✨Kế hoạch Barbarossa

Kế hoạch Barbarossa

Kế hoạch Barbarossa là văn kiện quân sự-chính trị có tầm quan trọng đặc biệt do Adolf Hitler và các cộng sự của ông trong Đế chế Thứ Ba vạch ra. Nằm trong chiến lược mở rộng "không gian sinh tồn" của "chủng tộc Aryan" ra toàn cầu, kế hoạch đó dự kiến các phương án tấn công Liên bang Xô Viết, tiêu diệt chủ nghĩa xã hội; chiếm lĩnh các vùng đất đai nông nghiệp màu mỡ, các khu công nghiệp, các mỏ dầu, quặng, than đá và nhiều tài nguyên khác để phục vụ cho mục tiêu chinh phục toàn thế giới. Đây là kế hoạch quân sự - chính trị chứa đựng những tham vọng lớn nhất của mọi thời đại và cũng là kế hoạch quân sự - chính trị lớn nhất bị phá sản thông qua con đường chiến tranh. Trong đó, Liên bang Xô Viết đóng vai trò quyết định trực tiếp và quan trọng.

Dưới đây là văn bản Chỉ thị số 21 về Kế hoạch Barbarossa của nước Đức Quốc xã:

Image:Fall Barbarossa 1.jpg|Trang 1 Image:Fall Barbarossa 2.jpg|Trang 2 Image:Fall Barbarossa 3.jpg|Trang 3 Image:Fall Barbarossa 4.jpg|Trang 4 Image:Fall Barbarossa 5.jpg|Trang 5 Image:Fall Barbarossa 6.jpg|Trang 6 Image:Fall Barbarossa 7.jpg|Trang 7 Image:Fall Barbarossa 8.jpg|Trang 8 Image:Fall Barbarossa 9.jpg|Trang 9

Những tính toán chính trị-quân sự

Ý đồ của Hitler và các cộng sự

Ngay từ trong tác phẩm Mein Kampf của mình (viết năm 1933 khi đang ngồi tù sau vụ "Bạo động tiệm bia"), Hitler đã xác định cụ thể "không gian sinh tồn" sẽ được tìm thấy ở phương Đông. Hệ tư tưởng của chủ nghĩa phát xít Đức xem Liên Xô như là một vùng đất của "dân tộc hạ đẳng" (untermensch) Slav, bị những người Bolshevik Do Thái thống trị. Tiếp đó, Hitler lại đề cập đến một cuộc chiến không thể tránh khỏi chống lại "chủ nghĩa Đại Xlavơ" và kẻ chiến thắng trong cuộc chiến này sẽ trở thành "người thống trị vĩnh viễn của thế giới"." Do đó, chính sách của nhà nước phát xít Đức là phải giết, trục xuất, nô lệ hóa người Nga cũng như các dân tộc Xlavơ, đồng thời đưa người Đức đến sống ở các vùng đất cũ của người Xlavơ.

"Danh tiếng" của Stalin lại càng khiến Đức Quốc xã củng cố thêm quyết định tấn công Liên Xô và niềm tin của họ vào sự chiến thắng. Vào cuối thập niên 1930, cuộc Đại Thanh trừng của Stalin đã khiến rất nhiều tướng lĩnh tài năng của Liên Xô bị tù oan hoặc bị chết oan, điều này khiến Hồng quân Liên Xô trở nên suy yếu và lâm vào tình trạng thiếu hụt những cán bộ lãnh đạo giỏi. Bộ máy tuyên truyền của chế độ phát xít Đức cũng thường xuyên thổi phồng sự "tàn bạo" của chính quyền Xô Viết trong chiến dịch tuyên truyền chống lại các dân tộc Xlavơ. Họ cũng thường xuyên tuyên truyền rằng Hồng quân Liên Xô đang chuẩn bị một cuộc tấn công xâm lược Đức, vì vậy cuộc xâm lược của Đức được xem như chiến tranh ngăn ngừa.

