✨Mặt trận phía Đông (Thế chiến thứ nhất)

Mặt trận phía Đông (Thế chiến thứ nhất)

Mặt trận phía Đông trong Chiến tranh thế giới thứ nhất bao gồm các chiến trường ở Đông Âu và Trung Âu giữa Liên minh Trung tâm với Nga và Romania thuộc Phe Hiệp ước. Mặt trận phía Đông và Mặt trận phía Tây trong Chiến tranh thế giới thứ nhất tuy có sự khác nhau về địa lý nhưng diễn ra song song với nhau và có những ảnh hưởng qua lại lẫn nhau. Mặt trận phía Đông bắt đầu từ tháng 8 1914 khi Đế chế Đức tuyên chiến với Đế quốc Nga và kết thúc vào tháng 3 1918 sau hòa ước Brest-Litovsk giữa nước Nga Xô Viết và Đế chế Đức. Chiến thắng trên Mặt trận phía Đông đã mang lại cho nước Đức thêm nhiều lãnh thổ, cho đến khi mất hết sau chiến tranh. nhỏ|trái|[[Paul von Hindenburg (bên trái) và Erich Ludendorff, những người hùng của nước Đức sau trận Tannenberg]] Hindenburg và Ludendorff đã tập trung quân để tiêu diệt từng cánh quân 1 của người Nga. Trước khi 2 người này đến Đông Phổ thì sĩ quan tổng tham mưu của Đức là Max von Hoofman sau khi nghe tin Rennekampf có ý đồ ngừng tiến quân đã cho rút các lực lượng đang chiến đấu với Rennekampf tập trung về Tannenberg để chờ tập đoàn quân số 2 của Samsonov đang từ Ba Lan tiến đến. Ngày 26 tháng 8, trận Tannenberg mở màn. Samsonov biết đang lâm nguy nên cố thủ chờ quân của Rennekampf đến cứu nhưng không được. Ngày 29 tháng 8, Samsonov tự sát và đến ngày 30 tháng 8 thì tập đoàn quân số 2 hoàn toàn bị đập tan với số thương vong là 30 000 và 95 000 quân bị bắt. Những vị thống soái có công chiến thắng lừng lẫy - Hindenburg và Ludendorff dạt dào niềm vinh quang. Sau trận này thì đến ngày 11 tháng 9, quân Đức tấn công và chiếm được nơi đóng quân của tập đoàn quân thứ nhất Nga. Ngày 13 tháng 9, tập đoàn quân này rút khỏi Đông Phổ và tổn thất 110 000 người. Chiến dịch Đông Phổ kết thúc với thất bại của người Nga.

Đến cuối năm 1914, quân Nga và quân Đức vừa tăng viện từ mặt trận phía tây lại chạm trán nhau tại miền trung Ba Lan, phía tây sông Vistula trong các trận sông Vistula và trận Łódź. Các trận đánh này kết thúc với lợi thê thuộc về người Đức nhung quân Đức đã không thể tiến xa thêm nữa vào lãnh thổ Nga.

Chiến tuyến Tây Bắc

Trong khi quân Nga thất bại tại Đông Phổ thì tại Galicia, quân đội Nga kiểm soát được phần lớn nơi này vào cuối năm 1914. Chỉ huy quân Nga tại chiến tuyến Tây Bắc là Nikolay Ivanov và Aleksey Brusilov. Tháng 9 1914, quân Nga đánh bại quân đội Áo-Hung trong trận Lemberg và bắt đầu vây hãm thành phố Przemysl. Quân Nga chiếm được nơi này vào tháng 3 1915. Kết thúc năm 1914, quân đội Áo-Hung bị đánh bại liên tiếp và quân Nga tiến sát đến chân núi Carpathian.

Như vậy năm 1914, mặt trận phía đông kết thúc với thắng lợi lớn của người Đức nhưng buộc họ phải điều động nhiều sư đoàn từ mặt trận phía tây sang, khiến chiến tranh ngày càng kéo dài và quy mô mặt trận phía đông ngày càng được mở rộng.

