✨Mặt trận Baltic (1941)

Mặt trận Baltic (1941)

Mặt trận Baltic là một trong ba mục tiêu tấn công đầu tiên của quân đội Đức Quốc xã trong Chiến dịch Barbarossa. Trong tuần lễ đầu tiên của cuộc Chiến tranh Xô-Đức, tại đây đã diễn ra nhiều cuộc chiến giữa Phương diện quân Tây Bắc (đổi tên từ Quân khu đặc biệt Pribaltic) của quân đội Liên Xô do thượng tướng Fyodor Isidorovich Kuznetsov chỉ huy với Cụm Tập đoàn quân Bắc của quân đội Đức Quốc xã do thống chế Wilhelm Ritter von Leeb chỉ huy. Tại mặt trận này đã nổ ra hai trận đánh xe tăng lớn ở Raseiniai và Alytus nằm ở phía Bắc và phía Nam Kaunas, trận phòng ngự Pskov ở biên giới Nga - Estonia và trận phòng thủ Tallinn. Sau hơn hai tuần giao chiến, quân đội Liên Xô bị thiệt hại nặng phải rút lui. Quân đội Đức Quốc xã mở đường tiến lên phía Đông Bắc đến Leningrad. Sự thất bại của Phương diện quân Tây Bắc (Liên Xô) cũng ảnh hưởng tai hại đến Phương diện quân Tây. Không bị gây sức ép từ phía Bắc, Cụm Tập đoàn quân Trung tâm (Đức) đã hợp vây ba tập đoàn quân Liên Xô tại khu vực Białystok - Minsk và chiếm thủ đô của Belorussia ngay sau đó. Sử sách Liên Xô (trước đây) và Nga (hiện nay) gọi đây là Chiến dịch phòng thủ chiến lược vùng Baltic, 1941.

Bối cảnh

Trong Kế hoạch Barbarossa của quân đội Đức Quốc xã, vùng ven biển Baltic là một trong ba vùng chiến lược quan trọng để đánh chiếm ba mục tiêu cơ bản. Các vùng cửa ngõ Pribaltic có những đường giao thông đến Leningrad. Các nước Baltic cũng có những đặc điểm địa hình gần giống với các vùng ven biển của miền Bắc nước Đức và Đông Phổ. Theo Hiệp ước Xô-Đức, vùng này nằm trong phạm vi ảnh hưởng của Liên Xô và họ đã thiết lập chính quyền Xô Viết tại đây vào năm 1940. Tuy nhiên, đây là vẫn một vùng đất mới đối với Liên Xô.

Trên tuyến biên giới mới không có các công trình phòng thủ kiên cố như khu vực biên giới cũ trước năm 1940. Quân đội Liên Xô buộc phải gấp rút xây dựng các khu phòng thủ mới nhưng họ đã không kịp hoàn thành chúng. Các tuyến đường sắt chạy dọc biên giới của các nước Litva, Latvia và vùng Tây Bắc Belorussia cũng kém phát triển hơn nhiều so với vùng Đông Phổ và bắc Ba Lan. Hệ thống đường sắt của Đức đến biên giới Litva có khả năng thông tàu 220 chuyến/ngày đêm trong khi các tuyến đường sắt trên đất Litva chỉ có thể chạy được 84 chuyến/ngày đêm. Trong thời điểm những năm 40 của thế kỷ 20 thì điều này ảnh hưởng rất lớn đối với sức cơ động của quân đội. Thông tin liên lạc quân sự trong vùng Pribatic cũng kém phát triển. Quân đội Liên Xô ở đây mới chỉ có 30% số đơn vị được trang bị phương tiện liên lạc vô tuyến điện.

Đặc điểm địa hình của Litva và các nước vùng Baltic phần nhiều là đồng bằng và rừng ôn đới, thuận tiện cho việc sử dụng các lực lượng cơ giới, pháo binh và không quân. Các con sông chảy ra biển Baltic phần lớn là các sông nhỏ, dễ dàng vượt qua nếu sử dụng những đơn vị công binh dã chiến hỗ trợ cho bộ binh và cơ giới. Phía sau vùng đất cao Litva và Latvia có đặc điểm của địa hình đầm hồ. Để tăng sức cơ động cho lục quân thích ứng với địa hình này, quân đội Đức phát triển mạnh kiểu xe bọc thép bán tải hạng nhẹ có băng xích thay bánh sau (Half-truck) kiểu SdKfz 251 dùng cho bộ binh cơ giới. Quân đội Liên Xô không có loại tương đương.

Binh lực hai bên

Quân đội Đức Quốc xã

Quân đội Đức tấn công Liên Xô tại vùng Pribaltic gồm 29 sư đoàn, được tổ chức thành Cụm tập đoàn quân Bắc, phụ trách chính diện từ bờ biển Baltic đến khu vực Gołdap. Trong đó, các lực lượng chủ yếu được bố trí tại Đông Phổ. Trong biên chế cụm tập đoàn quân Bắc có tập đoàn quân không quân 1. Thống chế Wilhelm Ritter von Leeb được Adolf Hitler chỉ định làm tư lệnh cụm tập đoàn quân này. Binh lực gồm có:

  • Tập đoàn quân dã chiến 18 do chuẩn thống chế Georg von Küchler chỉ huy, trong biên chế có: Quân đoàn bộ binh 26 của tướng Albert Wodrig gồm các sư đoàn bộ binh 61, 217, 291 (thê đội 1); Quân đoàn bộ binh 1 của tướng Kuno-Hans von Both gồm các sư đoàn bộ binh 1, 11 và 21 (thê đội 1); **Quân đoàn bộ binh 38 của tướng Friedrich-Wilhelm von Chappuis gồm các sư đoàn bộ binh 58 và 254 (thê đội 2); ***Sư đoàn bộ binh nhẹ 207 (thê đội 2).
  • Tập đoàn quân xe tăng 4 do thượng tướng Erich Hoepner chỉ huy, trong biên chế có: Quân đoàn xe tăng 41 do trung tướng Georg-Hans Reinhardt chỉ huy, gồm các sư đoàn xe tăng 1 và 6, Sư đoàn bộ binh 269 (thê đội 1) và Sư đoàn cơ giới 36 (thê đội 2); Quân đoàn xe tăng 56 do trung tướng Erich von Manstein chỉ huy, gồm Sư đoàn xe tăng 8, Sư đoàn bộ binh 290 (thê đội 1), Sư đoàn cơ giới 3 và Sư đoàn cơ giới SS "Đầu lâu" (thê đội 2).
  • Tập đoàn quân dã chiến 16 do thượng tướng Ernst Busch chỉ huy, trong biên chế có: Quân đoàn bộ binh 10 của tướng Christian Hansen, gồm các sư đoàn bộ binh 30 và 126 (thê đội 1); Quân đoàn bộ binh 28 của tướng Mauritz von Wiktorin gồm các sư đoàn bộ binh 122 và 123 (thê đội 1); Quân đoàn bộ binh 2 của tướng Walter von Brockdorff-Ahlefeldt gồm các sư đoàn bộ binh 12, 32 và 121 (thế đội 1); Quân đoàn bộ binh 23 của tướng Albrecht Schubert gồm các sư đoàn bộ binh 206, 251 và 253 (thê đội 2); Sư đoàn bộ binh nhẹ 281 (thê đội 2). Tập đoàn quân xe tăng 3 do tướng Hermann Hoth chỉ huy thuộc Cụm tập đoàn quân Trung tâm, đối diện với cánh Nam của Quân khu đặc biệt Pribaltic, trên địa đoạn từ Gołdap đến Suwałki, trong biên chế có: Quân đoàn xe tăng 39 của tướng Rudolf Schmidt gồm có các sư đoàn xe tăng 7, 20 (thê đội 1) và các sư đoàn cơ giới 14, 20 (thê đội 2). Quân đoàn xe tăng 57 của tướng Adolf-Friedrich Kuntzen gồm có Sư đoàn xe tăng 12 (thê đội 1), Sư đoàn xe tăng 19 và Sư đoàn cơ giới 18 (thê đội 2). Quân đoàn bộ binh 5 của tướng Richard Ruoff gồm có các sư đoàn bộ binh 5 và 35. ** Quân đoàn bộ binh 6 của tướng Otto-Wilhelm Förster gồm các sư đoàn bộ binh 6 và 26. *Tập đoàn quân không quân 1 do trung tướng không quân Alfred Keller chỉ huy.

Quân đội Liên Xô

Phương diện quân Tây Bắc Liên Xô do Thượng tướng F. I. Kuznetsov chỉ huy phòng thủ biên giới trên đất liền từ biển Baltic đến biên giới phía nam của Litva (tại khu vực Suwałki). Biên chế của Phương diện quân có: *Tập đoàn quân 8 do thiếu tướng Pyotr Petrovich Sobennikov chỉ huy, Bộ tư lệnh tập đoàn quân đóng tại Kurtuvėnai gần Šiauliai, trong biên chế có: Quân đoàn cơ giới 12 do thiếu tướng Nikolai Mikhailovich Shestopalov (đến ngày 27-6), đại tá Ivan Akimovich Razintsev (đến 30-6) và đại tá Villi Yanovich Grinberg chỉ huy, sư đoàn xe tăng 23 của đại tá T. S. Orlenko, sư đoàn xe tăng 28 của đại tá Ivan Danilovich Chernyakhovsky và sư đoàn cơ giới 202 của đại tá V. K. Gorbachiov và Lữ đoàn pháo chống tăng 9 (thê đội 2); được trang bị 729 xe tăng BT-7, T-26, T-37, T-38, T-40 và 22 xe bọc thép hạng nhẹ. Quân đoàn bộ binh 10 do thiếu tướng I. F. Nikolaev chỉ huy, gồm các sư đoàn bộ binh 10 và 90 (thê đội 1). Quân đoàn bộ binh 11 do thiếu tướng M. S. Sumilov chỉ huy, gồm các sư đoàn bộ binh 48 và 125 (thê đội 1). *Sư đoàn bộ binh 11 trực thuộc Bộ chỉ huy tập đoàn quân. Tập đoàn quân 11 do trung tướng V. I. Morozov chỉ huy, Bộ tư lệnh tập đoàn quân đóng tại Kaunas, trong biên chế có: Quân đoàn cơ giới 3 do thiếu tướng A. V. Kurkin chỉ huy, gồm Sư đoàn xe tăng 2 (của thiếu tướng E. N. Soniankin), Sư đoàn xe tăng 5 của (đại tá F. F. Fiodorov) và Sư đoàn cơ giới 84 (của thiếu tướng P. I. Fomenko) nằm ở thê đội 2; được trang bị 672 xe tăng, 202 xe bọc thép, trong đó có 19 xe tăng KV-2 và 50 xe tăng T-34.

