùng 115 câu hỏi cho Giáo hoàng Nicolas I. Vị vua Bulgaria muốn được lợi từ sự cạnh tranh giữa giáo hội ở Rôm và Constantinopolis vì mục đích chính của ông là thành lập một giáo hội Bulgaria độc lập nhằm ngăn cả giáo hội Byzantine lẫn La Mã khỏi gây ảnh hưởng lên đất đai của mình thông qua tôn giáo. Các câu trả lời chi tiết của Giáo hoàng cho những câu hỏi của Boris được gửi đến bởi hai tổng giám mục dẫn đầu một hội truyền giáo, mục đích của hội là thúc đẩy quá trình cải đạo của người Bulgaria. Tuy nhiên, Nicolas I và người kế vị ông Giáo hoàng Adrian II cũng từ chối một Giáo hội Bulgaria độc lập, điều đã làm lạnh nhạt quan hệ giữa hai bên, nhưng sự xích lại gần Rôm của Bulgaria khiến Giáo hội Byzanine hòa hoãn hơn. Năm 870, tại Lần Tụ Họp Thứ Tư (của Công giáo La Mã) ở Constantinople, Giáo hội Bulgaria được thừa nhận là một giáo hội chính thống phương đông độc lập dưới sự quản lý của Giáo chủ Constantinople. Đó là giáo hội đầu tiên chính thức được chấp nhận, ngoài Giáo hội ở Rôm và Constantinople. Sau cùng, năm 893, tiếng Bulgaria cổ trở thành ngôn ngữ chính thức thứ ba, được thừa nhận bởi các giáo hội và sử dụng trong các nghi lễ và tài liệu thiên chúa giáo.

Sự sáng tạo ra hệ thống chữ viết Slavơ

The [[Madara Rider (ca. AD 710), hình nổi trên đá lớn khắc trên Madara Plateau phía đông Shumen, đông bắc Bulgaria.]]

Dù Knyaz Bulgaria thành công trong việc có được một giáo hội độc lập, nhưng giới tăng lữ cao cấp của giáo hội và các sách thần học vẫn là Hi Lạp, điều đó đã cản trở các nỗ lực cải đạo dân thường sang tôn giáo mới. Giữa năm 860 và 863 các tu sĩ Byzantine gốc Hi Lạp Thánh Cyril và Thánh Methodius sáng tạo ra Bảng chữ cái Glagolitic, bảng chữ cái slavơ đầu tiên theo yêu cầu của Hoàng Đế Byzantine, nhắm vào việc cải đạo Đại Moravia sang Thiên chúa giáo chính thống. Tuy nhiên, các nỗ lực này thất bại và năm 866 các môn đồ của họ Clement của Ohrid, Naum của Preslav và Angelarius, những người bị trục xuất khỏi Đại Moravia, đã đến Bulgaria và được chào đón nồng nhiệt bởi Boris I. Vị Knyaz Bulgaria ủy thác sự thành lập hai học viện thần học cho các môn đồ đứng đầu, nơi giới tu sĩ Bulgaria tương lai phải được dạy bằng biệt ngữ địa phương. Clement được gửi tới Ohrid ở tây nam Bulgaria, nơi ông dạy 3.500 đồ đệ giữa năm 886 và 893. Naum thành lập học viện văn chương ở thủ đô Pliska, sau chuyển đến thủ đô mới Preslav. trong Hội nghị ở Preslav năm 893, Bulgaria chấp nhận bảng chữ cái Glagolitic và ngôn ngữ Slavơ Giáo hội Cổ (Tiếng Bulgaria Cổ) là ngôn ngữ chính thức của giáo hội và quốc gia, và trục xuất giới tăng lữ Byzantine. Vào đầu thế kỷ 10 bảng chữ cái Cyrillic được sáng tạo ra ở Học viện văn chương Preslav.