1915

Mặt trận phía đông [[1915]] Đến năm 1915, bộ chỉ huy quân Đức và quân Áo quyết định cùng nhau tác chiến thực hiện cuộc tấn công lớn vào quân Nga, buộc đế quốc Nga phải đầu hàng rồi chuyển sang mặt trận phía tây tiêu diệt quân Pháp và Anh. Do đó đầu năm 1915 quân Đức điều một số lớn binh đoàn từ mặt trận phía tây sang và chuyển sang phòng thủ ở mặt trận phía tây. Từ tháng 1 đến tháng 3, quân Nga bị quân Đức đánh bại tại trận hồ Masurian lần thứ hai, phải rút khỏi Đông Phổ nhưng chiếm được thành phố Przemysl của Áo-Hung, củng cố Galicia và uy hiếp Hungary. Điều này càng thúc đẩy cuộc tấn công của quân Đức. Đến cuối tháng 4 quân Đức đã tập trung 1 lực lượng hùng hậu tại khu vực nằm giữa thượng du sông Wisla và núi Carpathian bao gồm 16 sư đoàn bộ binh, 2 sư đoàn kị binh, 1140 khẩu đại bác và 1000 khẩu đại bác hạng nặng.

Ngày 2 tháng 5, tướng August von Mackensen bất ngờ tấn công các cứ điểm của quân Nga giữa Gorlice và Tarnow. Do quân Nga đang trong tình trạng khan hiếm trầm trọng về đạn dược nên đó chỉ trong 2 tuần, quân Nga đã phải rút lui trên 1 chiến tuyến dài 160 cây số. Trong 1 tháng, Quân đội Đức đã tiến gần 100 dặm và bắt làm tù binh gần 400 000 lính Nga. Đến tháng 7 thì Đại tướng Falkenhayn ra lệnh cho Hindenburg từ phia bắc và Mackensen từ phia nam đánh đuổi quân Nga ra khỏi Ba Lan. Ngày 5 tháng 8 1915, quân đội Đức chiếm Warsaw, thủ đô Ba Lan. Tướng Mackensen - với thắng lợi hoành tráng của ông, trở thành vị thống soái nổi tiếng nhất của Quân đội Đế chế Đức chỉ sau Hindenburg. Vào này 10 tháng 5 năm 1915, ông nhận Huy chương Đại Bàng Đen.

Như vậy tổng kết mặt trận phia đông sau khi năm 1915 kết thúc, quân Nga đã rút khỏi Bucovina, Galicia, Ba Lan, Litva và một phần Latvia. Cuối năm 1915, mặt trận phía đông chuyển sang trận địa chiến (chiến tranh chiến hào) trên 1 chiến tuyến dài 1200 kilometers từ sông Dnieper đến vịnh Riga. Tuy quân Đức đã liên tục giành thắng lợi, khiến chiến tuyến phải dời về phía đông rất xa nhưng vẫn chưa loại được đế quốc Nga ra khỏi cuộc chiến nên quân Đức vẫn không thể dồn toàn bộ lực lượng sang mặt trận phia tây để tiêu diệt liên quân Anh-Pháp như kế hoạch. Sau những thất bại này Đại công tước Nikolai cũng bị cách chức tổng tư lệnh quân đội Nga và Nga hoàng Nikolai II chính thức nắm chức tổng tư lệnh quân đội Nga.

1916

phải|thumb|Tướng Nga Aleksei Brusilov Đến năm 1916, quân đội Đức hoàng theo kế hoạch của Falkenhayn tập trung quân lực sang mặt trận phía tây để tiêu diệt quân đội Pháp, mà trọng điểm là Verdun. Trận Verdun bắt đầu từ ngày 21 tháng 2 1916 là cuộc đại chiến hao tốn rất lớn nhân lực của cả Đức và Pháp. Trước tình hình đó, để giải nguy cho mặt trận phía tây và lợi dụng quân đội Áo-Hung đang chuyển quân sang mặt trận Ý, bộ chỉ huy quân Nga quyết định phát động 1 cuộc tấn công vào các phòng tuyến của quân đội Áo-Hung tại Galicia và người chỉ huy cuộc tấn công này là tướng Aleksey Brusilov.

