✨Chiến dịch phòng ngự chiến lược Leningrad
Chiến dịch phòng ngự chiến lược Leningrad là tổ hợp các hoạt động quân sự của quân đội Liên Xô chống lại các cuộc tấn công của quân đội Đức Quốc xã tại khu vực mặt trận Leningrad, bao gồm tỉnh Leningrad, ngoại ô thành phố Leningrad (nay là Sankt-Peterburg) và các vùng lân cận. Từ ngày 10 tháng 7 sau khi Tập đoàn quân xe tăng 4 và Tập đoàn quân 16 (Đức) chọc thủng phòng tuyến Pskov - Opochka đến ngày 30 tháng 9, tại khu vực mặt trận Leningrad trên hướng quân sự Tây Bắc Liên Xô đã diễn ra 5 trận đánh và chiến dịch bộ phận do các tập đoàn quân 16, 18, xe tăng 4 (Đức) và các tập đoàn quân 4, 11, 27, 34, 48, 52, 54 cùng các cụm phòng thủ trên khu vực Luga tiến hành: Trận phản công Soltsy từ ngày 10 tháng 7 đến ngày 18 tháng 7 năm 1941: Quân đội Đức Quốc xã trong thế đang tấn công mặc dù bị quân đội Liên Xô phản công bất ngờ tại khu vực Soltsy nhưng vẫn đẩy lùi cuộc phản công này sau 5 ngày và tiếp cận phòng tuyến của quân đội Liên Xô trên sông Luga. Trận phòng thủ Luga từ ngày 6 tháng 8 đến giữa tháng 9 năm 1941: Sau hơn một tháng phòng thủ và phản kích, tuyến mặt trận của quân đội Liên Xô bị chọc thủng tại khu vực giữa Kingisepp và Luga. Quân Đức bao vây Cụm phòng thủ Luga và tấn công mạnh về hướng Leningrad. Trận phản công Staraya Russa từ 12 đến 25 tháng 8 năm 1941: Mặc dù tạm thời chặn đứng được cuộc tấn công của quân đội Đức Quốc xã trên khu vực quanh hồ Ilmen nhưng quân đội Liên Xô vẫn bị thiệt hại nặng và buộc phải rút lui. Quân đội Đức Quốc xã tiến ra các khu vực tiếp cận ngoại ô phía Nam Leningrad. Ở phía Đông, Quân đoàn bộ binh 23 thuộc Tập đoàn quân 16 (Đức) đánh chiếm khu vực Kholm. Ở phía Bắc, Quân đoàn cơ giới 39 (Đức) đánh chiếm khu vực Shlissenburg, chia cắt Leningrad với lãnh thổ Liên Xô. Ngày 8 tháng 9 năm 1941, Tập đoàn quân 18 (Đức) và Cụm quân Đông Nam (Phần Lan) bắt đầu phong tỏa Leningrad, quân đội và người dân Liên Xô bắt đầu cuộc chiến chống phong tỏa Leningrad. Trận phòng thủ Novgorod - Chudovo từ ngày 10 đến ngày 21 tháng 9 năm 1941. Kết quả là Quân đoàn xe tăng 39 và các quân đoàn bộ binh 1, 28 (Đức) đã chọc thủng phòng tuyến của Tập đoàn quân 48 (Liên Xô) và cắt đứt con đường sắt từ Moskva đi Leningrad tại đầu mối giao thông quan trọng Chudovo. *Trận phòng thủ Demyansk từ ngày 1 đến ngày 26 tháng 9: Quân đội Đức Quốc xã từ tuyến Staraya Russa - Khoml vượt sông Pola tấn công sang phía Đông và bị quân đội Liên Xô chặn đứng trên tuyến hồ Ilmen - Demyansk - Ostashkov.
Sau chiến dịch, Quân đội Đức Quốc xã tiếp tục phát huy chiến quả, tấn công sâu thêm trên hướng Tây Bắc Liên Xô từ 180 km (trên hướng Demyansk, 240 km (trên hướng Leningrad) và đến 360 km trên hướng Tikhvin. Ở vị trí gần nhất, Sư đoàn bộ binh 58 thuộc Quân đoàn bộ binh 38 (Đức) chỉ còn cách khu vực nội đô Leningrad 5 km về phía Tây Nam trên khu vực Pulkovo. Trên mũi đột kích xa nhất, Sư đoàn xe tăng 18 và các sư đoàn bộ binh 6, 8, 12 thuộc Quân đoàn xe tăng 39 (Đức) đánh chiếm Tikhvin, Sư đoàn xe tăng 8 và các sư đoàn bộ binh 11, 21 thuộc Quân đoàn bộ binh 1 (Đức) uy hiếp thành phố Volkhov.
Bối cảnh
Chỉ sau hơn hai tuần đầu của cuộc Chiến tranh Xô-Đức, quân đội Đức Quốc xã đã tiến sâu vào lãnh thổ Liên Xô tại vùng Baltic từ 450 đến 600 km. Quân đội Liên Xô bị thiệt hại nặng nề cả về bộ binh, xe tăng, không quân, phải rút khỏi lãnh thổ các nước cộng hòa Xô Viết Litva, Latvia và phần lớn lãnh thổ Estonia. Đến ngày 9 tháng 7, một phần Tập đoàn quân 8 bị bao vây tại khu vực Tallinn. Thất bại của quân đội Liên Xô trên tuyến phòng thủ Narva - hồ Chudskoye - Pskov - Ostrov - Opochka đã làm cho khoảng cách tiếp giáp sườn trái của Phương diện quân Tây Bắc với cánh trái Phương diện quân Tây (Liên Xô) ngày một rộng ra.
Quân đội Đức Quốc xã đang trên thế thắng đã không bỏ lỡ cơ hội tấn công. Sau khi chiếm Pskov với cái giá rẻ nhất có thể kể từ đầu cuộc Chiến tranh Xô-Đức, các tập đoàn quân 18 và xe tăng 4 (Đức) đã nhanh chóng vận động tấn công theo hướng chung đến tuyến Kingisepp - Luga - Novgorod.