Binh lực của Cụm tập đoàn quân "Bắc" tại thê đội 1 gồm 26 sư đoàn, trong đó, nòng cốt là Tập đoàn quân xe tăng 4 gồm 3 sư đoàn xe tăng, 4 sư đoàn cơ giới và 1 sư đoàn bộ binh. Tập đoàn quân xe tăng 4 có nhiệm vụ giáng một đòn cực mạnh vào chỗ tiếp giáp giữa Tập đoàn quân 8 và Tập đoàn quân 11 (Liên Xô) tại khu vực Raseiniai - Kėdainiai, chia cắt hai tập đoàn quân Liên Xô và phối hợp với Tập đoàn quân 16 trên cánh phải của Cụm tập đoàn quân Bắc (Đức) bao vây Quân đoàn bộ binh 16 (Liên Xô) tại các khu phòng thủ biên giới. Trong giai đoạn tiếp theo, Tập đoàn quân xe tăng 4 vượt sông Tây Dvina tiếp tục khoan sâu lỗ đột phá theo hướng Pskov để Tập đoàn quân 18 tấn công dọc theo vùng bờ biển Baltic, bao vây và hất Tập đoàn quân 8 (Liên Xô) ra biển. Tập đoàn quân 16 có nhiệm vụ che chắn sườn phải cho Tập đoàn quân xe tăng 4 trong quá trình tấn công và phối hợp với Tập đoàn quân xe tăng 3 trên cánh trái của Cụm tập đoàn quân Trung tâm (Đức) bao vây Tập đoàn quân 11 (Liên Xô) tại khu vực Vilnius. Trong giai đoạn 2, Tập đoàn quân 16 (Đức) sẽ tấn công song hành với Tập đoàn quân xe tăng 4 lên hướng Opochka. Mục tiêu cuối cùng của Cụm tập đoàn quân Bắc (Đức) là thành phố Leningrad (nay là Sankt-Peterburg).

Quân đội Liên Xô

Ngoài Tập đoàn quân 27 bố trí tại Latvia, các quân đoàn cơ giới và các sư đoàn dự bị bố trí cách biên giới mới từ 100 đến 150 km trên tuyến biên giới cũ, phần lớn lực lượng chủ yếu của Phương diện quân đều bố trí trên tuyến biên giới mới. Chỗ yếu nhất của tuyến phòng thủ biên giới của quân đội Liên Xô nằm tại khu vực phòng thủ của Tập đoàn quân 11 tiếp giáp với Tập đoàn quân 10 tại khu vực Grodno - Suwałki, ngay phía Bắc vùng đất cao Białystok, hình thành một mũi nhô về phía quân Đức. Tuyến phòng thủ tại đây không đủ sâu và mạnh, rất dễ bị quân Đức đánh bọc sườn. Ngoài ra, hướng Đông Phổ cũng chỉ có Tập đoàn quân 8 phòng thủ, trong khi thê đội 2 của Quân khu đặc biệt Pribaltic trên hướng này là Tập đoàn quân 27 lại đóng ở tận Riga. Khi chiến tranh nổ ra, tập đoàn quân 27 phải mất hai ngày mới cơ động đến được tuyến biên giới thì chiến sự đã ở phía Bắc Kaunas. Do không được chuyển trạng thái chiến đấu kịp thời nên đến thời điểm nổ ra, các sư đoàn bộ binh ở đây chỉ có trong biên chế từ 6.000 đến 8.000 người, trong khi biên chế thời chiến ít nhất phải có 12.000 người.

Qua thông tin tình báo, Bộ chỉ huy Tập đoàn quân Bắc (Đức) biết được Quân khu đặc biệt Pribaltic (Liên Xô) đã bố trí tại tuyến đầu 31 sư đoàn bộ binh và 8 sư đoàn xe tăng, cơ giới và số lượng xe tăng, xe bọc thép lên đến 1.625 chiếc. Tuy nhiên, cả hai quân đoàn cơ giới 3 và 12 (Liên Xô) chỉ có 19 xe tăng hạng nặng KV-2 và 50 xe tăng T-34, còn lại là các xe tăng kiểu cũ có sức chiến đấu kém và thường gặp trục trặc kỹ thuật. Vào thời điểm bắt đầu cuộc chiến, chỉ có 63% số xe tăng của Phương diện quân Tây Bắc ở trong tình trạng sẵn sàng chiến đấu. Số còn lại đang trong thời kỳ bảo dưỡng và sửa chữa tại các xưởng và trạm. Trong đó, có hơn 200 xe tăng Т-26, ОТ-26, Т-37 và Т-38 đã cũ sau nhiều năm sử dụng đang chờ sửa chữa lớn.

Diễn biến trên bộ

Thị trấn biên giới Tauragė đổ nát sau các trận đánh và rơi vào tay quân đội Đức Quốc xã ngày 22-6-1941

Ngày 22 tháng 6 năm 1941, Cụm tập đoàn quân Bắc (Đức) phát động tấn công. Do tập trung được các lực lượng và phương tiện mạnh, đạt được ưu thế tạm thời gấp 5 đến 8 lần về binh lực và vũ khí nặng trên các mũi tấn công chính nên ngay từ đầu, Bộ Tư lệnh cụm tập đoàn quân Bắc (Đức) đã đạt được nhiều kết quả khả quan. Từ vùng giáp ranh Ba Lan-Đông Phổ, tập đoàn quân xe tăng 4 (Đức) khoan sâu và chia cắt trận tuyến của quân đội Liên Xô tại chỗ tiếp giáp giữa tập đoàn quân 8 và tập đoàn quân 11, đẩy tập đoàn quân 8 (Liên Xô) về hướng Riga và Tallinn, dồn tập đoàn quân 11 về phía Nam, đe dọa đánh sập toàn bộ cánh Bắc của Phương diện quân Tây Bắc (Liên Xô).

Trận phòng ngự tại Alytus

Ngày 22 tháng 6, tại thị trấn Alytus, phía nam Kaunas (thuộc Litva) 80 km đã diễn ra một trong những trận đánh xe tăng đầu tiên trong Chiến tranh Xô-Đức. Trong trận này, Tập đoàn quân xe tăng 3 (Đức) do tướng Hermann Hoth chỉ huy đã sử dụng Sư đoàn xe tăng 7 do thiếu tướng G. von Funk chỉ huy và Sư đoàn xe tăng 20 do trung tướng H. Stumpf chỉ huy gồm hơn 500 xe tăng để chống lại Sư đoàn xe tăng 5 và 2 sư đoàn dự bị của Tập đoàn quân 11 (Liên Xô) có 229 xe tăng BT-7, 25 xe bọc thép T-26, 57 xe bọc thép T-28 và 50 xe tăng T-34 nhưng chỉ có hơn 150 xe còn hoạt động được.

Các quân đoàn xe tăng và cơ giới của tướng Hermann Hoth sau khi đánh vòng qua các khu phòng thủ Suwałki và Osowiec, đánh chiếm Grodno đã tăng tốc độ hành quân để đánh chiếm Kaunas và Vilnius trong thời gian sớm nhất nhằm vây bọc phía sau 3 tập đoàn quân Liên Xô đang chiến đấu tại Tây Belorussia. Quân đoàn cơ giới 57 có Sư đoàn xe tăng 12 đi trước mở đường tấn công theo hướng đến Merkinė. Quân đoàn cơ giới 39 có các sư đoàn xe tăng 7 và 20 dẫn đầu tấn công theo hướng đến Alytus. Quân đoàn bộ binh 5 (có hai sư đoàn) tấn công theo xe tăng tại địa đoạn giữa Merkinė và Alytus. Quân đoàn bộ binh 6 (có hai sư đoàn) tấn công chếch lên phía Bắc tuyến Alytus - Neman hướng tới Prienai, yểm hộ sườn trái cho Quân đoàn cơ giới 39.

Đối diện với quân Đức trong khu vực Alytus là các sư đoàn bộ binh 23, 126, 128 thuộc thê đội dự bị của Tập đoàn quân 11 được giao nhiệm vụ bảo vệ các tiền đồn biên giới và xây dựng các công sự củng cố khu vực Alytus. Trong khu vực Alytus còn có Sư đoàn xe tăng 5 thuộc Quân đoàn cơ giới 3 (Liên Xô), các đại đội phòng thủ vùng biên giới được đặt dưới quyền chỉ huy của Đoàn biên phòng 29 đóng tại Varėna, các đơn vị pháo binh của quân đoàn và trung đoàn bộ binh 184.

Sáng sớm ngày 22 tháng 6, sau các cuộc pháo kích và ném bom của quân đội Đức, quân đội Xô Viết tại khu vực Alytus bị tấn công bởi hai sư đoàn xe tăng của Quân đoàn cơ giới 39 và hai sư đoàn bộ binh thuộc Quân đoàn bộ binh 5. Sức chống cự của sư đoàn bộ binh 128 (Liên Xô) nhanh chóng bị các đơn vị xe tăng Đức đè bẹp. Tư lệnh sư đoàn, thiếu tướng A. S. Zotov bị bắt làm tù binh. Bộ phận còn lại của sư đoàn phải phân tán thành từng nhóm nhỏ vượt sông Neman rút lui theo hướng đến sông Tây Dvina.

Trong một cố gắng để khôi phục lại tình hình, lúc 9 giờ 45 phút ngày 22 tháng 6, thượng tướng F. I. Kuznetsov, tư lệnh Phương diện quân Tây Bắc đã ra lệnh đưa các quân đoàn cơ giới 3 và 12 từ lực lượng dự bị vào trận và tấn công theo hướng chung đến Tilsit để đánh vào sau lưng các cánh quân xe tăng Đức đã đột phá vào dải phòng ngự của Tập đoàn quân 8. Cụm cơ động được phái đi trước do đại tá P. P. Poluboyarov chỉ huy. Lúc 10 giờ cùng ngày, sư đoàn xe tăng 28 thuộc quân đoàn cơ giới 12 (Liên Xô) mới đến được Šiauliai và triển khai trước cửa ngõ Skaudvilė. Sư đoàn bộ binh 23 (Liên Xô) được giao nhiệm vụ phối hợp hành động với sư đoàn bộ binh 10 thuộc quân đoàn bộ binh 8 tổ chức tấn công chiếm lại Tauragė từ 12 giờ 00 ngày 23 tháng 6. Sư đoàn cơ giới 202 để lại lữ đoàn 9 bảo vệ Šiauliai. Quân đoàn cơ giới 3 được lệnh phải hành quân trong đêm đến khu vực Raseiniai và mở cuộc tấn công vào Skaudvilė lúc rạng sáng.