Vào ngày 5 tháng 12 năm 1940, Hitler nhận được các kế hoạch quân sự về cuộc xâm lược, ông chuẩn y cho tất cả, với thời điểm bắt đầu là tháng 5 năm 1941. Ngày 18 tháng 12 năm 1940, Hitler ký Chỉ thị Chiến tranh số 21 dành cho Bộ Tổng tư lệnh tối cao các lực lượng vũ trang của Đế chế Đức về một chiến dịch mang mật danh Chiến dịch Barbarossa, mở đầu bằng câu: "Wehrmacht (quân đội) cần phải chuẩn bị cho việc nghiền nát nước Nga Xô Viết trong một chiến dịch chớp nhoáng." Tên của chiến dịch, Barbarossa (trong tiếng Đức có nghĩa là "râu đỏ"), đặt theo biệt hiệu của Hoàng đế Frederick I của Thánh chế La Mã, người cầm đầu quân Thập tự Đức trong Cuộc Thập tự chinh lần thứ 3 (1189–1192). Ngày bắt đầu chiến dịch được ấn định là 15 tháng 5 năm 1941.

Mùa thu 1940, các sĩ quan quân sự cao cấp của Đức soạn một bức giác thư có nội dung đề cập đến những rủi ro sẽ xảy đến khi Đức Quốc xã tiến hành một cuộc tấn công xâm lược Liên Xô. Họ cho rằng Ukraina, Belorussia và các quốc gia vùng Ban Tích rồi sẽ trở thành gánh nặng cho nền kinh tế Đức. Một sĩ quan Đức khác cho rằng ở thời điểm hiện tại, nhà nước Liên Xô tỏ ra vô hại đối với Đức và vì vậy việc chiếm đóng Liên Xô không đem lại bất cứ lợi ích gì cho Đức Lệnh này được truyền cho Tướng Georg Thomas, người lâu nay đã chuẩn bị các báo cáo về các hậu quả tiêu cực của việc chiếm đóng Liên Xô - rằng việc này rốt cuộc sẽ gây ra sự suy kiệt cho nền kinh tế trừ phi Liên Xô bị chiếm đóng nhưng vẫn còn nguyên vẹn. Hitler đã thiếu kiên nhẫn để theo kịp tham vọng lâu dài của mình ở phía Đông, ông ta tin chắc rằng người Anh sẽ phải chủ động yêu cầu phía Đức hòa giải sau khi Đức Quốc xã ca khúc khải hoàn ở Liên Xô, khu vực mà người Đức thực sự thèm muốn. Trong hồi ký của mình, tướng Franz Halder ghi rằng với việc hủy diệt Liên Xô, Đức Quốc xã cũng sẽ hủy diệt luôn hy vọng chiến thắng của người Anh.

Hitler cũng đã tỏ ra quá tự tin sau những chiến thắng chớp nhoáng của quân đội phát xít Đức ở Tây Âu và sau khi chứng kiến những nhược điểm mà Hồng quân Xô Viết bộc lộ trong cuộc Chiến tranh Xô-Phần vào năm 1939-1940. Ông ta cho rằng quân Đức sẽ giành được một chiến thắng nhanh chóng trong vòng vài tháng và vì vậy không chuẩn bị những cơ sở vật chất dự phòng cho việc chiến tranh sẽ kéo dài đến mùa đông. Điều này cũng có nghĩa là quân Đức thiếu hụt áo ấm cũng như những chuẩn bị cần thiết cho một chiến dịch kéo dài khi họ bắt đầu cuộc chiến. Và việc cho rằng Liên Xô sẽ nhanh chóng đầu hàng cũng chính là sai lầm lớn của Hitler.