Ngày 4 tháng 6 1916, cuộc tổng tấn công của tướng Brusilov tại mặt trận phía đông bắt đầu. Chỉ trong vòng vài ngày, toàn bộ các chiến tuyến của quân Áo tại Galicia đã tan vỡ. Đến ngày 20 tháng 9, cuộc tổng tấn công này chấm dứt khi thương vong của lính Nga ngày càng tăng và sau cuộc tổng tấn công này, thương vong của quân đội Áo-Hung là 1,5 triệu người và 400 000 người bị bắt làm tù binh còn về phía Nga là 1.4 triệu người.. Thắng lợi này của quân Nga tại mặt trận phía đông đã ảnh hưởng rất lớn đến kết cục của cuộc chiến tranh này vì đã ngăn chặn được các cuộc tấn công của quân đội Áo-Hung tại mặt trận Ý, cải thiện tình hình ở mặt trận phía tây làm cho quân Đức gặp thêm khó khăn trong việc tấn công Verdun, tạo điều kiện cho liên quân Anh-Pháp phản công tại trận Somme. Cuối cùng nó đã thúc đẩy România từ chỗ trung lập đã quyết định tham gia cuộc chiến theo khối Hiệp ước. Tuy làm cho quân Áo-Hung suy sụp nhưng phía Nga cũng bị thiệt hại nặng và kiệt sức, không thể khai thác được thắng lợi. Đến tháng 11 1918 khi đế quốc Đức sụp đổ thì nước Nga Xô Viết đã tuyên bố bản hòa ước Brest-Litovsk không còn giá trị và không thực hiện. Đến cuộc Nội chiến Nga thì Nga Xô viết mới lấy lại được phần lớn đất đai của Đế quốc Nga cũ.

Mặt trận Romania

Đầu cuộc chiến tranh, România tuyên bố là nước trung lập. Thắng lợi của quân Nga tại mặt trận Tây Nam 1916 đã đưa Romania theo khối Hiệp ước. Các nước khối Hiệp ước tuyên bố đảm bảo sự toàn vẹn lãnh thổ của Romania và nước này có quyền chiếm lấy những vùng lãnh thổ của đế quốc Áo-Hung sau khi chiến tranh kết thúc. Ngày 27 tháng 8 1916, Romania tuyên chiến với đế quốc Áo-Hung, tham gia vào thế chiến thứ nhất. Mặt trận Romania hình thành.

Quân đội Romania do trang bị kém và lạc hậu, hậu cần không đáp ứng đủ điều kiện chiến tranh nên liên tục thất bại trong các trận giao tranh với liên quân Đức, Áo-Hung, Bulgaria. Đầu tháng 10/1916, đại sứ của vua Romania phải đến bộ chỉ huy Nga yêu cầu giúp đỡ. Như vậy việc Romania tham chiến càng làm quân Nga thêm mỏi mệt vì phải kéo dài thêm chiến tuyến.