Thời kì hoàng kim

Vào cuối thế kỷ thứ 9 và đầu thế kỷ thứ 10, Bulgaria vươn ra đến Epirus và Thessaly ở phía nam, Bosnia ở phía tây và kiểm soát toàn bộ Rumani ngày nay và đông Hungary về phía bắc. Nhà nước Séc-Bi xuất hiện vào giữa thế kỷ thứ 9 là một kết quả của cuộc bành trướng của Bulgaria phía tây Morava. Thay đổi lòng chung thành giữa Bulgaria và Bizantine, các vua Séc-bi đã ngăn chặn thành công vài cuộc xâm lược của Bulgaria cho đến năm 924, khi nó hoàn toàn bị giảm xuống dưới thời tướng quân và là nhà quý tộc của Sofia Marmais. Dưới thời Sa Hoàng Simeon I (Simeon Đại Đế), người được giáo dục ở Constantinople, Bulgaria lại trở thành một mối đe dọa nghiêm trọng với Đế quốc Byzantine và vươn đến sự mở rộng lãnh thổ tột đỉnh của nó. Simeon I hi vọng chiếm được Constantinople và đánh hàng loạt trận chiến với Byzantine suốt Triều đại dài của mình (893–927). Biên giới gần cuối thời trị vị của ông vươn đến điểm xa nhất phía bắc của Attica tại phía nam. Simeon I tự phong mình "Hoàng đế (Sa Hoàng) của Người Bulgaria và Vua Độc Tôn của Người Hi Lạp", một danh xưng được thừa nhận bởi Giáo hoàng, nhưng dĩ nhiên không được công nhận bởi Hoàng đế Byzantine cũng không từ Giáo chủ của Giáo hội Chính Thống Phương Đông. Ông được công nhận "Hoàng Đế (Sa Hoàng) của người Bulgaria" bởi hoàng đế Byzantine và Giáo chủ chỉ vào cuối thời trị vì của mình.

Simeon gửi các sứ giả đến [[Fatimid Chaliph để thiết lập một liên minh chống lại Byzantine. Hai bên đã gần tiến đến một hiệp ước nhưng trên đường quay về các sứ giả Bulgaria bị Byzantine bắt, họ đã thành công nhằm làm sao lãng người Ả-rập khỏi liên minh đó.]]

Giữa năm 894 và 896 ông đánh bại Byzantine và đồng minh của họ người Hungary thường gọi là "Chiến tranh thương mại" vì lý do của cuộc chiến là sự chuyển dịch của thị trường Bulgaria từ Constantinople sang Solun. Trong trận Bulgarophygon quyết định, quân Byzantine bị đánh bại và chiến tranh kết thúc với thuận lợi cho hòa bình Bulgaria, tuy nhiên nền hòa bình thường bị phá vỡ bởi Simeon I. Năm 904 ông thâu tóm Solun, thành phố trước đó bị cướp bóc bởi người Ả-rập và trao trả nó cho Byzantine chỉ sau khi Bulgaria đã nhận được tất cả các lãnh thổ có người Slavơ sinh sống ở Macedonia và 20 pháo đài ở Albania, bao gồm thành phố quan trọng Drach.

Sau cuộc bạo loạn ở Đế quốc Byzantine mà theo sau là cái chết của Hoàng đế Alexander năm 913, Simeon I xâm lược Byzantine Thrace, nhưng bị thuyết phục ngừng để đổi lại sự công nhận chính thức danh xưng hoàng đế của mình và đám cưới của con gái ông với hoàng đế nhỏ tuổi Constantine VII. Simeon I được mong đợi trở thành nhiếp chính của vị hoàng đế và tạm thời cai trị Đế quốc Byzantine. Tuy nhiên, sau một âm mưu ở cung điện Byzantine, mẹ của Hoàng đế Constantine VII, là Empress Zoe, phủ nhận cuộc hôn nhân và danh hiệu của Simeon, và hai bên sẵn sàng cho một trận quyết chiến. Năm 917 Simeon I phá vỡ mọi nỗ lực của kẻ thù của mình nhằm lập một liên minh với người Hungary, người Pecheneg và người Séc-bi, và Byzantine bị buộc phải chiến đấu một mình. 20 tháng tám hai đội quân đụng độ ở trận Anchialus trong một trong những trận đánh lớn nhất Thời trung cổ. Byzantine chịu một thất bại chưa từng có, bỏ xác 70.000 quân bị giết trên chiến trường. Các lực lượng truy kích Bulgaria thắng trận đáng ghi nhớ trước các quân địch ở trận Katasyrtai. Tuy nhiên, Constantinople được cứu bằng một cuộc tấn công của Séc-bi từ phía tây; người Séc-bi hoàn toàn bị đánh bại, nhưng điều đó tặng khoảng thời gian ngàn vàng cho đô đốc Byzantine và sau đó Hoàng đế Romanos Lakepanos chuẩn bị phòng thủ thành phố. Trong thế kỷ tiếp theo người Bulgaria giành quyền kiểm soát toàn bộ Bán đảo Ban-Kăng trừ Constantinople và Pelopones.