Những căn cứ về binh lực

Quân đội Đức Quốc xã

Lục quân

Không quân

Những chiếc máy bay của Không quân Đức cũng gặp phải nhiều vấn đề. Ngoại trừ mẫu Messerschmitt Bf 109 tân tiến, những mẫu máy bay còn lại cũng chưa đạt được yêu cầu của cuộc chiến. Mẫu máy bay ném bom Ju-87 Stuka nổi tiếng thật ra chỉ hoạt động hiệu quả trước những đối thủ có hệ thống phòng không yếu kém. Tầm hoạt động và khả năng chứa bom của các mẫu máy bay ném bom chủ lực Dornier-17 và Ju-88 tỏ ra không tương xứng trong cuộc oanh kích nước Anh năm 1941. Mẫu máy bay vận tải Ju-52 mặc dù rất bền bỉ và linh hoạt nhưng lại bị hạn chế nhiều về sức chứa và tầm bay. Thêm nữa không quân Đức đã bị thiệt hại khá nặng sau những trận chiến tại Anh và cuộc tấn công đảo Crete; 146 máy bay Ju-52 đã bị bắn hạ và 150 chiếc khác bị bắn hỏng rất nặng. Thực chất lực lượng Luftwaffe lừng danh chỉ thích hợp với những nhiệm vụ ném bom chiến thuật ngắn hạn chứ không phải ném bom chiến lược lâu dài; và rõ ràng họ rất khó duy trì ưu thế tại những vùng trời xa xôi và lạ lẫm của miền Tây nước Nga.

Quân đội Liên Xô

Huấn luyện và chỉ huy

Ưu thế về số lượng vũ khí và trang bị của quân đội Xô Viết không thể nào bù nổi sự yếu kém về huấn luyện và tình trạng sẵn sàng chiến đấu như các đối thủ Đức Quốc xã của họ. Nhiều sĩ quan chỉ huy cấp sư đoàn và các sĩ quan cấp cao khác đã chết oan trong cuộc Đại thanh trừng của Stalin (1936-1938). Trong số những cán bộ, sĩ quan bị bắt, chỉ có 15% được phục chức vì nhu cầu chiến tranh; trong số 90 tướng lãnh bị bắt, chỉ có sáu người được thả ngay trước khi cuộc chiến bùng nổ; và trong số 57 sĩ quan chỉ huy cấp quân đoàn bị bắt thì chỉ có bảy người được trở lại quân ngũ; trong số 180 sĩ quan chỉ huy cấp sư đoàn thì chỉ có 36 người được phục hồi chức vụ. Trong số 75000-80000 cán bộ Hồng quân, 30.000 người đã bị xử tù, nhiều người bị tử hình hoặc chết trong tù, và một số lớn hơn bị đưa đến vùng Siberia. Thay thế họ là những người được Berya và Yezov coi là "đáng tin cậy về chính trị". Trong số đó có ba trong số năm Nguyên soái Liên Xô thời trước chiến tranh, toàn bộ 11 Phó ủy viên nhân dân phụ trách Quốc phòng, 14 trong số 16 chỉ huy cao cấp, 60 trong số 67 chỉ huy cấp quân đoàn, 136 trong số 139 chỉ huy cấp sư đoàn, 221 trong số 397 chỉ huy cấp lữ đoàn, và 50% số chỉ huy cấp trung đoàn. Ngoài ra còn có 10000 sĩ quan bị sa thải do những vi phạm có tính phẩm chất.. Độ tuổi trung bình của số sĩ quan chỉ huy cấp quân đoàn của Hồng quân trẻ hơn 12 năm so với độ tuổi trung bình của các sĩ quan chỉ huy cấp sư đoàn Đức. Các sĩ quan non kém này thiếu hẳn sự huấn luyện cần thiết cho công tác, tự bản thân họ cũng có cảm giác như bị ép nhận những chức vụ mà bản thân cấp hàm cũng như kinh nghiệm của mình không đủ để đảm đương nó.

Hơn nữa, mặc dù Chiến thuật thọc sâu nổi danh của Nguyên soái Tukhachevsky trên danh nghĩa vẫn được xem là một học thuyết chính của Hồng quân Liên Xô, nhưng sau khi ông bị xử tử thì số phận của học thuyết này cũng trở nên u ám. Nhiều tác phẩm của ông bị đốt bỏ và bị cấm lưu hành.