Binh lực và kế hoạch
Quân đội Đức Quốc xã
Binh lực
Tướng Erich Höpner và Bộ tham mưu Tập đoàn quân xe tăng 4 (Đức) bàn kế hoạch tấn công (tháng 8 năm 1941)
Cụm tập đoàn quân "Bắc" (Đức) do thống chế Wilhelm Ritter von Leeb chỉ huy, đội hình tương đối ổn định từ đầu chiến tranh. Đến thời điểm mở chiến dịch tấn công Leningrad, Cụm tập đoàn quân này được tăng cường một số sư đoàn cơ giới và bộ binh. Trong các hoạt động quân sự của Cụm tập đoàn quân "Bắc" tại mặt trận Leningrad có sự tham gia của Tập đoàn quân xe tăng 3 (Đức) trên hướng Tikhvin (Quân đoàn xe tăng 39) và hướng Demyansk (Quân đoàn xe tăng 57). Tổng binh lực từ ngày 10-7 đến khi kết thúc chiến dịch:
*Tập đoàn quân 18 do thượng tướng Georg von Küchler chỉ huy; thành phần gồm có: Quân đoàn bộ binh 42 do trung tướng Hans Graf von Sponeck chỉ huy, gồm các sư đoàn bộ binh 61 và 217. *Quân đoàn bộ binh 26 do thượng tướng pháp binh Albert Vodrig chỉ huy, gồm các sư đoàn bộ binh 93, 254 và 291. Tập đoàn quân xe tăng 4 do thượng tướng Erich Höpner chỉ huy; thành phần gồm có: Quân đoàn xe tăng 41 do trung tướng xe tăng Georg-Hans Reinhardt chỉ huy; trong biên chế có: Xe tăng: Các sư đoàn 1, 6 và 8. Cơ giới: Sư đoàn 36. *Bộ binh: Sư đoàn 1. *Quân đoàn cơ giới 56 do thượng tướng tướng Erich von Manstein (đến 13 tháng 9) và trung tướng Ferdinand Schaal lần lượt chỉ huy; trong biên chế có: Cơ giới: Sư đoàn cơ giới 3 và Sư đoàn cơ giới 4 SS "Polizei". Bộ binh: Sư đoàn 269. Quân đoàn bộ binh 36 do trung tướng Friedrich Wilhelm von Happius chỉ huy; trong biên chế chỉ có Sư đoàn bộ binh 58 chiến đấu trên hướng Leningrad. Các sư đoàn còn lại chiến đấu trên hướng Tallin. Quân đoàn bộ binh 50 được tăng viện đến chiến trường từ ngày 14 tháng 8, do thượng tướng kỵ binh George Lindemann chỉ huy; trong biên chế có các sư đoàn bộ binh 251 và 253. Tập đoàn quân 16 do thượng tướng Ernst Busch chỉ huy; thành phần gồm có: Quân đoàn bộ binh 1 do trung tướng Kuno-Hans von Both chỉ huy; trong biên chế có các sư đoàn bộ binh 11, 21 và 126. Quân đoàn bộ binh 2 do trung tướng Walter Graf von Brockdorff-Ahlefeldt chỉ huy; trong biên chế có các sư đoàn bộ binh 12, 32 và 123. Quân đoàn bộ binh 10 do trung tướng pháo binh Kristian Hansen chỉ huy; trong biên chế có các sư đoàn bộ binh 30 và 290. Quân đoàn bộ binh 28 do trung tướng Moritz von Victorin chỉ huy; trong biên chế có: **Cơ giới: Sư đoàn cơ giới 3 SS "Totenkopf" (tiền thân là Sư đoàn cơ giới 36 SS). Bộ binh: Các sư đoàn 96, 121 và 122. Tập đoàn quân xe tăng 3 do thượng tướng Hermann Hoth chỉ huy, tham gia chiến dịch từ ngày 24 tháng 8 đến 24 tháng 9 năm 1941; thành phần gồm có: Quân đoàn xe tăng 39 do thượng tướng Rudolf Schmidt chỉ huy, tham gia toàn bộ chiến dịch với biên chế gồm: Xe tăng: Sư đoàn xe tăng 12. *Cơ giới: Các sư đoàn cơ giới 18 và 20. *Quân đoàn xe tăng 57 do trung tướng xe tăng Adolf Kuntz chỉ huy, tham gia chiến dịch đến ngày 30 tháng 8 trên hướng Demyansk, trong biên chế có: Xe tăng: Các sư đoàn 16 và 19 Cơ giới: Sư đoàn 28. Tập đoàn quân không quân 1 do thượng tướng Alfred Keller chỉ huy; thành phần gồm có: Sư đoàn không quân hỗn hợp 1 do trung tướng Helmut Förster chỉ huy; trong biên chế có: Máy bay ném bom: Các trung đoàn 1 "Hindenburg", 4 "Baben", 76 và 77 được trang bị các máy bay ném bom He 111 và Ju 88. Máy bay cường kích và tiêm kích bom: Trung đoàn 78 được trang bị các máy bay Ju 87 và Me 110 *Máy bay tiêm kích: các trung đoàn 26 "Horst Wessel", 53 "Pik As" và 54 "Grünherz", được trang bị các máy bay Me 110 và Me 109. *Sư đoàn không quân hỗn hợp 8 do trung tướng Gunther Korten chỉ huy, tham gia chiến dịch từ cuối tháng 7 đến 28 tháng 9; trong biên chế có: Máy bay ném bom: các trung đoàn 2 "Holzhammer" và 3 "Blitz" được trang bị máy bay Do 17. Máy bay cường kích và tiêm kích bom: Trung đoàn 2 "Immelmann" được trang bị máy bay Ju 87 và trung đoàn 210 "Hornissen" được trang bị máy bay Me 110. Máy bay tiêm kích: Các trung đoàn 27 và 52 được trang bị máy bay Me 109. *Huấn luyện: Trung đoàn huấn luyện được trang bị các máy bay Me 109 và Hs 123. *Các đơn vị trực thuộc tập đoàn quân: Trung đoàn 2 trinh sát tầm xa được trang bị các máy bay Ju 88 và He 114. Trung đoàn 1 trinh sát khí tượng được trang bị các máy bay He 111 và He 60. Trung đoàn 125 trinh sát đường không được trang bị máy bay He 50. ***Trung đoàn 106 vận tải được trang bị máy bay Ju 52.