Liên quân Đức, Áo-Hung, Bulgaria chia thành 2 đường tiến vào lãnh thổ Romania: vượt núi Carpathian tiến vào phía bắc Romania và vượt sông Danube tiến vào phía nam Romania. Đến ngày 6 tháng 12 1916, thủ đô Bucarest của Romania bị Đức chiếm và các vùng sản xuất lương thực, dầu hoả cũng như các nguồn tài nguyên khác lần lượt rơi vào tay các nước Liên minh Trung tâm. Quân đội Romania vẫn còn một số nhỏ tiếp tục kháng cự và nhờ sự giúp đỡ của Nga, chiến tuyến Romania mới được ổn định ở hạ lưu sông Danube vào cuối tháng 12 và do đó chiến tuyến của quân Nga kéo dài đến 500 cây số. Mặt trận Romania trong thế chiến thứ nhất Ngày 7 tháng 5 1918, Romania phải ký với các nước Liên minh Trung tâm hòa ước Bucarest theo đó Romania mất vùng nam Dobragea về tay Bulgaria, vùng bắc Dobragea do Đức, Áo-Hung, Bulgaria cùng quản lý. Đức toàn quyền sử dụng các tài nguyên, hải cảng Romania trong vòng 50 năm và thời hạn chiếm đóng sẽ được xác định sau.

Sau khi cuộc Chiến tranh thế giới lần thứ nhất kết thúc, các nước Liên minh Trung tâm bại trận và Romania được hưởng nhiều quyền lợi nhờ các bản hòa ước ký với các nước thua trận.Theo hòa ước Saint-Germain ký với Áo và hòa ước Trianon ký với Hungary thì Romania được nhận một số đất đai của đế quốc Áo-Hung cũ nay đã tan rã, nhận lại vùng Dobragea từ tay Bulgaria và 1 khoản bồi thường chiến phí.

Kết quả

Thương vong của quân Nga tại mặt trận phía đông trong Chiến tranh thế giới thứ nhất là rất khó ước lượng vì việc thống kê khó khăn và chất lượng không tốt của các bản thống kê này. Một số bản số liệu chính thức cho con số là 775 400. Tuy nhiên gần đây một số bản số liệu mới là 900 000 người chết trong các trận chiến và 400 000 người chết do bị thương trong lúc chiến đấu. Như vậy tổng cộng là 1,3 triệu người. Con số này bằng với số người chết của Pháp và Áo-Hung và bằng 1/3 tổng số quân lính Đức ở mặt trận phía đông.

Tuy nhiên người Anh lại đưa ra một số liệu mới là hơn 2 triệu người chết (700 000 người chết trong các trận đánh, 970 000 người chết do bị thương, 155 000 người chết vì bệnh tật và 181 000 tù binh chết). Con số này đem chia cho tổng số nam giới từ 15 đến 49 tuổi sẽ là 5%, ngang với nước Anh. Số dân thường tổn thất trong 2 năm đầu là 600.000 người và tổng cộng khoảng 1.500.000 người khác không chắc lắm. Trên 5 triệu quân Nga bị bắt giữ kể từ năm 1915.

Khi Nga rút khỏi chiến tranh thì 3,9 triệu tù binh Nga vẫn còn nằm trong tay người Đức và Áo. Con số này vượt xa số tù binh của 3 nước Anh, Pháp, Đức cộng lại (1,3 triệu người) và chỉ có Áo-Hung là gần bằng với 2,2 triệu tù binh.

România có 335 700 người chết, 120 000 người bị thương, 80 000 người bị bắt làm tù binh trên tổng số 750 000 người bị động viên trong suốt cuộc chiến. Tỉ lệ thương vong so với số người bị động viên là 71%.