Lục quân

Xét về một khía cạnh nào đó, ưu thế về số lượng của quân đội Xô Viết phải nói là rất đáng kể. Quân Liên Xô có 23.106 xe tăng, và trong đó 12.782 chiếc đang ở năm quân khu ở phía Tây của đất nước (1/3 trong số đó trực tiếp hứng chịu cuộc tấn công xâm lược của Đức). Về phía Đức, Wehrmacht có tổng cộng 5.200 xe tăng, trong số đó 3.350 chiếc tham gia chiến dịch Barbarossa. Rõ ràng xét về số lượng thì Liên Xô trội hơn với ưu thế 4 chọi 1, tuy nhiên số lượng những xe tăng tân tiến như T-34 hay được trang bị vỏ giáp mạnh như KV-1 sẵn sàng chiến đầu thì không nhiều (1.861 chiếc được sản xuất tính đến ngày 22/6/1941). Những xe tăng này thậm chí chỉ chiếm 7,2% trong tổng số tăng thiết giáp Xô Viết. Về chất lượng, rõ ràng các xe tăng T-34 và KV-1 hoàn toàn vượt trội hơn hẳn so với tất các xe tăng Đức vào thời điểm đó; và chúng thật sự là cơn ác mộng đối với các vũ khí chống tăng của Đức.

Lục quân Liên Xô đã bị phân tán và ở trong tình trạng kém chuẩn bị, các đơn vị của nó thường bị chia tách và không được tập hợp lại với nhau trước trận đánh. Mặc dù Quân đội Liên Xô có trong tay một số pháo rất lớn và được thiết kế tốt, nhưng dự trữ đạn dược của một phần trong số pháo đó là rất ít. Các đơn vị pháo binh thường thiếu hẳn các phương tiện vận tải để di chuyển các khẩu pháo của họ. Pháo binh Liên Xô cũng thiếu hụt những công nghệ điều khiển bắn tiên tiến.. Các đơn vị xe tăng thì ít được trang bị tốt và cũng thiếu luôn sự huấn luyện cần thiết cũng như sự hỗ trợ về hậu cần. Sự bảo trì cũng rất kém. Các đội quân được tung vào trận mà không được sắp xếp, không được bổ sung đầy đủ đạn dược, nhiên liệu, quân trang quân dụng. Thông thường sau mỗi trận chiến, các đơn bị thường bị tiêu diệt hoặc hiệu quả chiến đấu bị sụt giảm trầm trọng. Trong thời gian này, Quân đội Liên Xô đang trong thời kỳ tổ chức lại các lực lượng tăng thiết giáp thành các quân đoàn lớn, điều này càng làm tăng thêm sự hỗn loạn và thiếu tổ chức trong quân đội vào thời kỳ dầu của cuộc chiến.

Không quân

Ưu thế số lượng máy bay cũng nghiêng về phía Liên Xô: về quy mô thì không quân Xô Viết có thể được xem là lớn nhất thế giới lúc đó với số lượng 9567 chiếc phi cơ chiến đấu. Tuy nhiên, đa số máy bay của Liên Xô rất cũ kỹ, lạc hậu, đã quá hạn sử dụng. Những nỗ lực chiến tranh của Liên Xô trong giai đoạn đầu tiên của cuộc Chiến tranh vệ quốc vĩ đại đã bị cản trở rất nghiêm trọng bởi sự thiếu hụt những máy bay kiểu mới. Rất nhiều máy bay của Không quân Xô Viết (Voenno-Vozdushnye Sily, VVS) là những loại cũ kỹ lỗi thời ví dụ như các máy bay hai tầng cánh Polikarpov I-15 và Polikarpov I-16. Năm 1941, các mẫu máy bay như MiG-3, LaGG-3 và Yak-1 chỉ vừa mới bắt đầu sản xuất, và các tính năng của nó thì vẫn thua xa các mẫu máy bay Đức như Messerschmitt Bf 109 và FW 190 khi chúng tham gia cuộc chiến tranh vào tháng 9 năm 1941. Chỉ một lượng nhỏ máy bay có trang bị những thiết bị liên lạc bằng sóng vô tuyến và những chiếc máy bay sẵn sàng hoạt động thì lại rất khó sử dụng (do phi công chưa tập luyện nhiều) và độ tin cậy không cao. Sự thể hiện yếu kém của Không quân Xô Viết trong cuộc chiến tranh Xô-Phần năm 1939 đã khiến không quân Đức (Luftwaffe) càng thêm chắc chắn về việc quân đội Liên Xô sẽ dễ dàng bị đánh bại. Việc huấn luyện gấp rút để đối phó với không quân Đức phải đến năm 1942 mới hoàn thành. Theo Chỉ thị số 0362 Bộ dân ủy Quốc phòng ngày 22 tháng 12 năm 1940, việc đào tạo phi công diễn ra hết sức gấp rút. Thậm chí đã có một điều không thể tin nổi là trong khi Không quân Xô Viết có 201 chiếc MiG-3 và 37 chiếc MiG-1 hoạt động được vào ngày 22 tháng 6 năm 1941 thì chỉ có 4 phi công đã được huấn luyện để sử dụng các máy bay này.