Kế hoạch
Việc đánh chiếm Leningrad là một trong ba mục tiêu chiến lược của nước Đức Quốc xã trong kế hoạch Barbarossa. Ngày 2 tháng 7 năm 1941, khi tiếp thống chế Wilhelm Ritter von Leeb từ mặt trận về báo cáo tình hình. Adolf Hitler nói với ông này:
Khi quân đội Đức Quốc xã đã tiếp cận phòng tuyến Luga sau 9 ngày tấn công liên tục mà không gặp phải sức kháng cự đáng kể từ phía quân đội Liên Xô, ngày 19 tháng 7 năm 1941, Adolf Hitler ra Chỉ thị số 33 yêu cầu Cụm tập đoàn quân Bắc phải đẩy nhanh tốc độ tấn công để đánh chiếm Leningrad trong thời hạn sớm nhất.
Cùng ngày 30 tháng 7 năm 1941, OKW có chỉ thị số 34 thay đổi cách thức tấn công trên hướng Leningrad. Chỉ thị này có đoạn viết:
Hệ quả của sự thay đổi nhiệm vụ này là Cụm tập đoàn quân "Bắc" (Đức) phải bố trí lại lực lượng trên hướng Leningrad. Đến nửa đầu tháng 8 năm 1941, Cụm tập đoàn quân này đã tập hợp được ba cánh quân xung kích để tấn công trên hướng Leningrad:
- Cánh quân "Shimsk" gồm có: Quân đoàn dã chiến 1 có các sư đoàn bộ binh 11, 22 và một phần sư đoàn 126. Quân đoàn dã chiến 28 có các sư đoàn bộ binh 121, 122 và Sư đoàn cơ giới SS "Totenkopf". ** Lực lượng dự bị của cụm quân: Sư đoàn bộ binh 96.
- Cánh quân "Luga" gồm có: ** Quân đoàn cơ giới 56 có Sư đoàn cơ giới 3, Sư đoàn bộ binh 269 và Sư đoàn bộ binh SS "Polizei".
- Cánh quân "Bắc" gồm có: Quân đoàn xe tăng 41 có các sư đoàn xe tăng 1, 6, 8, Sư đoàn cơ giới 36 và Sư đoàn bộ binh 1. Quân đoàn bộ binh 38 mới có Sư đoàn bộ binh 58 tiếp cận chiến trường.
Tập đoàn quân không quân 8 của tướng Wolfram von Rihtgoffen có khoảng 400 máy bay sẽ yểm hộ từ trên không cho cuộc tấn công.
Quân đội Liên Xô
Pháo phòng không bảo vệ Leningrad, năm 1941
Binh lực
Cánh quân Leningrad của Phương diện quân Bắc do thiếu tướng P. P. Sobennikov (đến ngày 8 tháng 8), nguyên soái K. E. Voroshilov lần lượt chỉ huy; đến ngày 27 tháng 8 đổi thành Phương diện quân Leningrad do trung tướng M. M. Popov (đến ngày 5 tháng 9), nguyên soái K. E. Voroshilov (đến 12 tháng 9) và đại tướng G. K. Zhukov (đến 7 tháng 10 năm 1941) lần lượt chỉ huy. Biên chế lực lượng của Liên Xô luôn thay đổi qua từng chiến dịch nhỏ và từng trận đánh. Các đơn vị sau đây đã tham gia hoạt động trong Chiến dịch phòng thủ chiến lược Leningrad từ ngày 10 tháng 7 đến 30 tháng 9 năm 1941:
Tham gia toàn bộ chiến dịch:
Tập đoàn quân 8 do thiếu tướng F. S. Ivanov chỉ huy. Thành phần gồm có: Đầu chiến dịch: Quân đoàn 10 do Thiếu tướng I. F. Nikolayev chỉ huy, gồm các sư đoàn bộ binh 10, 90 và Sư đoàn cơ giới 22 (NKVD). Đến ngày 1 tháng 8, quân đoàn này chỉ còn các sư đoàn bộ binh 10 và 11. Quân đoàn 11 do Thiếu tướng M. S. Sumilov chỉ huy gồm các sư đoàn bộ binh 48, 125 và lữ đoàn bộ binh 3. Đến ngày 25 tháng 8, quân đoàn này bị giải thể. Quân đoàn cơ giới 12 do các đại tá Villi Yanovich Grinberg (đến 13 tháng 7) và Ivan Terentyevich Korovnikov chỉ huy gồm các sư đoàn xe tăng 23, 28 và Sư đoàn cơ giới 202. Đến ngày 1 tháng 8 năm 1941, đơn vị này được rút ra khỏi chiến dịch. *Các sư đoàn độc lập: 11, 67, 118, 268 và Sư đoàn cơ giới 2 NKVD (từ ngày 1 tháng 8). *Cuối chiến dịch: Đến ngày 1 tháng 9, Tập đoàn quân 8 được tổ chức lại. Cấp chỉ huy quân đoàn bị bãi bỏ. Tập đoàn quân 8 gồm các sư đoàn bộ binh 11, 48, 118, 125, 191, 268, Trung đoàn Latvia 76, Tiểu đoàn súng máy độc lập 266. Tập đoàn quân 11 do trung tướng V. I. Morozov chỉ huy. Thành phần gồm có: Đầu chiến dịch: Quân đoàn bộ binh 