Trong trận Croắc-ti-a-Bulgaria năm 927, (còn thường được gọi là Trận cao nguyên Bosnia), Công tước Alogobotur tấn công Croắc-ti-a. Lực lượng Croắc-ti-a dưới sự lãnh đạo của Vua Tomislav, hoàn toàn tiêu diệt quân Bulgaria, và chấm dứt sự mở rộng của Simeon về phía tây.

Suy Yếu

[[Tập tin:Bulgaria Samuil raster.png|phải|Đế quốc Bulgaria dưới thời Samuil. Thảm họa lớn nhất đến từ phía bắc: giữa năm 934 và 965 đất đước chịu năm cuộc xâm lược của người Hungary. năm 944 Bulgaria bị tấn công bởi người Pecheneg, họ cướp bóc các vùng Đông Bắc của Đế quốc. Dưới thời Peter I và Boris II đất nước bị chia rẽ bởi niềm tin tôn giáo công bình của giáo phái Bogomil.

Năm 968 đất nước bị tấn công bởi Rus Kiev, thủ lĩnh của họ, Svyatoslav I, đã chiếm Preslav và thành lập thủ đô của mình ở Preslavets. Ba năm sau, Hoàng Đế Byzantine John I Tzimiskes can thiệp vào cuộc chiến và chiến thắng Svyatoslav ở Dorostolon. Boris II bị bắt và chính thức bị tước bỏ danh xưng hoàng đế ở Constantinople, và đông Bulgaria bị tuyên bố nền bảo hộ của Byzantine.

Sụp đổ

Sau sự phản bội của Byzantine, các vùng đất ở phía tây Sông Iskar vẫn nằm trong tay Bulgaria và chiến tranh chống lại Byzantine được lãnh đạo bởi các anh em Comitopuli. Năm 976, người anh em thứ tư, Samuil thâu tóm mọi quyền lực vào tay mình sau cái chết của anh cả. Khi người thừa kế hợp pháp ngai vàng, Roman, thoát khỏi sự giam cầm ở Constantinople, ông được Samuil thừa nhận là hoàng đế ở Vidin và sau đó Samuil vẫn giữ vị trí tổng tư lệnh quân Bulgaria. Một vị tướng tài và nhà chính trị giỏi, ông đã thành công thay đổi vận mệnh người Bulgaria. Hoàng đế Byzantine mới Basil II bị đánh bại một cách quyết định trong trận Cổng Trajan năm 986 và vừa kịp chạy trốn. 5 năm sau ông xóa sổ nhà nước Séc-Bi Rascia. Năm 997, sau cái chết của Roman, người thừa kế cuối cùng của Triều đại Krum, Samuil được tuyên bố là hoàng đế của Bulgaria. Tuy nhiên, sau năm 1001, cuộc chiến đổi hướng thuận lợi cho Byzantine, họ trong cùng năm đó đã chiếm các thủ đô cũ Pliska và Preslav, đầu năm 1004 triển khai các chiến dịch hàng năm xâm lược Bulgaria. Byzantine hưởng lợi thêm từ cuộc chiến giữa Bulgaria và vương quốc Hungary mới thành lập năm 1003. Các thắng lợi của Byzantine ở Spercheios và Skopje chính thức làm suy yếu quân Bulgaria và, trong các chiến dịch hàng năm, Basil hạ bệ một cách chiến thuật các thành trì của Bulgaria. Sau cùng, ở trận Kleidion năm 1014, người Bulgaria hoàn toàn bị đánh bại Quân Bulgaria bị bắt; người ta nói rằng 99 trong số tất cả 100 người bị đâm mù, và người thứ 100 còn lại một mắt để đưa những đồng hương quay về (khiến Basil có biệt danh "Bulgaroktonos"-Kẻ Giết Người Bunga). Khi Sa Hoàng Samuil thấy phần còn lại của quân mình bị tan rã, ông đau tim và chết. Năm 1018, thành trì cuối cùng của Bulgaria đầu hàng và Đế quốc Bulgaria Thứ Nhất chấm dứt tồn tại.