Phần lớn quân đội Xô Viết đang ở trong tình trạng thời bình. Điều này giải thích tại sao các đơn vị không quân Xô Viết lại để các máy bay nằm thành những cụm sát nhau trong một không gian chật hẹp thay vì phân tán chúng ra. Chính cách sắp xếp sai lầm đó đã khiến các máy bay này trở thành mục tiêu dễ bị tấn công bởi những trận không kích của không quân Đức (Luftwaffe) vào những ngày đầu của cuộc chiến. Thêm một điều tai hại nữa là ngay trước cuộc tấn công xâm lược, Không quân Xô Viết (VVS) không được phép bắn hạ bất cứ máy bay huấn luyện nào của Luftwaffe bất chấp những máy bay này đã xâm phạm không phận Liên Xô hàng trăm lần.

Không quân Xô Viết cũng bị ảnh hưởng bởi cuộc Đại thanh trừng. Nhiều cán bộ sĩ quan không quân của Liên Xô trở thành nạn nhân của nó và phần lớn những người thay thế họ đều thiếu kinh nghiệm. Vào thời điểm chiến dịch Barbarossa mở màn, nhiều phi công Xô Viết ở tiền tuyến chỉ từng lái máy bay có 4 tiếng đồng hồ. Hơn nữa, những cán bộ của không quân Xô Viết còn phải đối mặt với nội sợ hãi bị bắt giữ vì tội "phá hoại" khi những tai nạn máy bay xảy ra. Đã có ít nhất một kỹ sư không quân bị xử bắn khi một mẫu máy bay thử nghiệm bị rơi, và nhiều kỹ sư khác phải làm việc trong các "phòng thiết kế" nằm trong trại giam. Đến mức vào ngày 12 tháng 4 năm 1941, trong một báo cáo gửi Stalin, Zhukov và Timoshenko đã phải phàn nàn là Không quân Xô Viết mất từ hai đến ba chiếc máy bay mỗi ngày do tai nạn, và họ đã yêu cầu Stalin thay thế một số sĩ quan cao cấp trong Không quân Xô Viết.

Liên Xô bắt đầu học theo Đức và tổ chức phần lớn các lực lượng thiết giáp thành những sư đoàn và quân đoàn độc lập. Ngày 6 tháng 7 năm 1940, Hội đồng Bộ trưởng Liên Xô ra quyết định thành lập tám quân đoàn thiết giáp mới với quy mô lớn hơn một quân đoàn trước đó. Tháng 2/1941 Dân ủy Chiến tranh quyết định đưa 21 trong số 29 quân đoàn thiết giáp đi vào hoạt động. Một số sư đoàn thiết giáp và bộ binh cơ giới độc lập cũng được thiết lập., và những cải tổ trong Hồng quân vẫn chịu nhiều sự bó buộc của các thế lực bảo thủ. Vì vậy số xe tăng này không đủ để biến các quân đoàn thiết giáp thành một sức mạnh có hệ thống và thậm chí không nhận được đầy đủ sự hỗ trợ cần thiết về hậu cần và huấn luyện. Nhà sử học Nga Boris Sokolov, sau khi nghiên cứu các bản kế hoạch của Liên Xô trước chiến tranh, cũng kết luận là sau cuộc tấn công của quân Đức ngày 22 tháng 6, Hồng quân thực hiện những đợt phản công dựa theo sườn của các kế hoạch tấn công đã soạn thảo trước đó và những kế hoạch phòng ngự của Hồng quân sau đó, chỉ là những biện pháp ứng phó; vì vậy những thất bại ban đầu của Hồng quân rất khủng khiếp.