Sáng ngày 23 tháng 6, trong khi đang chuyển quân từ Kėdainiai đến Raseiniai, hai sư đoàn này đã bất ngờ đụng độ với Sư đoàn xe tăng 6 thuộc Quân đoàn thiết giáp 41 (Đức) trên bờ tây sông Dubysa. Trong cuộc tao ngộ chiến, các pháo chống tăng 88 mm và các cuộc không kích của máy bay Đức đã không gây được thiệt hại đáng kể đối với xe tăng KV. Trận đánh giữa 2 sư đoàn thiết giáp Liên Xô và Sư đoàn xe tăng 6 Đức tiếp tục trong suốt ngày hôm sau. Do không được tiếp tế kịp thời nhiên liệu và đạn dược, các cuộc đột kích của xe tăng Liên Xô thường bị gián đoạn và tổn thất nặng. Một bộ phận xe tăng bắt đầu rút lui. Quân đoàn bộ binh 11 (Liên Xo) bị nửa hợp vây và đứt liên lạc với sở chỉ huy tập đoàn quân 8. Ngày 26 tháng 6 một binh đội xe tăng Đức và bộ binh cơ giới đã tấn công tập hậu vào Sở chỉ huy quân đoàn cơ giới 3 (Liên Xô). Trong trận chiến, thiếu tướng E. N. Soniankin, chỉ huy Sư đoàn xe tăng 2 tử trận. Quân đoàn cơ giới 3 lùi dần về phía Đông.

Trận xe tăng tao ngộ chiến tại Raseiniai được dựng lại tại một trong những tập phim tuyên truyền Cuộc chiến tranh chưa được biết đến về Chiến tranh Vệ quốc Vĩ đại, khi một xe tăng KV duy nhất còn lại của Liên Xô đã chặn đường tiến của Sư đoàn xe tăng 6 (Đức).

Cuộc phản công của Quân đoàn cơ giới 12 (Liên Xô)

Cũng như Quân đoàn cơ giới 3, Quân đoàn cơ giới 12 không được trang bị nhiều xe tăng tốt. Mặc dù cả hai quân đoàn có trong biên chế đến 700 xe cho mỗi quân đoàn nhưng phần lớn là xe tăng hạng nhẹ BT-7, xe bọc thép T-26 và một số ít xe tăng T-28. Toàn bộ số xe tăng KV đều được biên chế vào Quân đoàn cơ giới 3. Các Sư đoàn xe tăng 23 và 28 được lệnh tấn công ngay trong sáng sớm 23 tháng 6 và đột phá theo hướng chung đến Skaudvilė. Tuy nhiên, trong khi di chuyển vào các vị trí xuất phát tấn công, họ đã phải chịu tổn thất nặng từ các cuộc oanh kích của máy bay Đức. Sư đoàn 23 mất 17 xe tăng, Sư đoàn 28 mất đến 27 chiếc. Tình hình còn nặng nề thêm khi Sư đoàn xe tăng 28 đã đến vị trí xuất phát tấn công thì hết sạch nhiên liệu và phải dừng lại. Còn Sư đoàn 23 thì lại được phân tán để yểm hộ cho các sư đoàn của quân đoàn bộ binh 10 đang rút lui từ khu vực Palanga về. Tối 24 tháng 6, Quân đoàn cơ giới 12 bị buộc phải rút lui.

Tuy nhiên, đến sáng 25 tháng 6, Bộ Tư lệnh phương diện quân Tây Bắc hạ lệnh cho quân đoàn phải tiếp tục tấn công. Sư đoàn xe tăng 28 đã tấn công vào làng Pašilė (bắc Kaltinėnai). Một số đơn vị đã thâm nhập vào sâu tuyến chiếm đóng của quân Đức, đánh thiệt hại nặng một trung đoàn cơ giới Đức và tiếp tục mở rộng tấn công trên con đường cao tốc đến Šiauliai. Các trận chiến ác liệt kéo dài trong 4 giờ. Lúc 15 giờ 00, những đơn vị còn lại của sư đoàn co cụm trong các khu rừng phía đông bắc Pašilė. Sư đoàn xe tăng 23 cũng tham gia phản công và bị tổn thất nặng. Việc chống giữ Šiauliai chỉ còn trông chờ vào Lữ đoàn pháo chống tăng 9 và Sư đoàn cơ giới 202.

Ngày 26 tháng 6, những lực lượng còn lại của Quân đoàn cơ giới 12 (Liên Xô) buộc phải rút lui sau khi đã bị tổn thất đến hơn 70% xe tăng và hơn 50% quân số. Ngày 28 tháng 6, Sở chỉ huy Quân đoàn cơ giới 12 bị quân Đức tập kích. Tư lệnh quân đoàn, N. M. Shestopalov đã bị thương nặng và bị bắt làm tù binh (ông mất tại trại giam của quân Đức ngày 2 tháng 8 năm 1941). Nhiều sĩ quan và binh sĩ Liên Xô đã bị giết trong khi sử dụng những giọt xăng dầu cuối cùng, những viên đạn cuối cùng để phá vây.

Cuộc chiến phòng thủ tại Šiauliai mặc dù có sự hợp lực của Sư đoàn cơ giới 202 nhưng bản thân sư đoàn này cũng bị tổn thất nặng do không quân Đức Quốc xã hầu như làm chủ bầu trời và liên tục không kích vào các đoàn xe tăng, cơ giới Liên Xô. Ngày 26 tháng 6, Lữ đoàn pháo chống tăng 9 đã bắn những viên đạn cuối cùng vào đoàn xe của Sư đoàn xe tăng 1 (Đức). Sư đoàn cơ giới 202 (Liên Xô) bị Sư đoàn xe tăng 6 và Sư đoàn cơ giới 36 (Đức) đánh bật khỏi thành phố. Chiều 26 tháng 6, Sư đoàn cơ giới 36 (Đức) chiếm Šiauliai.

Ngay trong loạt bom đầu tiên được ném xuống sân bay Liepāja lúc 3 giờ 55 phút sáng 22 tháng 6, không quân Đức đã loại khỏi vòng chiến đấu các thủy phi cơ của Phi đội 43 và phá hủy 8 máy bay chiến đấu của Trung đoàn không quân 148 (Liên Xô). Không quân Liên Xô chỉ hạ được 3 máy bay Đức và phải đổi bằng 7 chiếc bị bắn rơi trong không chiến. 4 giờ sáng, các sư đoàn bộ binh 61 và 270 (Đức) có xe bọc thép yểm hộ đã đánh bật Sư đoàn bộ binh 10 (Liên Xô) khỏi khu vực vành đai biên giới phía Đông Klaipėda và hình thành vòng vây xung quanh sư đoàn này tại khu vực giữa Kretinga và Palanga. Thiếu tướng Ivan Ivanovich Fadeev, chỉ huy sư đoàn này buộc phải đưa sư đoàn rút lui về Jelgava. Tuyến phòng thủ của Liên Xô ở phía Nam Liepāja bị vỡ một mảng lớn.

Tướng N. A. Dedayev định điều các trung đoàn bộ binh 114 và 281 tiến xuống phía Nam để chặn đánh quân Đức nhưng lúc 6 giờ cùng ngày, quân Đức đã chiếm thị trấn biên giới Palanga và bắt đầu tấn công lên phía Bắc. Tướng Kurt Herzog đưa cả hai trung đoàn bộ binh 504 và 505 lên tàu bọc thép di chuyển đến phía Nam Liepāja. Số quân còn lại và hai tiểu đoàn lính thủy đánh bộ (Đức) được chở bằng tàu biển. Từ ngoài khơi Liepāja, các chiến hạm Đức bắt đầu nã pháo vào thành phố. 9 giờ sáng 22 tháng 6, toàn bộ Hạm đội Baltic (Liên Xô) nhận được lệnh thiết lập các hàng rào mìn để bảo vệ các căn cứ hải quân từ phía biển. Các tàu ngầm được lệnh ra khơi. Tướng N. A. Dedayev hủy bỏ ý định chặn đánh quân Đức từ xa. Ông ra lệnh đặt thành phố vào tình trạng quân quản, thiết lập ba khu phòng thủ trên bộ tại phía Bắc, phía Đông, phía Nam Liepāja và thành lập lực lượng dân quân bảo vệ thành phố gồm 3 tiểu đoàn với hơn 1.500 người được huy động từ Nhà máy đóng tàu Tosmare, Nhà máy luyện kim Sarkanais Metalurgs, nhà máy than cốc Liepāja, Nhà máy đường, Xưởng gỗ và các cơ quan chính quyền thành phố. Thường dân và những người không có nhiệm vụ được di tản về Riga bằng đường sắt, đường bộ và tàu phà ven biển.

Ngày 23 tháng 6, Kurt Herzog mở cuộc tấn công đầu tiên dọc theo bờ biển vào thành phố từ phía Nam trên tuyến sông Barta nhưng không thành công. Hỏa lực pháo binh của Tiểu đoàn pháo bờ biển 27 đã chặn đứng Trung đoàn 506 (Đức) trên tuyến sông này. Chiều 23 tháng 6, các trung đoàn bộ binh 504, 505 (Đức) đánh vòng sang các thị trấn Priekulė và Grobiņa để chiếm các bàn đạp tấn công thành phố từ phía Đông. Chiều 23 tháng 6, Đô đốc Vladimir Filipovich Tributz, tư lệnh Hạm đội Baltic ra lệnh di chuyển các tàu pháo, tàu phóng lôi, tàu ngầm ra khỏi cảng Liepāja, hình thành một tuyến bảo vệ ngoài khơi cách bờ biển khoảng 10 km. Trong hành lang đó, các tàu vận tải di chuyển về cảng Ventspils và về Riga. Trong quá trình di chuyển, 8 tàu vận tải và 1 tàu chở dầu đã bị không quân Đức đánh đắm. Các tàu ngầm M-78 của Hạm đội Baltic đã làm nổ tung 2 pháo hạm của quân Đức.

Sáng 24 tháng 6, quân Đức mở một cuộc oanh tạc lớn vào quân cảng và cảng hàng hải Liepāja. Cả thành phố rung chuyển vì các vụ nổ lớn. Tàu khu trục "Lenin" bị trúng bom tại cảng và hỏng nặng. Hạm trưởng bậc 1 M. S. Klevensky, chỉ huy căn cứ hải quân Libava buộc phải cho nổ tung con tàu này. Cuối ngày, các Trung đoàn bộ binh 56 và 281 (Liên Xô) với sự yểm hộ của Trung đoàn pháo binh 242 (Liên Xô) đã mở cuộc phản kích tại phía Đông thành phố, quân Đức bị đẩy lùi về khu rừng Ilgskom. Một cuộc phản kích khác cũng được Trung đoàn bộ binh 114 (Liên Xô) và Tiểu đoàn hải quân đánh bộ 32 thuộc Hạm đội Baltic tiến hành tại khu vực Grobiņa nhưng không thành công. Quân Đức có đoàn tàu bọc thép và máy bay yểm hộ đã đẩy lùi Trung đoàn 114 về vị trí xuất phát. Tình hình phòng thủ Liepāja của quân đội Liên Xô xấu đi do các tiểu đoàn thủy quân lục chiến (Đức) đã đánh vòng lên bờ biển phía Bắc thành phố, đe dọa bao vây Liepāja từ ba phía.