Danh sách các Hãn của Đế quốc Bulgaria thứ nhất:

Ernakh (469-503), vua Hung (Hung Nô) cuối cùng sau Attila; người đặt nền móng lập nước Bulgaria Cổ

Utigur (503-520)

Grod (520-528)

Mugel và Chinialus (528-530)

Sandilch

Houdbaad (khoảng 581-c 600)

Organa: 617-639

Gostun: 630-632

Kubrat: 632-665, Khan mạnh nhất của Đại Bulgaria Cổ

Batbayan: 665-668

Asparukh: 681-700

Tervel: 700-721

Kormesiy: 721-738

Sevar: 738-753

Kormisosh: 753-756

Vinekh: 756-762

Telets: 762-765

Sabin: 765-766

Umor: 766

Toktu: 766-767

Pagan: 767-768

Telerig: 768-777

Kardam: 777-803

Krum: 803–814

Omurtag: 814–831

Malamir: 831–836

Presian I: 836–852

Boris I: 852–889

Vladimir: 889-893

Simeon I: 893-927

Petar I: 927-969

Boris II: 970-971

Roman: 977-997

Samuil: 997-1014

Gavril Radomir: 1014-1015

Ivan Vladislav: 1015-1018

Presian II: 1018

Lưu ý

*a. Bulgaria thường được thừa nhận thành lập vào năm 681 khi Đế quốc Byzantine thừa nhận quốc gia này là một nhà nước có chủ quyền trong một hiệp ước. Tuy nhiên, duy nhất một số nhà sử học Bulgaria vẫn giữu một quan điểm thiểu số rằng Bulgaria tồn tại từ năm 632 bằng sự thành lập của Đại Bulgaria Cổ bởi Hãn Kubrat tại Ucraina ngày nay.