16 do thiếu tướng M. M. Ivanov chỉ huy gồm các sư đoàn bộ binh 70 và 237; bị giải thể ngày 14 tháng 8 năm 1941. Quân đoàn bộ binh 22 do thiếu tướng A. S. Ksenofontov chỉ huy gồm các sư đoàn bộ binh 180 và 182, bị giải thể ngày 22 tháng 8 năm 1941. Quân đoàn bộ binh 41 do thiếu tướng A. N. Astanin chỉ huy gồm các sư đoàn bộ binh 111, 118 và 237; bị giải thể ngày 17 tháng 9 năm 1941. Quân đoàn cơ giới 1 do thiếu tướng M. L. Chernyavsky chỉ huy gồm Sư đoàn xe tăng 3, Sư đoàn cơ giới 163 và trung đoàn cơ giới độc lập 5; bị giải thể ngày 17 tháng 8 năm 1941. Cuối chiến dịch: Từ ngày 1 tháng 9 năm 1941, cấp quân đoàn bị giải thể, Tập đoàn quân 11 gồm các sư đoàn bộ binh 180, 182, 183, 202, 254, Sư đoàn cơ giới 21, các tiểu đoàn xe tăng độc lập 87 và 110. *Tập đoàn quân 27 do thiếu tướng N. E. Berzarin chỉ huy. Thành phần gồm có: *Đầu chiến dịch: Quân đoàn bộ binh 24 do thiếu tướng K. M. Kachanov chỉ huy gồm các sư đoàn bộ binh 128 và 181, giải thể ngày 1 tháng 9 năm 1941. Quân đoàn bộ binh 29 do thiếu tướng A. G. Samokhin chỉ huy gồm các sư đoàn bộ binh 5, 126 và 188, giải thể ngày 29 tháng 9 năm 1941. Quân đoàn bộ binh 65 do thiếu tướng K. V. Komissarov chỉ huy gồm các sư đoàn bộ binh 23 và 33, giải thể ngày 30 tháng 8 năm 1941. Quân đoàn đổ bộ đường không 5 do thiếu tướng S. S. Guryev chỉ huy gồm các sư đoàn dù 9, 10 và 201. Quân đoàn cơ giới 27 do thiếu tướng D. D. Lelyushenko chỉ huy, gồm các sư đoàn xe tăng 42 và 46, các sư đoàn cơ giới 84 và 185; giải thể ngày 5 tháng 9 năm 1941. Cuối chiến dịch: Từ ngày 1 tháng 9 năm 1941, cấp chỉ huy quân đoàn bị giải thể, tập đoàn quân trực tiếp chỉ huy các sư đoàn bộ binh 5, 23, 181, 185, 188, 256 và Trung đoàn cảnh vệ 37 NKVD. *Cụm chiến dịch Luga do Thiếu tướng A. N. Astanin chỉ huy (Giải thể ngày 25 tháng 8 năm 1941). Thành phần gồm có: Bộ binh: Quân đoàn 41 (gồm các sư đoàn 111, 177 và 235); Trung đoàn 1 của Sư đoàn dân quân 3, các tiểu đoàn súng máy độc lập 260 và 262. Pháo binh: Trung đoàn pháo nòng dài 541 và Lữ đoàn pháo binh khu vực Luga (không có phiên hiệu). *Thiết giáp: Sư đoàn xe tăng 24. Cụm chiến dịch Kingisepp do thiếu tướng Vladimir Vasilyevich Semashko chỉ huy (Giải thể ngày 25 tháng 8 năm 1941). Thành phần gồm có: Bộ binh: Các sư đoàn 90 và 191; các sư đoàn dân quân 2 và 4; Trung đoàn học viên trường bộ binh S. M. Kirov, Cụm phòng thủ số 21. Pháo binh: Các trung đoàn pháo chống tăng 14 và 94; Trung đoàn pháo nòng dài 519. Thiết giáp: Sư đoàn xe tăng 1; Đoàn tàu hỏa bọc thép 60. *Hạm đội Baltic do đô đốc V. F. Tributs chỉ huy. Thành phần gồm có: Căn cứ hải quân: Kronstadt, các cụm căn cứ đặc nhiệm 1 và 2. Tàu nổi: Các thiết giáp hạm "Marat" và "Cách mạng tháng Mười'", các tuần dương hạm "Kirov", "Petropavlovsk" và "Maksim Gorky"; các lữ đoàn tàu khu trục 1, 2, 3, 4, 5; Lữ đoàn tàu pháo 1; các Lữ đoàn tàu phóng lôi 1, 2, 3. Tàu ngầm: Lữ đoàn 1 (13 tàu), Lữ đoàn 2 (18 tàu), Lữ đoàn 9 (15 tàu), Lữ đoàn huấn luyện (10 tàu). Không quân hạm đội: Các sư đoàn hỗn hợp 8 và 10, Sư đoàn tiêm kích 61, Trung đoàn tiêm kích 15, các phi đội đặc nhiệm. Hải quân đánh bộ: Lữ đoàn Hải quân đánh bộ đặc nhiệm 1; các lữ đoàn hải quân đánh bộ 2, 3, 4, 5, 6, 7 và Lữ đoàn huấn luyện Kursantsk. Pháo binh bờ biển, pháo đường sắt và pháo phòng không: Trung đoàn pháo bờ biển 101, các đoàn tàu bọc thép Sô 7 "Baltic" và số 8 "Tổ Quốc" lắp đặt pháo tầm xa hạng nặng; các trung đoàn pháo phòng không 2, 3, 4, 5, 8.