Việc quân Đức đột nhập vào thành phố chỉ còn là vấn đề thời gian. Hồi 6 giờ ngày 27 tháng 6, đại tá V. M. Bobovich, tham mưu trưởng Sư đoàn 67 nắm quyền chỉ huy sư đoàn thay thiếu tướng N. V. Dedayev tử trận ngày 25 tháng 6 đã ra lệnh triệt thoái khỏi Liepāja. Cánh quân trên bộ gồm Trung đoàn bộ binh 114, 4 tiểu đoàn bộ binh còn lại của các trung đoàn 56, 281 và các đơn vị khác đột kích lên phía Bắc dọc theo bờ biển hường về căn cứ hải quân Ventspils. Hơn 2.000 người bị thương trong bệnh viện Liepāja được đưa lên tàu cứu thương "Vieniba" có treo cờ chữ thập đỏ sơ tán về Riga bằng đường biển. Các khẩu đội pháo bờ biển đã bắn đi 10 viên đạn cuối cùng mở màn cho cuộc rút quân trước khi đặt chất nổ phá hủy các khẩu pháo. Một số nhóm dân quân Komsomol ở lại thành phố để cản hậu quân Đức. Cuộc rút quân diễn ra không thành công. Phần lớn đội hình trên bộ liên tục bị quân Đức tập kích vào bên sườn và trên không và bị tổn thất lớn. Các đại tá M. Buka, Ya. Zars, V. M. Bobovich (chỉ huy Sư đoàn 67), đại tá A. A. Tomilov, trưởng phòng đào tạo Trường bộ binh Riga đều tử trận. Trung đoàn 114 và tàn quân của các trung đoàn còn lại của Sư đoàn 67 không đủ sức để giữ Ventspils mà còn phải rút lui sâu hơn nữa về hướng Riga và liên lạc được với chủ lực Tập đoàn quân 8 tại Tukums.

Trong các ngày 28 và 29 tháng 6, các nhóm Komsomol ở lại Liepāja vẫn tiếp tục chiến đấu trên các con phố. Tuy nhiên, với binh lực áp đảo, Sư đoàn 291 (Đức) đã hoàn thành thành phố việc đánh chiếm thành phố vào cuối buổi chiều ngày 29 tháng 6. Chỉ huy các nhóm Komsomol gồm chính trị viên A. Dundurs và đại úy B. A. Solovyov bị quân Đức xử bắn ngay sau khi bắt được cùng nhiều binh sĩ Liên Xô khác. Thành phố Liepāja bị tàn phá nặng nề. 170 ngôi nhà bị phá hủy hoàn toàn. 450 ngôi nhà khác bị hư hại. Quân Đức chiếm được quân cảng Libava nhưng nó gần như rỗng không. Các tàu ngầm và tàu nổi đã được sơ tán về Riga và Tallinn (không kể những chiếc bị đánh chìm). Ngày 28 tháng 6, Quân đoàn xe tăng 56 (Đức) chiếm Daugavpils, Quân đoàn xe tăng 41 (Đức) chiếm Krustpils, tạo lập một đầu cầu lợi hại trên bờ Đông sông Tây Dvina, đe dọa đánh vào sau lưng phòng tuyến sông Tây Dvina của quân đội Liên Xô.

Sau các trận phản công thất bại của các quân đoàn cơ giới 3 và 12, Phương diện quân Tây Bắc (Liên Xô) hầu như không còn các đơn vị xe tăng đủ sức chiến đấu. Ngày 26 tháng 6, STAVKA điều động Quân đoàn cơ giới 21 từ Quân khu Moskva đi tăng cường cho Phương diện quân Tây Bắc. Trong khi quân đoàn này phải mất hai ngày để có thể đến được tuyến sông Tây Dvina thì chiều ngày 28 tháng 6, các sư đoàn xe tăng 8 và cơ giới 3 thuộc Quân đoàn xe tăng 56 (Đức) đã vượt sông Tây Dvina tại Daugavpils, hình thành một bàn đạp tấn công thứ hai bên hữu ngạn con sông này. Kế hoạch dựng phòng tuyến trên sông Tây Dvina của quân đội Liên Xô có nguy cơ phá sản. Tướng F. I. Kuznetsov phải điều Tập đoàn quân 27 của tướng N. E. Berzarin (chỉ có 4 sư đoàn bộ binh) từ Riga xuống chặn kích Quân đoàn xe tăng 41 (Đức) tại Krustpils trong khi Quân đoàn cơ giới 21 vừa từ Moskva đến buộc phải đổ quân xuống nhà ga Rēzekne và tiến xuống chặn kích tại phía Bắc Daugavpils. Quân đội Liên Xô phòng thủ tại Riga chỉ còn lại những đơn vị đã bị thiệt hại nặng của các sư đoàn bộ binh 67 (1/4 quân số ban đầu), 10, 23, 90 (mỗi sư đoàn chỉ còn lại 1/3 quân số ban đầu). Riêng Sư đoàn cơ giới 22 NKVD vẫn còn đủ quân số và các xe bọc thép, xe mô tô. Sau khi đánh chiếm khu Tây thành phố, quân Đức bắc cầu phao tại khu vực Kamennog (nay là nơi có cây cầu Kamenogo) và đột nhập sang khu Đông thành phố. Ở phía Nam Riga, quân Đức cũng vượt sông Tây Dvina tại khu vực pháo đài Bauska và Ikšķile. Ngày 29 tháng 6, đã nổ ra các trận tao ngộ chiến giữa Sư đoàn bộ binh 61 (Đức) với quân Liên Xô tại khu vực chợ trung tâm thành phố. Quân đội Liên Xô không chỉ phải chống lại quân Đức mà còn bị những người của lực lượng bán vũ trang Aizsargi (một tổ chức dân quân Latvia bị giải thể ngày 23 tháng 6 năm 1940) bắn vào sau lưng. Ngày 30 tháng 6, các quân 26 và 38 Đức đồng loạt vượt sông Tây Dvina, buộc Tập đoàn quân 8 (Liên Xô) phải rút khỏi phòng tuyến sông Tây Dvina lên phía Bắc, lập tuyến phòng thủ mới tại khu vực Pärnu - Viljandi - Tartu để bảo vệ Tallinn.

Ngày 28 tháng 6, Quân đoàn cơ giới 21 buộc phải đưa từng sư đoàn vào giao chiến tại Đông Bắc Daugavpils mà không thể tập hợp đầy đủ đội hình của quân đoàn do thời gian quá gấp gáp. Nhưng do vị trí hiểm yếu của Daugavpils nằm ở nơi tiếp giáp giữa Phương diện quân Tây Bắc và Phương diện quân Tây, việc chiếm lại Daugavpils có ý nghĩa quan trọng đối với ý đồ ổn định mặt trận phía Tây và Tây Bắc. Mặc dù chỉ có hơn 10 xe tăng T-34 và vài chiếc KV-1 nhưng các tiểu đoàn xe tăng của các thiếu tá Egorov và Moskalyov thuộc Sư đoàn xe tăng 46 do đại tá Koptsov vẫn xông vào cuộc chiến. Các xe tăng Pz-III và Pz-IV của quân Đức dễ dàng đốt cháy hơn chục chiếc BT-7 và T-26 nhưng không thể khuất phục được mấy chiếc KV-1 và T-34. Chiều 28 tháng 6, Sư đoàn xe tăng 46 (Liên Xô) đã đẩy lùi Sư đoàn cơ giới 3 về bên kia sông Tây Dvina. Quân Đức để lại trên trận địa 13 xe tăng và quân số khoảng 1 tiểu đoàn bộ binh. Trên cánh trái, Sư đoàn bộ binh cơ giới 185 cũng tấn công vào Sư đoàn cơ giới SS "Totenkorf" nhưng không đạt được mục tiêu cuối cùng. Sư đoàn này bị Sư đoàn cơ giới SS "Totenkorf" chặn đứng khi chỉ còn cách Daugavpils 15 đến 20 km về phía Đông.

Trận phòng ngự Pskov

Trận phòng ngự Pskov là trận đánh lớn cuối cùng trong chuỗi trận đánh của Chiến dịch phòng thủ chiến lược vùng Pribaltic. Sau khi đánh bại Phương diện quân Tây Bắc (Liên Xô) trong các trận hội chiến biên giới, ngày 2 tháng 7 năm 1941, quân đội Đức Quốc xã tiếp tục tấn công. Lực lượng đột kích chủ yếu của Cụm tập đoàn quân Bắc là Tập đoàn quân xe tăng 4 do tướng Erich Hoepner chỉ huy với 3 sư đoàn xe tăng và 3 sư đoàn cơ giới đã triển khai đòn tấn công vào Rēzekne và hướng đến khu vực Ostrov - Pskov trên biên giới Nga - Estonia.

Ngay từ ngày 25 tháng 6, Phương diện quân Tây Bắc đã được Bộ tổng tư lệnh quân đội Liên Xô tăng viện Quân đoàn bộ binh của thiếu tướng I. S. Kosobutski gồm ba sư đoàn bộ binh và Quân đoàn cơ giới 1 do thiếu tướng M. L. Cherniavsky chỉ huy với nhiệm vụ phòng thủ hướng Pskov. Tuy nhiên, nhiều đơn vị của các quân đoàn này vẫn chưa đến khu vực chiến sự. Tiếp cận chiến trường đầu tiên là Sư đoàn bộ binh 111 đến từ Yaroslavl và Sư đoàn bộ binh 118 đến từ Kostroma. Các chuyến xe lửa đầu tiên chở sư đoàn bộ binh 235 của quân đoàn 41 theo dự kiến phải đến ngày 5 tháng 7 mới tới nơi. Kết quả là ngày 3 tháng 7, cánh quân xe tăng Đức đã đi trước quân đội Liên Xô, đánh chiếm Rēzekne, chia cắt tập đoàn quân 8 với tập đoàn quân 27 (Liên Xô). Trong đó, địa đoạn Ostrov - Pskov là nơi xung yếu nhất.

Ngày 4 tháng 7, Sư đoàn xe tăng 1, đơn vị đi đầu của tập đoàn quân xe tăng 4 (Đức) đã tấn công Ostrov và đánh chiếm các cứ điểm trong khu phòng ngự này. Phương diện quân Tây Bắc, tướng P. P. Sobelnikov yêu cầu Trung đoàn bộ binh độc lập 1 của Quân đoàn bộ binh 41 và Sư đoàn cơ giới 3 (thiếu 1 trung đoàn bộ binh cơ giới) thuộc Quân đoàn cơ giới 1 đã đến mặt trận phải phản kích ngay để khôi phục tình hình. Qua điện thoại với tư lệnh quân đoàn bộ binh 41 I. S. Kosobutski; tham mưu trưởng mới của phương diện quân, trung tướng N. F. Vatutin (nguyên Phó tổng tham mưu trưởng quân đội Liên Xô) đã yêu cầu:

Ngày 5 tháng 7, quân đội Liên Xô phản công và lấy lại được Ostrov nhưng ngay ngày hôm sau, các sư đoàn xe tăng 1 và 6 (Đức) đã đẩy lùi cuộc phản công này, thậm chí còn mở rộng tấn công về hướng Pskov. Mãi đến chiều ngày 6 tháng 7, sư đoàn bộ binh 235 mới đến chiến trường. Ngày 7 tháng 7, quân đội Liên Xô tiếp tục phản kích nhưng không thành công. Việc tung từng sư đoàn quân Liên Xô ra chặn kích chỉ làm cho quân Đức dễ dàng "bẻ đũa từng chiếc". Đêm ngày 7 tháng 7, Bộ tư lệnh Phương diện quân Tây Bắc quyết định rút các lực lượng của mình khỏi Pskov.