Các Chú thích

👁️ 0 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Đệ Nhị Đế quốc Bulgaria** (; ) là thời kỳ lịch sử của Bulgaria kéo dài từ năm 1185 đến 1396. Đây là nhà nước kế thừa Đế quốc Bulgaria thứ nhất, nhà nước này
**Đế quốc Bulgaria thứ nhất** (, Latin hoá: _blŭgarĭsko tsěsarǐstvije_ ) () là một nhà nước Bulgaria thời trung cổ được thành lập ở phía đông bắc bán đảo Balkan năm 680 bởi người Bunga,
**Vườn quốc gia Pirin** () ban đầu có tên là **Vườn quốc gia Vihren** là vườn quốc gia trải rộng trên khu vực diện tích , bao gồm phần lớn dãy núi Pirin ở phía
Trong thời trung cổ của châu Âu, Bulgaria xem như là **Đế quốc Bulgaria** (, ), trong đó, nó hành động như một chính thể quyền lực trong khu vực (đặc biệt so sánh với
**Quân chủ Bulgaria** cai trị quốc gia độc lập Bulgaria trong ba giai đoạn lịch sử: từ việc thành lập Đế quốc Bulgaria đầu tiên vào năm 681 đến cuộc chinh phục Byzantine của Bulgaria
**Mặt trận phía Đông** trong Chiến tranh thế giới thứ nhất bao gồm các chiến trường ở Đông Âu và Trung Âu giữa Liên minh Trung tâm với Nga và Romania thuộc Phe Hiệp ước.
**Người Bulgaria** (, _bǎlgari_, ) là một sắc tộc thuộc người Slav, thuộc nhóm Nam Slav, thường liên quan đến Bulgaria và tiếng Bulgaria. Có những người thiểu số Bulgaria và cộng đồng người nhập
thumb|Tranh miêu tả cảnh người Bulgar theo gót [[Hãn Krum truy đuổi quân Byzantine tại Trận Versinikia (năm 813)]] **Người Bulgar** là những chiến binh người Turk sinh sống theo lối bán du mục ở
**Tengri giáo**, còn được gọi là **Tengrii giáo**, **Tenggeri giáo**, **Tenger giáo**, là một tôn giáo cổ xưa bắt nguồn từ Trung Á và vùng thảo nguyên Á-Âu với trung tâm là thần bầu trời
**Bulgaria**, quốc hiệu là **Cộng hòa Bulgaria**, là một quốc gia nằm tại khu vực đông nam châu Âu. Bulgaria giáp với România về phía bắc, giáp với Serbia và Bắc Macedonia về phía tây,
**Lịch sử của Bulgaria** có thể được bắt nguồn từ các khu định cư đầu tiên trên vùng đất của Bulgaria hiện đại cho đến khi hình thành quốc gia và bao gồm lịch sử
**Mặt trận Balkan** (28 tháng 7 năm 1914 - 29 tháng 9 năm 1918) hay **Chiến trường Balkan** là một trong những mặt trận của Chiến tranh thế giới thứ nhất, diễn ra trên bán
**Vương quốc Bulgaria** () cũng gọi là **Sa quốc Bulgaria** và **Đệ Tam Sa quốc Bulgaria**, là một chế độ quân chủ lập hiến ở Đông và Đông Nam châu Âu, được thành lập vào
**Đế quốc Byzantine**, còn được gọi là **Đế quốc Đông La Mã**, là sự tiếp nối của Đế quốc La Mã ở các tỉnh phía đông trong thời kỳ Hậu Cổ đại và Trung cổ
[[Quốc kỳ Bulgaria trong Chiến tranh thế giới thứ nhất]] Trong Chiến tranh thế giới thứ nhất, Bulgaria là nước thuộc phe Liên minh Trung tâm gồm Đế quốc Đức, Đế quốc Áo-Hung và Đế