Thêm vào đó, việc Liên Xô xuất khẩu một lượng lớn nguyên liệu thô cho Đức theo những thỏa thuận kinh tế giữa hai quốc gia lúc đó đã đóng góp một phần rất quan trọng vào những chiến thắng ban đầu của Đức trong chiến dịch Barbarossa. Nếu không nhờ việc này, một số nguyên vật liệu quan trọng của Đức sẽ nhanh chóng cạn sạch trong vòng ba tháng rưỡi đầu của cuộc chiến, đặc biệt lượng lương thực và cao su dự trữ của Đức sẽ nhanh chóng trở về con số không chỉ trong vòng ngày đầu tiên của cuộc chiến:

Những sai lầm của Đức

Mục tiêu cuối cùng của Chiến dịch Barbarossa vẫn chưa được hoàn thành. Mặc dù có những thành công ban đầu rất ấn tượng của quân đội Đức Quốc xã nhưng nỗ lực để đánh bại hoàn toàn Liên Xô trong một chiến dịch vẫn cứ thất bại. Nguyên nhân chính có thể được quy cho việc đánh giá thấp thực lực của Quân đội Liên Xô. Mặc dù thực tế cho thấy rằng trước khi chiến tranh tổng số và thành phần của Hồng quân đã được nước Đức xác định đúng và đầy đủ nhưng thiếu sót lớn nhất của cơ quan tình báo quân đội (Abwehr) là đánh giá không đúng quy mô lực lượng thiết giáp của Liên Xô.

Một tính toán sai lầm nghiêm trọng khác của nước Đức Quốc xã là đã đánh giá thấp khả năng động viên lực lượng quân sự của Liên Xô. Bởi trong tháng thứ ba của chiến tranh, người Đức dự kiến Hồng quân sẽ không thể tổ chức được quá 40 sư đoàn mới. Trong khi đó, Ban lãnh đạo của Liên Xô từ đầu mùa hè đã có thể huy động tổng cộng 324 sư đoàn (trong đó có 222 sư đoàn là quân thường trực từ trước). Sai lầm đó xuất phát từ sự thiếu chính xác và nhầm lẫn trong các tin tức thu được từ hoạt động của tình báo Đức. Bộ Tổng tham mưu của Đức cũng đã tính toán và kết luận rằng các lực lượng hiện có là không đủ.

Đặc biệt, tình hình vẫn khó khăn thêm khi chiến dịch mở rộng về phía Đông, quân đội Đức gặp phải các tuyến phòng thủ hình bậc thang. Đã có thể thấy rằng với sự phát triển thành công nhanh chóng của các hoạt động chiến dịch giống như một dòng sông ngày càng mở rộng về phía đông nên các lực lượng của Đức sẽ ngày càng giảm bớt mật độ và áp lực, sau khi đã giáng cho người Nga những đòn quyết định trên tuyến phòng thủ thứ nhất. Kiev-Minsk-hồ Chuskoiye.. Trong khi đó, Hồng quân đã bố trí trên những tuyến sông Tây Dvina và Dnepr một tuyến phòng thư bậc thang thứ hai để đón chặn Quân đội Đức Quốc xã. Đằng sau nó là bậc thang phòng thủ chiến lược thứ ba. Một bước cản trở quan trọng đối với kế hoạch "Barbarossa" là Trận Smolensk, trong đó quân đội Xô Viết, cho dù bị thua thiệt nặng, nhưng vẫn chặn đứng được bước tiến của đối phương sang phía đông.

Ngoài ra, do thực tế là các Cụm tập đoàn quân bị hút vào các hướng khác nhau tại Leningrad, Moskva và Kiev nên khó có thể duy trì sự phối hợp giữa chúng. Các chỉ huy cao cấp của Quân đội Đức Quốc xã đã phải tiến hành những hoạt động giới hạn để bảo vệ các cạnh sườn của cụm quân xung kich trọng tâm. Những hoạt động, mặc dù thành công nhưng đã dẫn đến việc mất thời gian và lãng phí nguồn lực cơ động của quân đội.