Ngày 8 tháng 7, đã xảy ra một sự nhầm lẫn tai hại bắt đầu từ việc thiếu kiểm tra và quy định các tuyến rút quân tại quân đoàn cơ giới 12 và các đơn vị hậu vệ của các tập đoàn quân 8 và 27. Việc để cho các đơn vị thất trận liên tục rút qua trận địa phòng ngự của Quân đoàn bộ binh 41 đã làm cho nhiều binh sĩ của đơn vị này hoang mang và mất tinh thần. Sự việc càng trầm trọng hơn do không quân Đức liên tục tiến hành các đợt oanh kích vào các đoàn quân Liên Xô đang rút lui. Các tuyến đường giao thông bị máy bay cường kích Đức khống chế, gây khó khăn cho việc tiếp tế vũ khí, đạn dược, lương thực cho các đơn vị đang chiến đấu.

Ngay trong buổi sáng ngày 8 tháng 7, quân Đức đã vượt sông và bám trụ được trên bờ bắc sông Cheryokha và mở rộng căn cứ bàn đạp sang khu vực ngoại ô phía nam Pskov. Chỉ huy sư đoàn bộ binh 118, thiếu tướng N. M. Glovatsky yêu cầu cho quân của mình đi ngang qua trận tuyến nhưng tư lệnh quân đoàn 41, thiếu tướng I. S. Kosobutski không chấp nhận. Điều đó đã khởi đầu cho một cuộc rút quân hỗn loạn qua các cây cầu ở Pskov mà không được chuẩn bị trước. Trên bờ tây sông Cheryokha, các sư đoàn 111, 118 và một phần sư đoàn 25 bị thiệt hại lớn về người và phương tiện. Những bộ phận còn lại của các đơn vị này đã được sáp nhập vào quân đoàn bộ binh 41 và được ném ngay trở lại mặt trận trên khu vực Gdov (sư đoàn bộ binh 118) và Luga (các sư đoàn 111, 25 và lữ đoàn bộ binh 90). Ngày 9 tháng 7, quân Đức chiếm Pskov. Điều đó có nghĩa là Cụm Tập đoàn quân Bắc (Đức) đã có thêm một căn cứ bàn đạp quan trọng để chuẩn bị cho cuộc tấn công Leningrad.

Vì để mất Pskov, thiếu tướng N. M. Glovatsky bị tòa án binh kết án tử hình và bị xử bắn ngày 3 tháng 8 năm 1941, thiếu tướng I. S. Kosobutski, tư lệnh Quân đoàn bộ binh 41 bị xử án tù 10 năm, đến tháng 10 năm 1942 được phục hồi, trở lại tham gia chiến đấu và được phong quân hàm trung tướng năm 1944. Trưởng phòng kỹ thuật quân sự của Quân đoàn bộ binh 41, kỹ sư quân sự bậc 2 Golovlev cũng bị xử bắn trong tháng 7 theo bản án của tòa án quân sự Phương diện quân Tây Bắc.

Hoạt động của không quân trong các chiến dịch

Không quân Đức quốc xã làm chủ bầu trời Pribaltic

Sát trước chiến tranh, Quân khu đặc biệt Pribaltic sở hữu một lực lượng không quân đáng kể gồm các sư đoàn không quân hỗn hợp 4, 6, 7, 8, Sư đoàn không quân ném bom 57, các trung đoàn máy bay vận tải 21 và 312 được trang bị khoảng 1.200 máy bay các loại. Hạm đội Baltic cũng có một lực lượng không quân khá mạnh gồm các lữ đoàn không quân 8 (ném bom), 10 (hỗn hợp), 61 (tiêm kích), 2 trung đoàn không quân trinh sát, liên lạc, vận tải, 7 đại đội thủy phi cơ và 1 lữ đoàn đổ bộ đường không, được trang bị 656 máy bay, trong đó có 172 máy bay ném bom.

Tuy nhiên, trang bị của không quân của mặt đất và không quân của hải quân Liên Xô thời kỳ này khá lạc hậu. Trong số hơn 1.200 máy bay của 5 sư đoàn không quân chỉ có hơn 200 chiếc MiG-3, Yak-1, IL-2, Pe-2 và Tu-1. Số còn lại là các máy bay chế tạo từ những năm 1933-1936 như các máy bay tiêm kích loại hai tầng cánh I-5, I-15, loại 1 tầng cánh I-16; các máy bay ném bom loại hai tầng cánh I-4, ANT-3, loại một tầng cánh TB-1 (ANT-4), TB-3 (ANT-6) bay êm nhưng chậm chạp và hầu như không có hỏa lực phòng thủ. Những máy bay này không thể là đối thủ của các máy bay tiêm kich hiện đại của nước Đức Quốc xã như Me-109, He 100, He 112, Fokker G.I cũng như các máy bay ném bom Me-110, Ju-87, Ju-88, He-111, Fw 200. Không quân của hạm đội Baltic chủ yếu sử dụng loại máy bay tiêm kích hai tầng cánh I-5, I-15, I-153, máy bay ném bom ANT-3, TB-1 và cả máy bay đưa thư Po-2. Hải quân hạm tàu của Hạm đội Baltic có 62 chiếc thủy phi cơ Sch-2 và MBR-2. Một số ít máy bay I-16 đã được đưa vào sử dụng nhưng đội ngũ phi công của hạm đội vẫn chưa thể sử dụng thành thạo loại máy bay mới này.

Vào thời điểm bắt đầu cuộc chiến, không quân của Phương diện quân Tây Bắc (Liên Xô) đã không kịp chuyển cấp chiến đấu, không kịp phân tán máy bay tại các sân bay chính ra các sân bay dự bị, không kịp ngụy trang và chuẩn bị kỹ thuật để cất cánh; do đó, đã trở thành mục tiêu cho các trận oanh tạc lớn của không quân Đức Quốc xã. Ngay trong các trận không kích đầu tiên từ 3 giờ 50 phút sáng 22 tháng 6 năm 1941, các sân bay gần biên giới như Grodno, Šiauliai, Vilnius, Kaunas, Lida, Jelgava cũng như các sân bay ở sâu trong địa bàn quân khu như Riga, Daugavpils, Molodechno và Tallinn đều đồng loạt bị tấn công. Hàng dãy máy bay, chủ yếu là các máy bay kiểu mới) đậu trên các đường lăn nối tiếp nhau trúng bom, bắt lửa và bốc cháy. Chỉ sau ba ngày liên tục dội bom, không quân Đức Quốc xã đã phá hủy 921 máy bay Liên Xô, chiếm 76% số lượng máy bay của không quân thuộc Phương diện quân Tây Bắc (Liên Xô).

Trong thế bị động, không quân của Phương diện quân Tây Bắc và không quân của Hạm đội Baltic vẫn tìm cách giáng trả đối phương. Ngày 23 tháng 6, Sư đoàn không quân ném bom 57 tổ chức 5 tốp máy bay ném bom Warszawa, các hải cảng Klaipėda (Memel), Königsberg và Danzig. Ngày 25 tháng 6, sau khi Phần Lan tuyên chiến với Liên Xô, không quân của Hạm đội Baltic đã ném bom Helsinki, thành phố Tampere và cảng Turku của Phần Lan. Ngày 6 tháng 7, không quân của Hạm đội Baltic tổ chức một trận chiến không đối hải lớn, phối hợp với tuần dương hạm Marsim Gorky đánh chìm một tàu khu trục Đức tại vùng biển ngoài khơi cảng Ventspils. Tuy nhiên, vì để xảy ra những tổn thất quá lớn, ngày 29 tháng 6, trung tướng A. P. Yonov, tư lệnh không quân của Phương diện quân Tây Bắc bị cách chức. Thay thế ông là thiếu tướng Ivan Petrovich Zhuravlev, phó tư lệnh không quân của Phương diện quân.

Không quân hạm đội Baltic không kích Berlin

Máy bay ném bom DB-3 (phiên bản dùng cho hải quân của TB-3) Ngày 31 tháng 7 năm 1941, Bộ tổng tư lệnh tối cao Liên Xô đã ra một quyết định bất ngờ: sử dụng không quân của Hạm đội Baltic phối hợp với không quân ném bom tầm xa mở cuộc không kích vào Berlin, thủ đô của nước Đức Quốc xã để trả đũa đối với các cuộc oanh tạc của không quân Đức Quốc xã vào Moskva. Kế hoạch được mang tên mật là "Chiến dịch B". Do các sân bay trên đất liền gần biên giới đều bị quân đội Đức đánh chiếm và Cụm tập đoàn quân Trung tâm (Đức) đang giao chiến với Phương diện quân Tây (Liên Xô) tại cửa ngõ Smolensk, STAVKA quyết định sử dụng không quân của Hạm đội Baltic tại căn cứ trên đảo Saaremaa và căn cứ Hanko phối hợp với không quân chiến lược tầm xa thực hiện nhiệm vụ này. Ngày 2 tháng 8 năm 1941, 45 máy bay ném bom DB-3F (phiên bản TB-3 dùng cho binh chủng không quân của quân chủng hải quân) và IL-4 đã được tập kết tại các căn cứ Kogula trên đảo Saaremaa. Hanko là căn cứ dự bị phía sau. 15 tổ lái, mỗi tổ gồm 5 phi công: Lái chính, hoa tiêu, hoa tiêu ném bom, xã thủ và kỹ thuật cơ khí trên không của Bộ Tư lệnh không quân chiến lược tầm xa được điều đến phối hợp với 30 tổ lái của không quân hạm đội Baltic. Các phi công Liên Xô phải tiến hành các phi vụ ném bom vào ban đêm trong điều kiện không có không quân tiêm kích yểm hộ trên tuyến đường bay khứ hồi có tổng chiều dài 1.740 km từ Kogula đến Berlin và quay về, trong đó có khoảng 1.400 km bay trên biển.