**Cộng hòa Nhân dân Bulgaria** ( _Narodna republika Balgariya (NRB)_) là tên chính thức của nước Bulgaria xã hội chủ nghĩa tồn tại từ năm 1946 đến năm 1990, khi mà Đảng Cộng sản Bulgaria
**Ferdinand I của Bulgaria** (Tiếng Bulgaria: ; 26/02/1861 - 10/09/1948),, tên khai sinh là **Ferdinand Maximilian Karl Leopold Maria von Sachsen-Coburg und Gotha**, là vị Vương công thứ hai của Thân vương quốc Bulgaria từ
**Khởi nghĩa ngày 9 tháng 9** hay **Cách mạng Xã hội chủ nghĩa ngày 9 tháng 9** hay **Đảo chính ngày 9 tháng 9** là một sự kiện chính trị-quân sự mang tính bước ngoặt
**Thân vương quốc Bulgaria** (, _Knyazhestvo Balgariya_), là một quốc gia chư hầu của Đế chế Ottoman, nhưng độc lập trên thực tế. Nó được thành lập theo Hiệp ước Berlin năm 1878. Sau khi
**Chiến tranh thế giới thứ nhất**, còn được gọi là **Đại chiến thế giới lần thứ nhất**, **Đệ nhất Thế chiến** hay **Thế chiến I**, là một cuộc chiến tranh thế giới bắt nguồn tại
**Viện hàn lâm Khoa học Bulgaria** (tiếng Bulgaria: Българска академия на науките, _Balgarska akademiya na naukite_, viết tắt _БАН_) là viện hàn lâm quốc gia của Bulgaria, được thành lập năm 1869. Viện là cơ
thumb|Huy hiệu của dòng Ernestines **Các công quốc Ernestine** (tiếng Đức: _Ernestinische Herzogtümer_), còn được gọi là các công quốc Sachsen (Sächsische Herzogtümer, mặc dù các công quốc được cai trị bởi dòng Albertine gồm
**Hội Quốc Liên** là một tổ chức liên chính phủ được thành lập vào ngày 10 tháng 1 năm 1920 theo sau Hội nghị hòa bình Paris nhằm kết thúc Thế Chiến 1. Đây là
**Đế quốc Nga** () là một quốc gia tồn tại từ năm 1721 đến khi Chính phủ lâm thời lên nắm quyền sau cuộc Cách mạng Tháng Hai năm 1917. Là đế quốc lớn thứ
**Boris III** (Tiếng Bulgaria: Борѝс III; sinh ngày 30/01/1894 - mất ngày 28/08/1943), tên đầy đủ là Boris Klemens Robert Maria Pius Ludwig Stanislaus Xaver (Boris Clement Robert Mary Pius Louis Stanislaus Xavier). Ông là
**Đội tuyển bóng đá quốc gia Nga** (, _natsionalnaya sbornaya Rossii po futbolu_) là đội tuyển bóng đá cấp quốc gia của Nga do RFU quản lý và thuộc Liên đoàn bóng đá châu Âu
[[Quốc kỳ Đế quốc Áo-Hung trong Chiến tranh thế giới thứ nhất]] Trong Chiến tranh thế giới thứ nhất, Đế quốc Áo-Hung là nước thuộc khối quân sự Liên minh Trung tâm gồm Đế quốc
**Công quốc Sachsen-Coburg và Gotha** (tiếng Đức: _Herzogtum Sachsen-Coburg und Gotha_) là một nhà nước cấu thành nên Đế quốc Đức, được cai trị bởi một trong những nhánh của dòng Ernestine, chi trưởng của
nhỏ|240x240px|[[Tarator là một món súp lạnh làm sữa chua, nước, dưa chuột băm, thì là, tỏi, và dầu hướng dương hoặc dầu ô liu.]] nhỏ|240x240px|[[Kebab Bulgaria với cơm.]] phải|nhỏ|225x225px|
Truyền thống [[Bulgaria|bungari món ăn Đêm
**Theophilos** (; 813 – 20 tháng 1, 842) là Hoàng đế Đông La Mã từ năm 829 cho đến khi ông qua đời năm 842. Ông là vị hoàng đế thứ hai của triều đại
**Aleksandr I của Bulgaria ** (; 05 tháng 04 năm 1857 - 17 tháng 11 năm 1893), thường được biết đến với cái tên **Alexander xứ Battenberg**, là vị thân vương (knyaz) đầu tiên của
**Hãn quốc Kazan** (tiếng Tatar: Qazan xanlığı/Казан ханлыгы; tiếng Nga: Казанское ханство, chuyển tự: _Kazanskoe khanstvo_) là một nhà nước của người Tatar thời trung cổ nằm trên lãnh thổ của cựu quốc gia Volga
**Chiến tranh Balkan lần thứ nhất** (8 tháng 10 năm 1912 – 30 