👁️ 1 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Mặt trận phía Đông** trong Chiến tranh thế giới thứ nhất bao gồm các chiến trường ở Đông Âu và Trung Âu giữa Liên minh Trung tâm với Nga và Romania thuộc Phe Hiệp ước.
Sau khi cuộc Chiến tranh thế giới thứ nhất bùng nổ vào năm 1914, Quân đội Đế quốc Đức đã mở ra **Mặt trận phía tây**, khi họ tràn qua Luxembourg và Bỉ, rồi giành
Các sự kiện quân sự ở Mặt trận phía Đông trong Chiến tranh thế giới thứ hai. Các mốc thời gian ghi theo năm - tháng - ngày. ## 1941 * 1941-06-22 Chiến dịch Barbarossa
Quân Đức diễn hành tại Paris **Mặt trận phía tây** của chiến trường châu Âu trong Chiến tranh thế giới thứ hai bao gồm các trận chiến trên lãnh thổ của Đan Mạch, Na Uy,
**Mặt trận Balkan** (28 tháng 7 năm 1914 - 29 tháng 9 năm 1918) hay **Chiến trường Balkan** là một trong những mặt trận của Chiến tranh thế giới thứ nhất, diễn ra trên bán
Chiến sự trên **Mặt trận Rzhev-Sychyovka-Vyazma** là hoạt động quân sự lớn trong Chiến tranh Xô-Đức bao gồm nhiều chiến dịch bộ phận do các Phương diện quân Tây, Phương diện quân Kalinin và Phương
[[Quốc kỳ Đế quốc Áo-Hung trong Chiến tranh thế giới thứ nhất]] Trong Chiến tranh thế giới thứ nhất, Đế quốc Áo-Hung là nước thuộc khối quân sự Liên minh Trung tâm gồm Đế quốc
nhỏ|Quân Nhật đổ bộ gần Thanh Đảo. Từ năm 1914 đến năm 1918, Nhật Bản tham gia chiến tranh thế giới thứ nhất trong liên minh với các cường quốc thực thụ và đóng một
**Chiến tranh thế giới thứ nhất**, còn được gọi là **Đại chiến thế giới lần thứ nhất**, **Đệ nhất Thế chiến** hay **Thế chiến I**, là một cuộc chiến tranh thế giới bắt nguồn tại
phải|nhỏ|Những người lính Xô viết của Mặt trận phía Đông trong một thời gian nghỉ ngơi ngắn sau khi chiến đấu, ngày 1 tháng 4 năm 1944 phải|nhỏ|[[Joseph Stalin|Stalin, Roosevelt và Churchill tại Tehran Conference,
**Mặt trận Baltic** là một trong ba mục tiêu tấn công đầu tiên của quân đội Đức Quốc xã trong Chiến dịch Barbarossa. Trong tuần lễ đầu tiên của cuộc Chiến tranh Xô-Đức, tại đây
Cuộc **Chiến tranh nhân dân giải phóng Nam Tư** là một bộ phận quan trọng của Mặt trận phía đông trong Chiến tranh thế giới thứ hai ở châu Âu. Cuộc chiến bắt đầu từ
**Mặt trận Ý (Chiến tranh thế giới thứ nhất)** là nơi diễn ra những trận đánh trong Chiến tranh thế giới thứ nhất giữa Ý và Đế quốc Áo-Hung cùng với các đồng minh của
Trong Thế chiến I không tồn tại một quốc gia Ba Lan độc lập, với vị trí địa lý nằm giữa các cường quốc tham chiến, có nghĩa là nhiều trận chiến và tổn thất
_Đối với trận đầu tiên diễn ra ở đây, xem Trận Sedan (1870)._ **Trận Sedan**, còn gọi là **Trận Sedan lần thứ hai**, là trận đánh mở màn Trận chiến nước Pháp trong Chiến tranh
phải|Bản đồ chiến cuộc vùng Ardennes **Trận Ardennes** là một trận chiến quan trọng trong phần cuối của Chiến tranh thế giới thứ hai. Sau khi đổ bộ thành công vào Normandie, quân Đồng Minh