Đêm 6 tháng 8, tổ lái máy bay không số gồm lái chính: đại tá Yevgeni Nikolayavich Preobrazhensky, hoa tiêu: đại úy P. I. Khokhlov, hoa tiêu cắt bom: đại úy A. Ya. Efremov, xạ thủ: trung sĩ Rudakov và kỹ thuật viên trên không: đại úy V. A. Koleshnichenko thực hiện chuyến bay trinh sát dò đường. Chiếc DB-3 xuất phát từ Kogula bay dọc bờ biển Baltic đến Stettin, ngoặt theo hướng Nam đến Berlin và cắt bom rồi quay ra hướng Bắc, đến đảo Bornholm của Đan Mạch thì ngoặt về phía Đông. Các mốc chuẩn được xác định tại đảo Gotland của Thụy Điển (đường bay vào) và đảo Bornholm (đường bay ra). Để giữ bí mật cuộc không kích, ngày 4 tháng 8, hãng TASS (Liên Xô) đưa tin dẫn theo nguồn hãng Reuter (Anh) rằng có một cuộc không kích đã xảy ra tại Berlin do các máy bay ném bom tầm xa của Anh tiến hành. Phía Anh "tung hứng" với phía Liên Xô bằng cách gián tiếp xác nhận bốn máy bay ném bom của họ đã không quay về căn cứ. Đêm 7 tháng 8, Berlin lại bị không kích với một khối lượng bom lớn đã trút xuống phía Tây thành phố. Lần này thì cuộc không kích đúng là do các máy bay ném bom tầm xa của Không quân hoàng gia Anh thực hiện.

Cuộc không kích lớn đầu tiên của Không quân hạm đội Baltic (Liên Xô) vào Berlin diễn ra đêm 8 tháng 8. Các máy bay DB-3 chở quá nặng đến mức chỉ rời mặt đất khi đã chạy đến giới hạn cuối đường băng dài 1,5 km. Bụng máy bay quét vào các ngọn cây. 15 máy bay DB-3 đã thả 30 tấn bom loại FAB-100 và FAB-250 xuống trung tâm Berlin và các vùng phụ cận từ độ cao 6.000 m. Tất cả 15 chiếc DB-3 và Ilyushin Il-4 đều trở về căn cứ an toàn. Vẫn như lần trước, quân Đức cho rằng Không quân Hoàng gia Anh là "thủ phạm" của cuộc không kích này. Adolf Hitler gọi thống chế Hermann Göring, tư lệnh không quân Đức Quốc xã đến Văn phòng Đế chế và lớn tiếng quở trách:

Máy bay ném bom tầm xa Ilyushin Il-4

Hermann Göring im lặng ra về và ra lệnh cho không quân Đức Quốc xã tiếp tục oanh tạc dữ dội hơn vào London và Moskva.

Sau trận ném bom thứ nhất, kỹ sư cơ giới trên không V. A. Koleshnichenko cho rằng việc nhồi đến 2 tấn bom cho mỗi chuyến bay là liều lĩnh. Rừng cây cuối đường băng không đáng sợ nhưng hiểm họa đang chờ những chiến DB-3 chính là các tảng đá nhọn lởm chởm ở phía Tây đường băng có chiều cao tương đương với các ngọn cây. Mặt khác, nếu cứ tiếp tục bay với tải trọng lớn như vậy thì mỗi máy bay chỉ có thể thực hiện được vài ba chuyến bay trước khi động cơ bị hỏng. Chỉ huy trưởng chiến dịch, đại tá Ye. N. Preobrazhensky đồng ý và ra lệnh mỗi máy bay chỉ được chở từ 800 kg đến 1 tấn bom.

Từ 0 giờ 55 phút đến 1 giờ 25 phút đêm 9 rạng ngày 10 tháng 8, 12 chiếc DB-3 từ sân bay Kogula tiếp tục bay đến nám bom Berlin. Lần này, Bộ Tổng tư lệnh tối cao Liên Xô công khai hóa các cuộc tấn công đường không của mình. 2 trong số 72 quả bom FAB-100 được nhồi hàng nghìn tờ truyền đơn của Liên Xô lên án cuộc xâm lược của nước Đức Quốc xã. Trên đường trở về căn cứ, chiếc DB-3 số hiệu 391113 được điều khiển bởi trung tá Finiagin (lái chính), trung úy Dikyi (hoa tiêu), thượng sĩ Marokin (xạ thủ), thiếu úy Shuyev (cơ khí trên không) đã bị trúng hỏa lực phòng không từ pháo cao xạ Đức bắn lên khi ra khỏi Berlin. Tổ lái Liên Xô phải hạ cánh bắt buộc trên biển Baltic và được tàu chiến Liên Xô vớt lên. Máy bay bị chìm.

Trong khi Đoàn chủ tịch Xô Viết tối cao Liên Xô ký Sắc lệnh số 34 tặng thưởng 4 danh hiệu Anh hùng Liên Xô, 12 huân chương Lenin, 21 huân chương Cờ đỏ, 20 huân chương Sao Đỏ và 14 huy chương Chiến công cho các phi công, sĩ quan chỉ huy, sĩ quan, hạ sĩ quan và nhân viên kỹ thuật Liên Xô đã tham gia các trận không kích vào lãnh thổ Đức Quốc xã thì tại Berlin, Adolf Hitler đã triệu tập Thống chế Wilhelm Ritter von Leeb và thượng tướng Georg von Küchler đến Văn phòng Đế chế. Hitler yêu cầu các ông này phải bằng mọi cách đánh chiếm quần đảo Moonsund và triệt phá các căn cứ không quân và hải quân Liên Xô trên các hòn đảo, nơi các máy bay Liên Xô xuất kích tấn công Berlin. Không quân Đức tăng cường không kích căn cứ không quân chính Kogula, căn cứ không quân dự bị ở Hanko và quân cảng Kingisepp, buộc quân đội Liên Xô phải rút bớt lực lượng pháo phòng không về bảo vệ các sân bay. 18 chiếc I-15 và I-153 cũng được gửi đến các sân bay nhỏ tại Kihelkonna và Võhma để phối hợp với pháo phòng không bảo vệ sân bay chính.

Quân Đức tăng cường thêm lực lượng pháo cao xạ và các đèn pha cỡ lớn để bảo vệ Berlin. Lúc 19 giờ ngày 31 tháng 8, 6 chiếc DB-3 bay đến Berlin thì hai chiếc đã bị pháo phòng không Đức bắn rơi trên không phận thành phố. Bốn chiếc còn lại đã thả xuống 2 quả bom FB-500, 12 quả bom cháy ZAB-50 và 2 tấn thuốc nổ mạnh. Ba chiếc DB-3 khác không đến đích do bị lạc trong sương mù đã phải quay về ném bom Klaipėda, Liepāja và Danzig. Trong khi hạ cánh xuống sân bay Kogula, một chiếc DB-3 đã chạy vượt đường băng và đâm vào núi, phi hành đoàn thiệt mạng. Đây là trận đánh có thiệt hại lớn nhất của không quân tầm xa Hạm đội Baltic kể từ ngày bắt đầu chiến dịch "B".

Hoạt động của hải quân trong chiến dịch

Trận phòng ngự Tallinn

Quân đội Liên Xô đào hào phòng thủ quanh Tallinn

Tallinn là hải cảng quan trọng thứ hai của Hải quân Liên Xô tại vùng biển Baltic sau Leningad. Cùng với căn cứ hải quân Hanko mà Liên Xô thuê của Phần Lan tại ven bờ Bắc Vịnh Phần Lan, hai căn cứ này tạo thành cửa ngõ ra vào biển Baltic của Hạm đội Baltic (Liên Xô) có căn cứ - sở chỉ huy hạm đội tại Leningrad. Do vị trí trọng yếu khống chế cửa ngõ đường biển ra vào Vịnh Phần Lan đồng thời cũng là của ngõ bảo vệ Leningrad từ hướng biển, ngày 30 tháng 7 năm 1941, Tổng tư lệnh tối cao Liên Xô I. V. Stalin hạ lệnh cho Phương diện quân Bắc và Hạm đội Baltic:

Cuối tháng 7 năm 1941, việc Tập đoàn quân xe tăng 4 (Đức) thọc sâu về hướng Leningrad và sự kiện Pskov thất thủ đã đặt Tập đoàn quân 8 (Liên Xô) vào tình trạng nguy hiểm. Phương diện quân Tây Bắc bị giải thể do mất đất và mất đến 2/3 quân số. Tập đoàn quân 8 (Liên Xô) nhập vào đội hình Phương diện quân Bắc. Vì bị sông Narva và hồ Chudskoye chia cắt, Quân đội Liên Xô tại khu vực này chỉ còn liên lạc được với Phương diện quân Bắc chủ yếu bằng đường biển và một eo đất hẹp lầy lội ở cửa sông Narva. Lực lượng phòng thủ trên bộ do trung tướng M. M. Popov chỉ huy chỉ còn lại Quân đoàn bộ binh 10 của thiếu tướng I. F. Nikolayev với 2 sư đoàn bộ binh 10 và 11; Sư đoàn cơ giới 22 NKVD rút từ Riga về; Bộ tư lệnh biên phòng Estonia do thiếu tướng G. S. Zshikhin gồm Trung đoàn 7 và Trung đoàn; căn cứ hải quân Tallinn do Hạm trưởng hạm đội bậc 2 M. I. Moskalenko chỉ huy. Ngoài ra còn có các tiểu đoàn cộng sản Tallinn 1 và 4, Tiểu đoàn dân quân tình nguyện Tallinn 4 và 7, các đại đội tình nguyện Harju, Koolga, Parnu và Vilijady. Lực lượng tàu biển của Hạm đội Baltic ở Tallinn còn khá lớn gồm tuần dương hạm "Kirov", các thiết giáp hạm "Minsk" và "Leningrad", các khu trục hạm "Moskva" và "Argun", các pháo hạm hộ tống "Grozyash", "Kalinin", "Volodava", "Archyom", "Silnyi", "Serdyuk", "Smetliv", "Svirep" và "Engels". Hạm đội Baltic còn có 8 khẩu đội pháo bờ biển, trong đó có một khẩu đội pháo hạng nặng đặt trên đường ray, 2 đoàn hỏa tàu bọc thép được trang bị pháo 37 mm và 76 mm. Không quân của Hạm đội Baltic đóng tại Tallinn gồm các trung đoàn 13 và 71 có 85 máy bay còn hoạt động được. Lực lượng phòng không Liên Xô ở Tallinn có Sư đoàn phòng không 10 và Trung đoàn phòng không độc lập 5 được trang bị 183 pháo phòng không và 62 súng máy các loại.