Tham gia giai đoạn hai của chiến dịch:
*Tập đoàn quân 34 do Lữ đoàn trưởng (tương đương đại tá) N. N. Pronin, thiếu tướng K. M. Kachanov và thiếu tướng P. F. Alferyev lần lượt chỉ huy; thành phần tham gia giai đoạn hai của chiến dịch gồm có: Bộ binh: Các sư đoàn 163, 245, 257, 259 và 262. Kỵ binh: Sư đoàn 25. Thiết giáp: Trung đoàn cơ giới 3, các tiểu đoàn xe tăng độc lập 108 và 112. *Pháo binh: Các trung đoàn 264 và 270. Tập đoàn quân 42 do thiếu tướng V. I. Shcherbakov, trung tướng F. S. Ivanov và thiếu tướng I. I. Fedyuninsky lần lượt chỉ huy; thành phần tham gia giai đoạn hai của chiến dịch gồm có: Bộ binh: Các sư đoàn đoàn cận vệ tình nguyện 2, 3 và Cụm phòng thủ Krasnogvardiysky. Pháo binh: Các trung đoàn 51, 690 và 704. *Tập đoàn quân 48 do các trung tướng S. D. Akimov và M. A. Antonyuc lần lượt chỉ huy; giải thể ngày 14 tháng 9 năm 1941 (thực tế đã tan rã từ ngày 16 tháng 8). Thành phần tham gia giai đoạn 2 của chiến dịch gồm có: Bộ binh: Các sư đoàn 128 và 311, Lữ đoàn bộ binh sơn chiến 1 và trung đoàn độc lập 170. Pháo binh: Trung đoàn lựu pháo 541. *Thiết giáp: Sư đoàn xe tăng 21. Tập đoàn quân 52 (độc lập) do trung tướng N. M. Krylov chỉ huy, tham gia giai đoạn cuối chiến dịch (từ ngày 25 tháng 8). Thành phần gồm có: Bộ binh: Các sư đoàn 267, 285, 288, 292, 312, 314 và 316. Pháo binh: Trung đoàn lựu pháo 442, Trung đoàn pháo chống tăng 884. *Tập đoàn quân 55 do thiếu tướng I. G. Lazarev chỉ huy, tham gia giai đoạn cuối chiến dịch từ ngày 1 tháng 9 năm 1941. Thành phần gồm có: Bộ binh: Các sư đoàn 70, 90, 168 và 237; các sư đoàn dân quân 1 và 4; Trung đoàn 2 của Sư đoàn dân quân 3. Pháo binh: Lữ đoàn pháo chống tăng 14, Trung đoàn lựu pháo 24 và Tiểu đoàn súng cối độc lập 47. *Thiết giáp: Các tiểu đoàn xe tăng 84 và 88 (độc lập). Cụm chiến dịch Neva do trung tướng P. S. Pshennikov chỉ huy, tham gia giai đoạn cuối chiến dịch từ ngày 22 tháng 9 năm 1941. Thành phần gồm có: Bộ binh: Sư đoàn bộ binh 115, Sư đoàn cảnh vệ 1 NKVD; Lữ đoàn hải quân đánh bộ 4, các tiểu đoàn 1, 4, 5 của Bộ chỉ huy thành phố Leningrad. Pháo binh: Trung đoàn pháo nòng dài 1577; Trung đoàn lựu pháo 230; Tiểu đoàn pháo chống tăng 24 (độc lập); tiểu đoàn súng cối 20. Cụm chiến dịch Novgorod 1 do trung tướng Stepan Dmitryevich Akimov chỉ huy, tham gia chiến dịch từ ngày 31 tháng 7, đến ngày 6 tháng 8 năm 1941 được tổ chức thành Tập đoàn quân 48. Cụm chiến dịch Novgorod 2 do thiếu tướng I. T. Korovnikov chỉ huy, tham gia chiến dịch từ ngày 16 tháng 8 năm 1941. Thành phần gồm tàn quân của Tập đoàn quân 48 và Sư đoàn xe tăng 28. Lực lượng của Bộ chỉ huy quân sự thành phố Leningrad gồm 4 sư đoàn tình nguyện. Phần còn lại của Phương diện quân Tây Bắc (cũ)** gồm Sư đoàn bộ binh 16, Lữ đoàn sơn chiến 1, các khu phòng thủ 25, 46 và Staraya Russa.
Kế hoạch
Quân đội Liên Xô cố gắng tập hợp lại tàn quân vừa rút lui từ mặt trận vùng Baltic về và huy động thêm quân dự bị để lập phòng tuyến Luga, bảo vệ từ xa cho Leningrad. Nòng cốt của lực lượng này là Sư đoàn xe tăng 1 thuộc Quân đoàn cơ giới 1 và các sư đoàn xe tăng 21, 24 thuộc Quân đoàn cơ giới 10 được chuyển từ eo đất Karelia sang hướng Luga. Quân đội Liên Xô cũng bố trí bốn cụm phòng thủ: Ngày 8 tháng 8, I. V. Stalin ra lệnh thành lập Bộ Tổng tư lệnh các hướng mặt trận chủ yếu. Nguyên soái S. K. Timoshenko được bổ nhiệm Tổng tư lệnh hướng Tây, nguyên soái S. M. Budyonyi được bổ nhiệm Tổng tư lệnh hướng Tây Nam, nguyên soái K. Ye. Voroshilov được bổ nhiệm làm Tổng tư lệnh hướng Tây Bắc. Để bảo đảm tăng dày mật độ phòng thủ, Bộ Tổng tư lệnh hướng Tây Bắc được tăng viện Tập đoàn quân 34 mới thành lập và bố trí nó ở xung quanh phía Nam Leningrad.
Ngày 10 tháng 7, các đơn vị xung kích Đức bắt đầu tấn công trên hướng Slavkovichi - Bushegorod (???). Sư đoàn xe tăng 8, Sư đoàn cơ giới 3 và Sư đoàn cơ giới SS "Totenkorpf" nhanh chóng đánh bật các sư đoàn bộ binh 180 và 182 của Quân đoàn 22 (Liên Xô) khỏi tuyến sông Cheryokha và dồn các đơn vị này về tuyến sông Shelon. Sang ngày 11 tháng 7 và 10 ngày sau đó, cuộc tấn công của quân Đức không còn diễn ra một cách suôn sẻ trước các tuyến phòng thủ nhiều lớp của quân đội Liên Xô trên tuyến phòng thủ Luga. Trong nhật ký chiến sự của mình, tướng Đức Franz Halder viết:
Với đà tấn công có được sau trận thắng tại khu vực Pskov - Opochka, ngày 11 tháng 7, Quân đoàn xe tăng 56 do tướng Erich von Manstein chỉ huy nhanh chóng phát triển đòn công kích tiếp theo dọc theo bờ Bắc sông Shelon. Các đơn vị đi đầu thuộc Sư đoàn xe tăng 8 (Đức) đã đè bẹp đòn phản kích của Sư đoàn bộ binh 183 (Liên Xô) trên khu vực Zamoshki - Gorki và đánh bật Sư đoàn cơ giới 202 (Liên Xô) sang bờ Nam sông Shelon. Ngày 12 tháng 7, tiền đội của Sư đoàn xe tăng 8 (Đức) vượt qua Soltsy và ngày 13 tháng 7 đã tiến đến tuyến sông Mshaga. Cùng ngày 13 tháng 7, Sư đoàn xe tăng 3 (Đức) vượt sông Mshaga tiến đánh đầu mối giao thông Gorodishche. Khu vực này là điểm nối quan trọng giữa cánh trái của Tập đoàn quân 11 của Phương diện quân Bắc với cánh phải của Tập đoàn quân 22 thuộc Phương diện quân Tây (Liên Xô). Chiếm được tuyến này, Cụm tập đoàn quân "Bắc" (Đức) sẽ uy hiếp sườn phía Nam của tuyến phòng thủ Luga và đe dọa phá vỡ cánh phải của Phương diện quân Tây (Liên Xô) mà chủ lực của nó đang được dồn vào các trận đánh ác liệt trên khu vực Smolensk; đồng thời cắt đứt con đường sắt chiến lược nối Leningrad với Smolensk chạy qua Soltsy.