**Trận vòng cung Kursk** (lịch sử Nga gọi là **_Chiến dịch phòng ngự - phản công Kursk_**) là một trong những chiến dịch lớn nhất trên chiến trường Xô-Đức trong Chiến tranh thế giới thứ
**Chiến dịch Blau** (tiếng Đức: **_Fall Blau_**) là mật danh của Kế hoạch tổng tấn công từ mùa hè năm 1942 của quân đội Đức Quốc xã trên toàn bộ cánh Nam của mặt trận
**Chiến dịch Barbarossa** (), còn được gọi là **Cuộc xâm lược của Đức vào Liên Xô** là mật danh của chiến dịch xâm lược Liên Xô do Quân đội Đức Quốc xã tiến hành trong
**Chiến tranh Xô–Đức 1941–1945** là một cuộc chiến giữa Liên Xô và Đức Quốc xã trong Thế chiến thứ hai, trải dài khắp Bắc, Nam và Đông Âu từ ngày 22 tháng 6 năm 1941
**Trận sông Dniepr** là một chuỗi các chiến dịch tấn công chiến lược của Quân đội Liên Xô trong giai đoạn mở đầu cho thời kỳ thứ ba của cuộc chiến tranh Xô-Đức, đồng thời
**Chiến dịch Bagration** () là mật danh của **chiến dịch Byelorussia** - chiến dịch tấn công chiến lược mùa hè năm 1944 của quân đội Liên Xô, chính thức bắt đầu ngày 23 tháng 6,
**Chiến dịch Smolensk** (7 tháng 8 năm 1943 – 2 tháng 10 năm 1943) hay còn gọi là **Trận Smolensk lần thứ hai** là một Chiến dịch tấn công chiến lược của Hồng quân Liên
**Chiến dịch Krym – Sevastopol (1941–1942)** bao gồm toàn bộ các trận chiến đấu của quân đội Xô Viết và quân đội Đức Quốc xã cùng với quân Romania tại bán đảo Krym từ tháng
**Chiến dịch tấn công hữu ngạn Dniepr** ở Ukraina (1944), hay còn được gọi là **Chiến dịch tấn công Dniepr–Carpath**, kéo dài từ ngày 24 tháng 12 năm 1943 đến ngày 14 tháng 4 năm
**Chiến dịch Barvenkovo–Lozovaya** (Lozova) (được Thống chế Đức Wilhelm Bodewin Gustav Keitel gọi là **Trận Kharkov lần thứ hai**) là một hoạt động quân sự lớn của quân đội Liên Xô và quân đội Đức
**Trận Ardennes**, còn gọi là **các trận Longwy và Neufchateau**, diễn ra từ ngày 21 cho đến ngày 23 tháng 8 năm 1914, trong chuỗi trận Biên giới Bắc Pháp giữa quân đội Đức với
**Chiến dịch Berlin** là chiến dịch tấn công cuối cùng của Hồng quân Liên Xô trong Chiến tranh Xô-Đức. Tại chiến dịch này – diễn ra từ ngày 16 tháng 4 đến 9 tháng 5 năm
**Chiến dịch tấn công Bucharest-Arad** (30 tháng 8 - 3 tháng 10 năm 1944), còn gọi là **Chiến dịch Rumani**, là một chiến dịch quân sự do Hồng quân Liên Xô và quân đội Rumani
**Chiến dịch Ý** là chiến dịch tấn công dài và oanh liệt nhất do khối Đồng Minh phương Tây thực hiện trong Chiến tranh thế giới thứ hai. Chiến dịch kéo dài từ ngày 10
**Mặt trận Địa Trung Hải và Trung Đông** trong Chiến tranh thế giới thứ hai gồm nhiều trận đánh trên biển, đất liền và trên không giữa quân đội Đồng Minh và khối Trục tại
**Ngày Chiến thắng** là ngày lễ kỷ niệm chiến thắng của Liên Xô trước Đức Quốc xã vào năm 1945. Ngày lễ này được tổ chức lần đầu tiên tại 15 nước cộng hòa thuộc
**Chiến dịch Wisła – Oder** là chiến dịch tấn công chiến lược lớn của Quân đội Xô Viết trong Chiến tranh Xô-Đức, chiến dịch này diễn ra trong thời gian từ 12 tháng 1 đến
Thuật ngữ **Chiến tranh Vệ quốc vĩ đại** được phổ biến tại Nga và một số quốc gia thuộc khối Liên Xô cũ để chỉ một phần của cuộc Chiến tranh thế giới thứ hai