Cũng trong tháng 8 đã xuất hiện một câu hỏi về mục tiêu cần ưu tiên đánh chiếm: Leningrad, Moskva hay Rostov-on-Don. Việc chỉ đạo chiến lược tấn công đã tạo ra một sự "khủng hoảng về mệnh lệnh" trong cơ quan chỉ huy tối cao của Quân đội Đức Quốc xã. Cụm tập đoàn quân Bắc đã không chiếm được Leningrad. Cụm tập đoàn quân Nam đã không bảo vệ được sườn trái của họ (tập đoàn quân 6, 17 và tập đoàn quân xe tăng 1) và phải hủy bỏ kế hoạch đánh chiếm Kiev trong hành tiến. Đối phương của họ trên cánh phải của mặt trận Ukraina đã tổ chức phòng ngự theo đúng dự kiến trên tuyến Dniev và đã trụ lại được trên hướng Tây Nam và Nam của mặt trận. Và sau đó thì việc dồn các lực lượng chính cho Tập đoàn quân Trung tâm đánh chiếm Moskva đã để lỡ thời cơ và các sáng kiến có tính chiến lược. Và trong mùa thu năm 1941, các cấp chỉ huy quân đội Đức đã cố gắng tìm kiếm một chiến thắng trong Trận Moskva, 1941 với chiến dịch "Cơn bão lớn" để cứu vãn sự phá sản của kế hoạch Barbarossa. Chiến cục năm 1941 đã kết thúc với sự thất bại của Quân đội Đức Quốc xã tại khu vực trung tâm mặt trận ngay phía trước Moskva, ở Tikhvin trên sườn phía Bắc và ở Rostov trên sườn phía Nam của mặt trận.