Không quân Đức Quốc xã ném bom Tallinn, tháng 8 năm 1941

Cuối tháng 7 năm 1941, Tập đoàn quân 8 (Liên Xô) đã hình thành một tuyến phòng thủ bảo vệ Tallinn từ Parnu qua Tartu đến hồ Chudskoye. Tuy nhiên, lực lượng phòng thủ quá mỏng đã không thể giữ được tuyến phòng thủ liên tục, đặc biệt trên hướng Tartu. Ngày 2 tháng 8 năm 1941, Sư đoàn cơ giới 36 tấn công lên Luga, Sư đoàn bộ binh và 254 (Đức) đã chọc thủng phòng tuyến của các sư đoàn bộ binh 48 và 125 (Liên Xô) ở phía Đông hồ Chudskoye, đánh chiếm Tartu và thẳng tiến theo hướng Rakvere ra biển Baltic. Ngày 4 tháng 8, Sư đoàn bộ binh 254 (Đức) tiến ra cửa sông Narva, chia cắt Tập đoàn quân 8 (Liên Xô) tại khu vực Tallinn với chủ lực Phương diện quân Bắc (Liên Xô) đang phòng thủ trên hướng Narva - Luga. Ngày 5 tháng 8, Sư đoàn bộ binh 291 và các cụm tác chiến "Fridrich" (Đức) gồm các sư đoàn bộ binh 58 và 207 đã đột phá vượt sông Pärnu, đánh chiếm Pärnu, Kergu, Türi và Paide, đẩy Tập đoàn quân 8 (Liên Xô) lùi về hướng Tallinn từ 10 đến 20 km. Cụm quân Liên Xô tại Tallinn bị bao vây và chỉ còn đường ra biển Baltic.

Từ ngày 5 đến ngày 10 tháng 8, công binh Liên Xô và người dân Tallinn cấp tốc đào các tuyến hào chống tăng, dựng các chướng ngại vật chống tăng trên các đường giao thông, bãi trống và bố trí các bãi mìn phòng thủ quanh khu vực bán kính 60 đến 80 km quanh Tallinn, các trận địa pháo chống tăng được bố trí trên 4 tuyến đường sắt và đường bộ nối Tallinn với Narva, Tartu, Pärnu và Haapsalu. Hàng trăm km chiến hào được dọc theo các lớp phòng thủ. Các con sông nhỏ Ternugs, Kejla, Jagala và Valge chảy qua phía Nam và phía Đông Tallinn cũng được lợi dụng để xây dựng các tuyến phòng thủ. Từ ngày 10 đến ngày 16 tháng 8, các sư đoàn bộ binh 61, 217, 254 và 291 (Đức) phát động các trận tấn công ở phía Đông và Đông Nam Tallinn, đẩy Quân đoàn bộ binh 10 (Liên Xô) lùi sâu thêm 20 km. Sư đoàn bộ binh 254 (Đức) từ hướng Narva đã đột phá qua cửa sông Valge tiến dọc bờ biển về Tallinn. Chỉ có các trận pháo kích ác liệt từ các tàu tuần dương và tàu khu trục của hạm đội Baltic mới ngăn cản được cuộc đột kích này. Tuy nhiên, tình hình Tallinn vẫn rất nghiêm trọng, thành phố và hải cảng Tallinn liên tục hứng chịu các cuộc ném bom của không quân Đức.

Liên Xô rút khỏi Tallinn

Cảng Tallinn sau khi bị quân đội Đức Quốc xã chiếm đóng

Phó đô đốc V. F. Tributs và Hội đồng quân sự Hạm đội Baltic đã có kế hoạch di tản khỏi Tallinn từ cuối tháng 7, khi Tập đoàn quân 8 (Liên Xô) bị bao vây ở khu vực Pärnu - Tartu - Tallinn nhưng Tổng tư lệnh hướng Tây Bắc, nguyên soái K. Ye. Voroshilov và Bộ trưởng dân ủy hải quân Liên Xô, đô đốc N. G. Kuznetsov chống lại kế hoạch này. Chỉ đến khi tình hình Tallinn không còn khả năng cứu vãn, mãi đến ngày 22 tháng 8, kế hoạch sơ tán Hạm đội Baltic khỏi Tallinn mới được Đại bản doanh Bộ Tổng tư lệnh tối cao Liên Xô phê chuẩn. Đó là một quyết định quá muộn màng. Ngày 26 tháng 8 năm 1941, các sư đoàn bộ binh 61, 217, 254, 291 và Cụm tác chiến "Friedrich" (Đức) đã áp sát Tallinn từ ba phía. Các pháo hạm Đức bắt đầu bắn phá quân cảng và thành phố Tallinn. STAVKA hạ lệnh cho Phó đô đốc V. F. Tributs phải cấp tốc sơ tán chủ lực hạm đội Baltic và căn cứ chính của hạm đội này khỏi Tallinn về Kronstadt và Leningrad.

Ngay từ khi quân đội Đức Quốc xã bắt đầu bao vây Tallinn, Adolf Hitler đã ra mệnh lệnh số 33 yêu cầu lục quân và hải quân Đức Quốc xã không được để một chiếc tàu nổi nào của Hạm đội Baltic thoát khỏi Tallinn. Thực hiện lệnh này, các lữ đoàn 777, 796 công binh hải quân Đức và Lữ đoàn 1261 công binh hải quân Phần Lan đã thiết lập 4 bãi thủy lôi ở vùng biển phía Tây Bắc Tallinn và 8 bãi thủy lôi trên khu vực giữa Vịnh Phần Lan, sát quần đảo Suursaari (Gogland). Các tàu chiến Đức cũng hình thành vòng tuần tra kiểm soát phía Tây Bắc Tallinn, chia cắt Tallinn với căn cứ hải quân Hanko trên đất Phần Lan. Hàng chục khẩu đội pháo bờ biển tầm xa cỡ lớn từ 180 mm đến 308 mm của hải quân Đức và hải quân Phần Lan được triển khai dọc bờ biển từ Ekenäs, phía Đông Hanko qua Helsinki đến Kotka, khống chế một vùng biển rộng lớn có tầm xa cách bờ đến hơn 40 km.

  • Đoàn 1 do Hạm trưởng bậc 2 Bogdanov chỉ huy được hộ tống bởi các khu trục hạm "Svirep" và Surov"; các tàu hộ tống "Ametist" và "Kasatka"; Tàu săn ngầm MO-507; tàu tuần duyên PK-208, 6 xuồng cao tốc và 7 tàu đánh cá có vũ trang. Đoàn gồm 8 tàu vận tải, 1 tàu phá băng, 1 tàu hậu cần, 1 tàu bệnh viện, 1 ụ nổi và 3 tàu ngầm SS-307, SS-308, M-79 đang sửa chữa.
  • Đoàn 2 do hạm trưởng bậc 2 Antonov chỉ huy được hộ tống bởi pháo hạm "Moskva", tàu săn ngầm MO-200, tàu tuần duyên PK-214, 6 tàu quét mìn (chuyển đổi từ tàu dân sự) và 8 tàu đánh cá có vũ trang; gồm 2 tàu vận tải, 1 tàu phá băng kéo theo 1 tàu đánh cá bị hỏng máy, 1 tàu khảo sát biển và 3 tàu vớt mìn đang sửa chữa.
  • Đoàn 3 do hạm trưởng bậc 2 Yason chỉ huy được hộ tống bởi pháo hạm Amgun, 2 tàu săn ngầm MO-501 và MO-502, 4 tàu quét mìn (chuyển đổi từ tàu dân sự) và 7 tàu đánh cá có vũ trang; gồm 9 tàu vận tải, 1 tàu chỏ dầu và 1 tàu cứu hộ.
  • Đoàn 4 do hạm trưởng bậc 1 Glukhovtsev chỉ huy được hộ tống bởi pháo hạm I-8, 3 tàu tuần duyên, 3 tàu quét mìn và 4 tàu đánh cá có vũ trang; gồm 1 tàu cứu hộ, 1 sà lan biển tự hành, 2 tàu kéo, tàu phóng lôi TKA-121 bị hỏng máy và tàu ngầm SS-301 đang sửa chữa.
  • Các nhóm tàu đi lẻ không thành đoàn gồm pháo hạm "Topaz", hộ tống hạm hạng nhẹ "Khijusaar" 3 tàu tuần duyên, 2 tàu quét mìn, 10 tàu đánh cá có vũ trang, yểm hộ cho 1 tàu vận tải, 1 tàu phá băng, 1 thông báo hạm, 2 tàu cứu hộ, 2 tàu cao tốc, 1 tàu khảo sát, 1 tàu pha sông biển, 11 tàu kéo, 9 thuyền đa năng, 4 thuyền máy và 2 sà lan.

Trong cuộc di tản lớn này, Hạm đội Baltic đã chuyên chở 41.992 người, bao gồm 19.903 sĩ quan và binh sĩ (trong đó có 8.670 người của Quân đoàn bộ binh 10), 613 nhân viên dân sự của hạm đội và 12.806 thường dân.

Cuộc di tản

Tuần dương hạm "Kirov" xả khói ngụy trang trên đường di chuyển, tháng 8 năm 1941

Trong khi cuộc chuyển quân chuẩn bị bắt đầu thì một tai họa bất ngờ ập đến cho Hạm đội Baltic. Lúc 22 giờ 10 phút đêm 27 tháng 8, các khu trục hạm "Kalinin" và "Volodarskyi" trong đội hình bảo vệ phía sau bị va phải thủy lôi và bị hư hỏng nặng, mất sức chiến đấu. 23 giờ 15 phút, đến lượt khu trục hạm "Archyom" cũng va phải thủy lôi và chìm. Do phải thu dọn lưới và ngư cụ, đến 22 giờ đêm 27 tháng 8, các tàu đánh cá từ ngoài khơi các đảo Naysaar và Aegna mới có mặt tại cảng Tallinn để chất hàng. 23 giờ đêm, các kho vũ khí gồm các loại súng hỏng và đạn dược không thể đem theo được công binh của Hạm đội Baltic cho hủy đốt và hủy nổ. 11 giờ 35 phút, Phó đô đốc V. F. Trib