**Chiến dịch Đông Phổ** là chiến dịch quân sự của quân đội Liên Xô chống quân đội Đức Quốc xã ở Mặt trận phía Đông (Chiến tranh thế giới thứ hai). Chiến dịch bắt đầu
**Các địa điểm tưởng niệm và chôn cất của Thế chiến thứ nhất (Mặt trận phía Tây)** là Di sản thế giới được UNESCO công nhận vào năm 2023 bao gồm 139 nghĩa trang và
**Trận Stalingrad** (23 tháng 8 năm 19422 tháng 2 năm 1943) là một trận đánh lớn diễn ra trong Chiến tranh Xô-Đức giữa Đức Quốc xã cùng với các nước thuộc địa và Hồng quân
**Chiến tranh thế giới thứ hai** (còn được nhắc đến với các tên gọi **Đệ nhị thế chiến**, **Thế chiến II** hay **Đại chiến thế giới lần thứ hai**) là một cuộc chiến tranh thế
Nội chiến Hoa Kỳ diễn ra ở nhiều nơi trong hai vùng chiến lược chính, Mặt trận miền Đông và Mặt trận miền Tây. Ngoài ra còn có mặt trận vùng sông Mississippi, bờ biển
**Trận Moskva** là một trong những trận đánh lớn nhất trong Chiến tranh Xô-Đức và Thế chiến thứ hai vào cuối năm 1941 và đầu năm 1942. Với quân số và vũ khí tham chiến
**Chiến dịch Kavkaz** là tên gọi chung cho một chuỗi các hoạt động quân sự tại khu vực Kavkaz diễn ra giữa quân đội Liên Xô và quân đội Đức Quốc xã trong cuộc Chiến
**Mặt trận Srem** (, ) là tuyến phòng thủ vững chắc của Wehrmacht và Quân lực Croatia nằm tại Srem và Đông Slavonia trong Thế chiến thứ hai từ 23 tháng 10 năm 1944 đến
Cuộc **Không chiến tại Anh Quốc** () là tên thường gọi của một cuộc không chiến dai dẳng giữa Đức Quốc xã và Anh Quốc vào mùa hè-thu năm 1940 trong Chiến tranh thế giới
**Cuộc bao vây Leningrad** là cuộc phong tỏa quân sự của quân đội Đức Quốc xã đối với thành phố Leningrad (hiện nay là Sankt-Peterburg), đồng thời là cuộc phòng thủ dài ngày nhất trong
**Trận Kiev năm 1941** là trận công kích lớn thứ ba của Đức Quốc Xã vào mặt trận Tây Nam của Hồng quân Liên Xô (ngả qua Urkraina) trong Chiến dịch Barbarossa, sau Trận Dubno
**Trận Smolensk** là một trận đánh lớn trong Chiến tranh Xô-Đức thuộc khuôn khổ chiến dịch Barbarossa năm 1941. Đây là một tổ hợp các trận đánh phòng thủ kết hợp với các hoạt động
**Trận Białystok – Minsk** là một chiến dịch tấn công chiến lược do Cụm Tập đoàn quân Trung tâm của Đức thực hiện nhằm chọc thủng các phòng tuyến biên giới của Liên Xô trong
**Chiến dịch Kharkov (1941)**, theo cách gọi của Wilhelm Keitel là **Trận Kharkov lần thứ nhất**, còn theo lịch sử của Nga là **Chiến dịch phòng thủ Sumy-Kharkov**, diễn ra từ ngày 1 tháng 10
**Chiến dịch tấn công Beograd** ( / Beogradska operacija; , ) là hoạt động quân sự lớn nhất tại Nam Tư trong Chiến tranh thế giới thứ hai đồng thời là một trong các chiến
**Chiến dịch giải phóng Bulgaria** (5 tháng 9 - 15 tháng 9 năm 1944) là một chiến dịch quân sự do Phương diện quân Ukraina 3 (Liên Xô) dưới sự chỉ huy của nguyên soái