Ngày 14 tháng 7, Tập đoàn quân 11 (Liên Xô) bất ngờ mở một cuộc phản công lớn vào Quân đoàn xe tăng 56 (Đức) tại khu vực Soltsy, cách Pskov khoảng 140 km về phía Đông Đông Bắc. Quân đội Liên Xô sử dụng Quân đoàn bộ binh 16 gồm các sư đoàn bộ binh 70 và 237, được tăng cường Sư đoàn xe tăng 21 của Quân đoàn cơ giới 10. Bộ chỉ huy chiến dịch thành lập hai cụm pháo chống tăng cấp chiến dịch gồm các trung đoàn pháo binh 68, 221, 227, 252 và 329, trong đó có 2 tiểu đoàn pháo phản lực bố trí tại bờ Bắc sông Mshaga. Cuộc tập kích bất ngờ của các trung đoàn pháo chống tăng Liên Xô đã gây thiệt hai nặng nề cho trung đoàn xe tăng đi đầu của Sư đoàn xe tăng 8 (Đức) tại một khu vực hẹp giữa hai con sông Mshaga và Shelon, gần các thị trấn Mikhalkin (Mikhalkino) và Skirino. Ngày hôm sau, đến lượt chủ lực của Sư đoàn xe tăng 8 (Đức) bị đánh bật khỏi Soltsy, một tiểu đoàn cơ giới được phái đi trước của Sư đoàn cơ giới 3 (Đức) bị đánh tan ở ngoại ô thị trấn Gorodishche. Trung đoàn cơ giới 29 (Đức) bị đánh bật khỏi thị trấn Zhidi (???), buộc phải bỏ cả thị trấn Bolshaya Zvad (Zvad) vừa mới chiếm được. Chủ lực Sư đoàn cơ giới 3 (Đức) phải rút khỏi bờ Bắc sông Mshaga về Ostrov (???). Quân đội Liên Xô giành lại quyền kiểm soát tuyến đường sắt từ Prusno (Prussko) qua Soltsy đi Smolensk và dồn Quân đoàn xe tăng 56 (Đức) về phía Tây.
Ngày 18 tháng 7, Bộ tư lệnh Tập đoàn quân xe tăng 4 (Đức) buộc phải điều Sư đoàn cơ giới SS "Totenkopf" và Sư đoàn cơ giới SS "Polozei" từ cánh trái sang cánh phải, chiếm lĩnh tuyến Nikolski (???) - Baranovo - Bolshoi Klin (Klin) - Dubenka (???) - Sông Sitnye, chặn được cuộc phản công của Quân đội Liên Xô trên tuyến này. Sau 5 ngày phản công, Tập đoàn quân 11 (Liên Xô) không còn lực lượng dự bị để tiếp viện cho hướng Soltsy và phải dừng lại. Trên cánh Bắc, Quân đoàn xe tăng 41 (Đức) với ưu thế áp đảo về lực lượng (cả hai sư đoàn xe tăng 1, 6 và Sư đoàn cơ giới 36 đều hoạt động trên hướng này) đã nhanh chóng vượt qua vùng rừng - đầm lầy ở phía Đông hồ Pskov và hồ Chudskoye, dồn các sư đoàn bộ binh 118 và 191 (Liên Xô) ra hướng biển Baltic. Một lỗ hổng lớn xuất hiện trên tuyến phòng thủ Luga của quân đội Liên Xô. Trước tình thế bắt buộc, Bộ tư lệnh Phương diện quân Bắc (Liên Xô) buộc phải điều Sư đoàn xe tăng 24, Sư đoàn bộ binh 177 đang chiến đấu với quân Phần Lan ở phía Bắc Leningrad cùng hai sư đoàn dân quân tình nguyện Leningrad 1 và 2 ra giữ tuyến phòng thủ Luga.
Trận phòng thủ Luga
Quân đội Liên Xô phòng thủ trong chiến hào tại mặt trận Leningrad
Sau khi ổn định được tuyến mặt trận trên hướng Soltsy - Novgorod, thống chế Wilhelm von Leeb bắt đầu vạch kế hoạch tấn công vào phòng tuyến Luga mà ông ta cho là cánh cửa cuối cùng để mở toang mặt trận Leningrad của quân đội Liên Xô. Tuy nhiên, do phải mất thêm thời gian chuyển quân từ cánh phải sang và vượt qua vùng rừng - đầm lầy giữa sông Narva và sông Luga, cuộc tấn công của Tập đoàn quân 16 (Đức) bị hoãn lại từ ngày 22 tháng 7 đến ngày 6 tháng 8. Ngày 6 tháng 8, một bầu trời đầy mây mù đã tước đi của quân Đức sự yểm hộ từ trên không, buộc tướng Erich Hoepner phải tiếp tục lùi cuộc tấn công đến ngày 8 tháng 8. Không có không quân hỗ trợ cho mũi nhọn đột kích, Tập đoàn quân 16 (Đức) tiến công rất chậm chạp trên các hướng tới phòng tuyến Luga của quân đội Liên Xô. Trên khu vực đầu cầu Porechye cũng như tại khu vực đầu cầu Sabsk, Sư đoàn bộ binh 1, Sư đoàn cơ giới 36, Sư đoàn xe tăng 1 và Sư đoàn xe tăng 6 chỉ có thể nhích lên từng mét một. Tốc độ tấn công trong ngày đầu tiên của quân Đức chỉ đạt không quá 3 km ở khu vực Porechye đến 5 km ở khu vực Sabsk.