👁️ 1 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Mặt trận Baltic** là một trong ba mục tiêu tấn công đầu tiên của quân đội Đức Quốc xã trong Chiến dịch Barbarossa. Trong tuần lễ đầu tiên của cuộc Chiến tranh Xô-Đức, tại đây
**Trận phòng thủ Pskov** là một hoạt động quân sự lớn của quân đội Đức Quốc xã và quân đội Liên Xô tại khu vực phía Nam hồ Chuskoye, tuyến sông Velikaya và thành phố
**Trận Raseiniai** (23–27 tháng 6 năm 1941) là một trận đấu xe tăng diễn ra giữa Tập đoàn quân thiết giáp số 4 của quân phát xít Đức với hai Quân đoàn cơ giới của
Các sự kiện quân sự ở Mặt trận phía Đông trong Chiến tranh thế giới thứ hai. Các mốc thời gian ghi theo năm - tháng - ngày. ## 1941 * 1941-06-22 Chiến dịch Barbarossa
**Trận Alytus** là một trong các trận đánh lớn bằng xe tăng đầu tiên trên chiến trường Xô-Đức tại mặt trận vùng Baltic (nay thuộc Litva) trong Chiến tranh thế giới thứ hai. Trong hai
Quân Đức diễn hành tại Paris **Mặt trận phía tây** của chiến trường châu Âu trong Chiến tranh thế giới thứ hai bao gồm các trận chiến trên lãnh thổ của Đan Mạch, Na Uy,
**Trận phòng ngự Liepaja** là một trong những xung đột quân sự đầu tiên giữa quân đội Đức Quốc xã và quân đội Liên Xô mở màn cuộc Chiến tranh Xô-Đức. Cuộc chiến diễn ra
**Trận phòng thủ Riga** là một trong các trận đánh phòng ngự của quân đội Liên Xô chống lại quân đội Đức Quốc xã tại thành phố cảng Riga và trên phòng tuyến sông Tây
**Cuộc bao vây Leningrad** là cuộc phong tỏa quân sự của quân đội Đức Quốc xã đối với thành phố Leningrad (hiện nay là Sankt-Peterburg), đồng thời là cuộc phòng thủ dài ngày nhất trong
**Trận phòng thủ Luga** diễn ra từ ngày 6 tháng 8 đến giữa tháng 9 năm 1941 là một trong các trận đánh ác liệt nhất tại mặt trận Tây Bắc Liên Xô trong giai
**Trận phản công Soltsy** là hoạt động quân sự lớn đầu tiên của Phương diện quân Bắc (sau này là Phương diện quân Leningrad) trên khu vực phía Tây hồ Ilmen. Đây cũng là trận
**Chiến tranh Xô–Đức 1941–1945** là một cuộc chiến giữa Liên Xô và Đức Quốc xã trong Thế chiến thứ hai, trải dài khắp Bắc, Nam và Đông Âu từ ngày 22 tháng 6 năm 1941
**Chiến dịch Barbarossa** (), còn được gọi là **Cuộc xâm lược của Đức vào Liên Xô** là mật danh của chiến dịch xâm lược Liên Xô do Quân đội Đức Quốc xã tiến hành trong
**Chiến dịch phòng ngự chiến lược Leningrad** là tổ hợp các hoạt động quân sự của quân đội Liên Xô chống lại các cuộc tấn công của quân đội Đức Quốc xã tại khu vực
**Chiến dịch Bagration** () là mật danh của **chiến dịch Byelorussia** - chiến dịch tấn công chiến lược mùa hè năm 1944 của quân đội Liên Xô, chính thức bắt đầu ngày 23 tháng 6,
Trang cuối văn bản Hiệp ước không xâm phạm Đức – Xô ngày 26 tháng 8 năm 1939 (chụp bản xuất bản công khai năm 1946) **Hiệp ước Xô – Đức**, còn được gọi là
**Cụm tập đoàn quân Trung tâm** (tiếng Đức: _Heeresgruppe Mitte_) là tên của tổ chức tác chiến chiến lược cấp cụm tập đoàn quân của Đức Quốc xã tại Mặt trận phía Đông trong Thế
**Chiến dịch Na Uy** là tên gọi mà phe Đồng Minh Anh và Pháp đặt cho cuộc đối đầu trực tiếp trên bộ đầu tiên giữa họ và quân đội Đức Quốc xã trong chiến
Mặt trận Xô-Đức năm 1943, tuyến màu đỏ là tuyến Panther-Wotan **Tuyến Panther-Wotan** hay **Tuyến Panther-Stellung** hay **Bức tường phía đông** là một phòng tuyến do quân đội phát xít Đức xây dựng trong năm
**Trận chiến eo biển Đan Mạch** (tiếng Anh: _Battle of the Denmark Strait_; tiếng Đức: _Schlacht bei Dänemarkstraße_) diễn ra vào ngày 24 tháng 5 năm 1941, là một trong nhiều trận hải chiến giữa
**Holocaust ở Latvia** đề cập đến các tội ác chiến tranh do Đức Quốc xã và các cộng tác viên gây ra đối với người Do Thái trong thời kỳ Latvia bị chiếm đóng. ##
**Chiến dịch Tia Lửa** (tiếng Nga: Операция Искра, _Operatsia Iskra_) là một chiến dịch quân sự diễn ra tại Mặt trận Xô-Đức thuộc Chiến tranh thế giới thứ hai. Chiến dịch do Hồng quân Liên
**Chiến dịch Berlin** là chiến dịch tấn công cuối cùng của Hồng quân Liên Xô trong Chiến tranh Xô-Đức. Tại chiến dịch này – diễn ra từ ngày 16 tháng 4 đến 9 tháng 5 năm
**Chiến dịch _Weserübung**_ () là mật danh của cuộc tấn công do Đức Quốc xã tiến hành tại Đan Mạch và Na Uy trong Chiến tranh thế giới thứ hai, mở màn Chiến dịch Na
**Ivan Khristoforovich Bagramyan** (tiếng Nga: _Иван Христофорович Баграмян_) hay **Hovhannes Khachatury Baghramyan** (tiếng Armenia: _Հովհաննես Խաչատուրի Բաղրամյան_) (sinh ngày 2 tháng 12, lịch cũ ngày 20 tháng 11, năm 1897, mất ngày 21 tháng 9
**Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Xô viết Latvia** (; , _Latviyskaya Sovetskaya Sotsialisticheskaya Respublika_), viết tắt **CHXHCNXV Latvia**, là một trong các nước cộng hòa của Liên Xô. Nước cộng hòa được thành lập
**Ivan Ivanovich Maslennikov** (; 16 tháng 9 năm 1900 - 16 tháng 4 năm 1954) là một tướng lĩnh quân đội Liên Xô và chỉ huy NKVD cấp Tập đoàn quân và Phương diện quân
**Litva** (phiên âm: _Lít-va_; ), tên chính thức là **Cộng hòa Litva** () là một quốc gia thuộc khu vực châu Âu theo thể chế cộng hòa. Theo sự phân chia của Liên Hợp Quốc,
**Tập đoàn xung kích số 1** (Nga:_1-я ударная армия_) là một đơn vị quân sự chiến lược cấp tập đoàn quân của Hồng quân Liên Xô trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Được thành
**Kurzeme** (; ; ; Tiếng Đức và ; / ; ; ; ; ; ; ) là một trong những vùng văn hóa lịch sử Latvia. Các vùng Zemgale và Sēlija đôi khi được coi
**Erich von Manstein** tên đầy đủ là **Fritz Erich Georg Eduard von Lewinski** (24 tháng 11 năm 1887 – 10 tháng 7 năm 1973) là một chỉ huy cấp cao của quân đội Đức thời
**Wilhelm Ritter von Leeb** (5 tháng 9 năm 1876 – 29 tháng 4 năm 1956) là một trong những thống chế Đức Quốc xã trong Chiến tranh thế giới thứ hai, tư lệnh cụm tập
**Vyacheslav Mikhailovich Molotov** ( – 8 tháng 11 năm 1986) là một chính trị gia và nhà ngoại giao Liên Xô, một nhân vật nổi bật trong Chính phủ Liên Xô từ thập niên 1920,
**Chiến dịch phản công Tikhvin** (10 tháng 11 năm 1941 - 30 tháng 12 năm 1941) là một trận đánh diễn ra giữa quân đội Liên Xô và quân đội Đức quốc xã trong Chiến
**Pyotr Semyonovich Klyonov** (; 1894-1942) là một tướng lĩnh Hồng quân Liên Xô trong thời kỳ đầu Chiến tranh Vệ quốc vĩ đại, hàm Trung tướng (1940). ## Tiểu sử Klyonov sinh ngày 4 tháng
**Friedrich Wilhelm Viktor Abert von Hohenzollern, Wilhelm II** của Phổ và Đức, (27 tháng 1 năm 1859 – 4 tháng 6 năm 1941) là vị Hoàng đế (_Kaiser_) cuối cùng của Đế quốc Đức, đồng
**Chiến dịch phòng ngự Tikhvin** là tên một chiến dịch phòng ngự của quân đội Liên Xô trong chiến tranh Xô-Đức diễn ra tại tỉnh Leningrad, kéo dài từ ngày 16 tháng 10 đến 18
**Phương diện quân Tây** (tiếng Nga: _Западный фронт_) là một tổ chức tác chiến chiến lược của Hồng quân Liên Xô trong Thế chiến thứ hai. Đây là một trong những phương diện quân chủ
**Semyon Konstantinovich Timoshenko** (tiếng Nga: _Семён Константинович Тимошенко_) (sinh ngày 18 tháng 2 năm 1895, lịch cũ là 6 tháng 2, mất ngày 31 tháng 3 năm 1970) là một Nguyên soái Liên Xô và
thumb|right|upright=1.35|[[Trận Little Bighorn được biết đến với cái tên Cuộc tử thủ của Custer]] Thảm họa quân sự là một bên thất bại trong trận chiến hoặc chiến tranh dẫn đến việc bên thua cuộc
nhỏ|Gotthard Heinrici **Gotthardt Heinrici** (25 tháng 12 năm 1886 – 13 tháng 12 năm 1971) là một vị tướng bộ binh và thiết giáp của Đệ tam Đế chế Đức, đã được thăng đến cấp
**Chiến dịch Berezino** (_Березино_, tên mã gốc của Liên Xô) hoặc **Chiến dịch Beresino** (trong các tài liệu Đông Đức), **Chiến dịch Scherhorn** (trong các tài liệu tiếng Anh), là một hoạt động lừa dối
**_Admiral Scheer_** là một tàu tuần dương hạng nặng thuộc lớp _Deutschland_ đã phục vụ cùng Hải quân Đức Quốc xã trong Chiến tranh thế giới thứ hai. Nguyên được người Đức xếp lớp như
**Erhard Milch** (1892–1972) là một Thống chế Không quân trong Quân đội Đức Quốc Xã, chỉ huy tại bộ phận sản xuất, nâng cấp máy bay và trang bị cho Luftwaffe như một phần của
**Nikolay Erastovich Berzarin** (tiếng Nga: _Никола́й Эра́стович Берза́рин_; 1 tháng 4 năm 1904 - 16 tháng 6 năm 1945) là một tướng lĩnh Hồng quân Liên Xô thời Thế chiến thứ hai. Ông là tư
**Holocaust ở Litva** đã dẫn tới sự hủy diệt gần như toàn bộ người Litva gốc Do Thái (Litvaks),, sống ở Generalbezirk Litauen trong vùng Ostland Reichskommissariat dưới sự kiểm soát của Đức Quốc Xã
**Chiến tranh Mùa đông** (, , ) hay **Chiến tranh Liên Xô-Phần Lan 1939-1940** là cuộc chiến giữa Liên Xô và Phần Lan do tranh chấp lãnh thổ tại vùng Karelia. Nó diễn ra vào
**Vasily Nestorovich Savvin** (; 30 tháng 4 năm 1939 - 24 tháng 2 năm 2020) là một sĩ quan quân đội Liên Xô và sau này là sĩ quan quân đội Nga, từng giữ một
**Chiến tranh thế giới thứ hai** (còn được nhắc đến với các tên gọi **Đệ nhị thế chiến**, **Thế chiến II** hay **Đại chiến thế giới lần thứ hai**) là một cuộc chiến tranh thế
Quân kỳ của Quân đội Đức quốc xã**Lịch sử quân sự Đức trong Chiến tranh thế giới thứ hai** bắt đầu từ quân số 100.000 do Hòa ước Versailles hạn chế, không được quyền có