tháng 3 năm 1913) là cuộc chiến giữa Liên minh Balkan (bao gồm Serbia, Hy Lạp, Montenegro và Bulgaria) và Đế quốc
**Đế quốc Ottoman** còn được gọi là **Đế quốc Osman** (; **', ; or **'; ) hay **Đế quốc Thổ Nhĩ Kỳ**, là một Đế quốc trải rộng xuyên suốt Nam Âu, Trung Đông và
**Đế quốc Nikaia** là đế quốc lớn nhất trong số ba nhà nước kế thừa của đế quốc Đông La Mã, do các quý tộc Đông La Mã bỏ chạy khỏi Constantinopolis bị chiếm đóng
**Hãn quốc Kim Trướng** là một hãn quốc Hồi giáo gốc Mông Cổ, sau này đã Đột Quyết hoá, được thành lập ở vùng phía tây Đế quốc Mông Cổ sau chiến dịch xâm lược
**Trận Çatalca lần thứ nhất**, còn gọi là **Trận Chataldja**, diễn ra từ ngày 17 cho tới ngày 18 tháng 11 năm 1912, Trận đánh mở đầu với ý đồ của hai Tập đoàn quân
**Simeon I** (còn có tên là **Symeon**), hay **Simeon Đại đế** là Sa hoàng Bulgaria từ năm 893 đến năm 927, trong thời kì Đế quốc Bulgaria thứ nhất. Triều đại Simeon được biết như
**Bảo tàng Quốc gia** là một Bảo tàng được điều hành bởi chính phủ của một Quốc gia. =Danh sách Bảo tàng Quốc gia= ## Ấn Độ * Bảo tàng Quốc gia, New Delhi ##
**Evdokiya của Bulgaria** (tiếng Bulgaria: _Княгиня Евдокия_; tên đầy đủ là Evdokiya Augusta Filipina Klementina Mariya; 5 tháng 1 năm 1898 – 4 tháng 10 năm 1985) là một thành viên của Vương thất Bulgaria
**Lục quân Đế quốc Áo-Hung** là lực lượng lục quân của Đế quốc Áo-Hung tồn tại từ năm 1867 khi đế quốc này được thành lập cho đến năm 1918 khi đế quốc này tan
Bài viết này cung cấp tổng quan chung các quốc gia và vùng lãnh thổ bị ảnh hưởng bởi và tình trạng các khu vực bị ảnh hưởng bởi virus Corona, virus gây bệnh coronavirus
thumb|Các quốc gia tham dự lễ khai mạc Thế vận hội 1912 tại Stockholm. Dưới đây là danh sách các **quốc gia**, đại diện bởi Ủy ban Olympic quốc gia (NOCs), đã tham dự **Thế
**Công quốc Hungary** hoặc **Thân vương quốc Hungary** (: "Đại Thân vương quốc Hungary") là nhà nước của người Hungary được ghi nhận sớm nhất ở bồn địa Pannonia, được thành lập 895 hoặc 896,
Trong ngân hàng, thuật ngữ **ngân hàng quốc gia** mang nhiều ý nghĩa: * đặc biệt là ở các nước đang phát triển, một ngân hàng thuộc sở hữu nhà nước * một ngân hàng
**Ngày Quốc tế Phụ nữ** hay còn gọi là **Ngày Liên Hợp Quốc vì Nữ quyền và Hòa bình Quốc tế** được tổ chức vào ngày 8 tháng 3 hằng năm với vai trò là
**Danh sách các nước cộng hòa** là danh sách liệt kê các quốc gia có chính phủ theo thể chế cộng hòa. ## Các quốc gia cộng hòa theo từng thời kỳ ### Cổ đại
Bài này nói về **Biên niên sử của Đế quốc Ottoman** (1299-1922). Xem thêm bài Biên niên sử Cộng hòa Thổ Nhĩ Kỳ, để biết về biên niên sử của nhà nước hậu thân của
**Ngày Âu Châu tưởng niệm các nạn nhân của chủ nghĩa Stalin và chủ nghĩa Quốc xã**, còn được biết tới như **Ngày dải băng Đen** tại một vài quốc gia, mà được cử hành
**Hiệp ước chống Quốc tế Cộng sản** (; ; , _Bōkyō kyōtei(Phòng Cộng Hiệp Định)_), chính thức là **Hiệp ước chống lại Quốc tế Cộng sản** (tiếng Đức: _Abkommen gegen die Kransistische Internationale_), là một