Sáng ngày 9 tháng 8, các đơn vị trinh sát của Sư đoàn xe tăng 1 (Đức) đã phát hiện ra một điểm yếu trên phòng tuyến Luga của quân đội Liên Xô. Nó không nằm ở Luga, nơi quân đội Liên Xô đã huy động đến Sư đoàn xe tăng 24 và 3 sư đoàn bộ binh trấn giữ, mà nằm ở phía Nam "Cụm phòng thủ Kingisepp", nơi chỉ có Quân đoàn bộ binh 4 mới thành lập vội vã chỉ gồm Sư đoàn xe tăng 1 khá yếu (chỉ có 58 xe tăng hoạt động được), Sư đoàn bảo vệ bờ biển của Hạm đội Baltic và Sư đoàn học viên trường quân sự Kirov. Sang ngày 10 tháng 8, các sư đoàn xe tăng 1 và 6 (Đức) đã chọc thủng tuyến phòng thủ của Sư đoàn học viên Kirov và đến ngày 14 tháng 8 đã đột kích sâu dọc theo đường sắt Kingisepp - Krasno Gvardeysk (Cận vệ đỏ) (Gatchino). Phòng tuyến Luga của quân đội Liên Xô bị vỡ một mảng lớn từ Kingisepp đến Ivanovskoye. Sư đoàn cơ giới 36 và Sư đoàn bộ binh 1 (Đức) bắt đầu tiến vào hậu cứ của cụm phòng thủ Luga (Liên Xô) từ phía Bắc. Sư đoàn xe tăng 8 (Đức) vừa hồi phục cũng được đưa đến khu vực đầu cầu Sabsk và vượt sông Luga, đánh bật Sư đoàn bộ binh 90 (Lien Xô) về tuyến Letoshitsy - Orlovka (???).
Ngày 26 tháng 8, quân Đức khép vòng vây xung quanh khu vực giữa Luga và Krasno Gvardeysk. Trong vòng vây là phần còn lại của Sư đoàn xe tăng 24 và các sư đoàn bộ binh 70, 90, 111, 177 và 235. Sư đoàn xe tăng 24 (Liên Xô) mất gần hết xe tăng gồm 5 chiếc BT-7, 70 chiếc BT-5, 3 chiếc BT-2, 1 chiếc T-28, 7 pháo tự hành và 9 xe bọc thép. Các cuộc chiến đấu tại khu vực từ Luga đến Siversky còn tiếp tục đến giữa tháng 9. Một vài trung đoàn Liên Xô tại khu vực này đã lần lượt thoát khỏi vòng vây về với quân nhà tại khu vực Kirishi và Pogostye. Trong số những người thoát vây có tướng A. N. Astanin, các đại tá A. F. Mashoshin (chỉ huy Sư đoàn bộ binh 177), A. G. Rodin (chỉ huy Sư đoàn xe tăng 24), S. V. Roginsky (chỉ huy Sư đoàn bộ binh 111) và G. F. Odintsov (chỉ huy Sư đoàn 235). Quân Đức bắt được gần 20.000 tù binh Liên Xô trong các trận đánh.
Ngày 20 tháng 8, Sư đoàn bộ binh 21 (Đức) được tăng cường Trung đoàn pháo binh 37, tiểu đoàn pháo tự hành 666, tiểu đoàn cao xạ 272 và tiểu đoàn mô tô trinh sát 9 đã đánh bật quân đội Liên Xô khỏi Chudovo và cắt đứt đường sắt Moskva - Leningrad. Ở phía Đông Chudovo, Sư đoàn cơ giới 18 (Đức) đánh chiếm một đầu cầu trên bờ Đông sông Volkhov và bắt đầu triển khai tấn công về Bolshoy Vishera. Bộ tư lệnh hướng Tây Bắc (Liên Xô) buộc phải điều Tập đoàn quân 52 do trung tướng N. M. Krylov chỉ huy gồm 7 sư đoàn bộ binh từ lực lượng dự bị ra giữ tuyến sông Msta. Bộ tư lệnh hướng Tây Bắc Liên Xô nhận thức được mối nguy hiểm khôn lường nếu quân đội Đức Quốc xã tiếp tục tấn công trên hướng Budogoshch - Tikhvin và tiến ra tuyến sông Svir để kết nối với quân Phần Lan đang tấn công từ Olonets xuống thì tình hình sẽ là vô phương cứu chữa. Để tăng cường cho mặt trận này, các tập đoàn quân 4 và 54 (Liên Xô) mới được thành lập một cách vội vã đã được ném ra khu vực Mga, Lyuban và Kirishi. Tuy nhiên, quân Đức chưa vội vã tiến lên phía Bắc. Ngày 22 tháng 8, các quân đoàn bộ binh 1 và 28 của Tập đoàn quân 16 (Đức) đã tiến ra tuyến sông Oredezh, tạo thành vòng vây phía sau Cụm phòng thủ Luga của quân đội Liên Xô.
Cuộc phản công của bốn tập đoàn quân Liên Xô khởi sự ngày 12 tháng 8 một cách vội vã. Trong khi cuộc tấn công của Tập đoàn quân 27 ở khu vực Kholm ngay từ đầu đã bị Sư đoàn cơ giới 3 (Đức) chặn đứng trên sông Lovat thì Tập đoàn quân 34 lại đạt được nhiều thành công hơn. Trong ngày đầu tiên của cuộc phản công, Tập đoàn quân này đã tiến sâu đến 15 km, chọc thủng tuyến phòng thủ của Sư đoàn bộ binh 30 (Đức) ở phía Nam Staraya Russa và tiến về trung tâm đường sắt Dno. Ngày 14 tháng 8, các sư đoàn bộ binh 245, 254 và 2 sư đoàn kỵ binh Liên Xô đã cắt đứt tuyến đường sắt Dno - Staraya Russa. Tập đoàn quân 11 cùng vượt qua con đường sắt này và hướng đòn tấn công về Soltsy, nơi trước đó mấy ngày đã diễn ra cuộc phản công không thành công của chính họ. Tuy nhiên, tại phía Tây Bắc hồ Ilmen, Tập đoàn quân 48 của Phương diện quân "Bắc" có trong tay Sư đoàn xe tăng 21 đã không thể vượt qua tuyến phòng thủ của Quân đoàn bộ binh 128 (Đức) ở phía Đông Bắc Utorgosh để đón gặp cánh quân xung kích của Tập đoàn quân 34. Ngày 15 tháng 8, sức tấn công của quân đội Liên Xô cạn dần.
Bộ tư lệnh Cụm tập đoàn quân Bắc huy động vào cuộc tấn công này các quân đoàn bộ binh 2, 10 (5 sư đoàn bộ binh) và Sư đoàn cơ giới 3 SS "Totenkopf". Quân đoàn xe tăng 57 trên cánh trái của Cụm tập đoàn quân Trung tâm cũng được huy động vào các trận đánh. Quân đội Liên Xô phòng ngự tại khu vực Demyansk gồm Tập đoàn quân 11 của trung tướng V. I. Morozov, Tập đoàn quân 27 của thiếu tướng N. E. Berzarin, Tập đoàn quân 34 của thiếu tướng P. F. Alfereyev và cánh quân phía Nam của Cụm phòng thủ Novgorod. Khu vực Demyansk có ý nghĩa chiến lược rất quan trọng trên toàn bộ tuyến phòng ngự của quân đội Liên Xô ở hướng Tây Bắc. Nếu quân đội Đức Quốc xã chiếm được khu vực này, các sư đoàn Đức có thể đánh vòng ra phía sau Cụm phòng thủ Novgorod cũng như Tập đoàn quân 52 đang phòng ngự ở phía Đông và Đông Bắc hồ Ilmen. Từ Demyansk, quân Đức cũng có thể giáng một đồn vu hồi từ phía Tây Bắc vào Kalinin (Tver), phá vỡ thế trận phòng thủ của Phương diện quân Tây (Liên Xô) trên hướng Tây Bắc Moskva.
Trên hướng ra hồ Onega, Cánh trái của Tập đoàn quân 16 (Đức) được Quân đoàn xe tăng 39 và Quân đoàn xe tăng 41 hiệp lực tiếp tục tấn công. Ngày 1 tháng 9, Quân đoàn bộ binh 1 và Quân đoàn bộ binh 28 (Đức) có Sư đoàn xe tăng 1 mở đường đã đánh bật Tập đoàn quân 54 (Liên Xô) khỏi tuyến phòng thủ Mga - Kirishi, đánh chiếm Kirishi và Gorodishche, uy hiếp thành phố Volkhov. Trên hướng Chudovo, Quân đoàn xe tăng 39 và Quân đoàn bộ binh 38 (Đức) bắt đầu mở chiến dịch tấn công lớn lên Tikhvin, đe dọa cắt đứt những con đường sắt cuối cùng từ vùng phía Tây sông Volga (Liên Xô) lên mặt trận Tây Bắc.
Kết quả, đánh giá và ảnh hưởng
Kết quả
Chiến dịch phòng ngự chiến lược Leningrad của quân đội đã không đạt được mục tiêu đề ra. Thành phố Leningrad bị quân đội Đức Quốc xã bao vây và phải trải qua gần 900 ngày sau, vòng vây đó mới bị phá vỡ. Quá nửa quân số tham gia chiến dịch (so với quân số ban đầu) đã thương vong. Chỉ nhờ vào những biện pháp động viên lực lượng dự bị huy động từ các quân khu trong nội địa, Quân đội Liên Xô mới có thể chặn đứng được cuộc tấn công của quân đội Đức Quốc xã trên hướng thành phố Leningrad và hướng Demyansk.
Quân đội Đức Quốc xã mặc dù chịu thương vong khá lớn nhưng đã đạt được hầu hết mục tiêu trong kế hoạch tấn công, trừ mục tiêu quan trọng nhất: đánh chiếm Leningrad. Không những thế, Tập đoàn quân 16 và cánh phải của Tập đoàn quân xe tăng 4 (Đức) còn tiến sâu hơn về hướng Đông Leningrad, uy hiếp các mục tiêu quan trọng như đầu mối giao thông Volkhov và thành phố Tikhvin, đe dọa cắt đứt Phương diện quân Bắc khỏi hậu phương của quân đội Liên Xô. Tuy nhiên, vào giai đoạn cuối của chiến dịch, sức tấn công của quân đội Đức Quốc xã giảm dần, từ trên 10 km/ngày chỉ còn 2,5 km/ngày vào 20 tháng 9 năm 1941 và 1,5 km ngày vào ngày cuối cùng của chiến dịch.
Mặc dù sau khi bao vây Leningrad, quân đội Đức Quốc xã đã chiếm được Tikhvin trong chiến dịch tấn công tiếp theo, nhưng cũng giống như ở Rostov trên sông Đông, quân đội Đức Quốc xã chỉ trụ lại được ở đây không quá 10 ngày và phải rút quân bởi chiến dịch phản công chiến lược Tikhvin của Phương diện quân Volkhov (Liên Xô) mới được thành lập.
Đánh giá
Gần giống như các chiến dịch phòng thủ đầu tiên khi tiến hành cuộc Chiến tranh vệ quốc vĩ đại, các cấp chỉ huy Liên Xô đã liên tiếp mắc thêm những sai lầm làm cho tình huống trên mặt trận ngày một khó khăn hơn cho họ. Sai lầm đầu tiên là việc bố trí quân trên tuyến phòng thủ Luga, nơi được xem là tuyến quyết định cho cuộc phòng thủ Leningrad. Cụm phòng thủ Luga của quân đội Liên Xô được bố trí rất mạnh gồm 1 sư đoàn xe tăng và 3 sư đoàn bộ binh cùng nhiều trung đoàn pháo binh. Cụm phòng thủ Kingisepp cũng được bố trí binh lực tương đương và còn có thêm hai sư đoàn bộ binh của hải quân và các hạ sĩ quan dự bị đang được huấn luyện. Chỗ yếu nhất trên phòng tuyến này chính là khu vực phía Tây Nam Novgorod, nơi chỉ có hai sư đoàn bộ binh vốn được điều động thay thế Tập đoàn quân 48 bị thiệt hại nặng trong trận phản công Soltsy đóng giữ. Bộ tư lệnh Cụm tập đoàn quân "Bắc" (Đức) đã khai thác triệt để sai lầm của các cấp chỉ huy Liên Xô và giáng đòn tấn công quyết định vào chính lỗ hổng này trên tuyến phòng thủ Luga của quân đội Liên Xô để đạt được những thành công quan trọng trên hướng Novgorod - Chudovo.