👁️ 2 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
Kế hoạch Barbarossa là văn kiện quân sự-chính trị có tầm quan trọng đặc biệt do Adolf Hitler và các cộng sự của ông trong Đế chế Thứ Ba vạch ra. Nằm trong chiến lược
**Chiến dịch Barbarossa** (), còn được gọi là **Cuộc xâm lược của Đức vào Liên Xô** là mật danh của chiến dịch xâm lược Liên Xô do Quân đội Đức Quốc xã tiến hành trong
**Trận Kiev năm 1941** là trận công kích lớn thứ ba của Đức Quốc Xã vào mặt trận Tây Nam của Hồng quân Liên Xô (ngả qua Urkraina) trong Chiến dịch Barbarossa, sau Trận Dubno
**Trận Moskva** là một trong những trận đánh lớn nhất trong Chiến tranh Xô-Đức và Thế chiến thứ hai vào cuối năm 1941 và đầu năm 1942. Với quân số và vũ khí tham chiến
**Chiến dịch Kharkov (1941)**, theo cách gọi của Wilhelm Keitel là **Trận Kharkov lần thứ nhất**, còn theo lịch sử của Nga là **Chiến dịch phòng thủ Sumy-Kharkov**, diễn ra từ ngày 1 tháng 10
**Cuộc bao vây Leningrad** là cuộc phong tỏa quân sự của quân đội Đức Quốc xã đối với thành phố Leningrad (hiện nay là Sankt-Peterburg), đồng thời là cuộc phòng thủ dài ngày nhất trong
**Trận Smolensk** là một trận đánh lớn trong Chiến tranh Xô-Đức thuộc khuôn khổ chiến dịch Barbarossa năm 1941. Đây là một tổ hợp các trận đánh phòng thủ kết hợp với các hoạt động
**Mặt trận Baltic** là một trong ba mục tiêu tấn công đầu tiên của quân đội Đức Quốc xã trong Chiến dịch Barbarossa. Trong tuần lễ đầu tiên của cuộc Chiến tranh Xô-Đức, tại đây
**Trận phòng thủ Pskov** là một hoạt động quân sự lớn của quân đội Đức Quốc xã và quân đội Liên Xô tại khu vực phía Nam hồ Chuskoye, tuyến sông Velikaya và thành phố
**Chiến dịch phòng ngự chiến lược Leningrad** là tổ hợp các hoạt động quân sự của quân đội Liên Xô chống lại các cuộc tấn công của quân đội Đức Quốc xã tại khu vực
**Chiến dịch Blau** (tiếng Đức: **_Fall Blau_**) là mật danh của Kế hoạch tổng tấn công từ mùa hè năm 1942 của quân đội Đức Quốc xã trên toàn bộ cánh Nam của mặt trận
**Chiến tranh Xô–Đức 1941–1945** là một cuộc chiến giữa Liên Xô và Đức Quốc xã trong Thế chiến thứ hai, trải dài khắp Bắc, Nam và Đông Âu từ ngày 22 tháng 6 năm 1941
**Trận Crete** (; ) là một trận đánh diễn ra tại đảo Crete của Hy Lạp giữa quân đội Đức Quốc xã và quân đội Đồng Minh trong Chiến tranh thế giới thứ hai, bắt
**Fedor von Bock** (3 tháng 12 năm 1880 – 4 tháng 5 năm 1945) là một Thống chế quân đội Đức thời Chiến tranh thế giới thứ hai. Ông đã đóng một vai trò quan
**Trận phòng thủ pháo đài Brest** là một trận đánh diễn ra giữa quân đội phát xít Đức với lực lượng Hồng quân Xô Viết đồn trú trong pháo đài Brest. Về cơ bản, trận
**Georgy Konstantinovich Zhukov** (; , 1 tháng 12 năm 1896 – 18 tháng 6 năm 1974) là một sĩ quan cấp tướng và là Nguyên soái Liên Xô. Ông cũng từng là Tổng Tham mưu
**Chiến dịch Rostov năm 1941** là trận phòng ngự-phản công tại vùng Rostov trên sông Don của Quân đội Liên Xô. Đây là một trận đánh quan trọng trên khu vực phía Nam chiến trường
**Cụm tập đoàn quân Trung tâm** (tiếng Đức: _Heeresgruppe Mitte_) là tên của tổ chức tác chiến chiến lược cấp cụm tập đoàn quân của Đức Quốc xã tại Mặt trận phía Đông trong Thế
**Trận Dubno-Lutsk-Brody** (một số tên khác là **Trận Brody**, **Trận Dubna**, **Trận Dubno**) là một trong những trận đánh xe tăng lớn nhất trong Chiến tranh Xô-Đức. Trận đánh diễn ra giữa các sư đoàn
**Trận Białystok – Minsk** là một chiến dịch tấn công chiến lược do Cụm Tập đoàn quân Trung tâm của Đức thực hiện nhằm chọc thủng các phòng tuyến biên giới của Liên Xô trong
**Chiến dịch Yelnya** (30 tháng 8 – 8 tháng 9 năm 1941) là một chiến dịch phản công của quân đội Liên Xô chống lại quân đội Đức Quốc xã trong thời gian chiến dịch
**Chiến dịch Kavkaz** là tên gọi chung cho một chuỗi các hoạt động quân sự tại khu vực Kavkaz diễn ra giữa quân đội Liên Xô và quân đội Đức Quốc xã trong cuộc Chiến
**Liên Xô** hay **Liên bang Xô viết**, tên chính thức là **Liên bang Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Xô viết**, là một cựu quốc gia nằm ở phía bắc lục địa Á-Âu, tồn tại
**Chiến dịch phản công Mozhaysk-Vyazma** có tên mã **Chiến dịch "Sao Mộc"** (10 tháng 1 - 31 tháng 3 năm 1942) là chiến dịch bộ phận trong Cuộc phản công chiến lược đầu năm 1942
**Trận Uman** là một phần Chiến dịch Barbarossa trong giai đoạn đầu của Chiến tranh Xô-Đức, diễn ra từ ngày 15 tháng 7 đến ngày 10 tháng 8 năm 1941 diễn ra tại thành phố
**Chiến dịch Krym – Sevastopol (1941–1942)** bao gồm toàn bộ các trận chiến đấu của quân đội Xô Viết và quân đội Đức Quốc xã cùng với quân Romania tại bán đảo Krym từ tháng
Đây là danh sách các sự kiện hàng không nổi bật xảy ra trong năm 1941: ## Các sự kiện * Jackie Cochran trở thành người phụ nữ đầu tiên lái một chiếc máy bay
**Trận phòng thủ Odessa** là một trận đánh giữa Hồng quân Liên Xô với quân đội Đức Quốc xã và đồng minh Romania diễn ra trong giai đoạn đầu của chiến tranh Xô-Đức. Theo kế
**Trận phòng thủ Luga** diễn ra từ ngày 6 tháng 8 đến giữa tháng 9 năm 1941 là một trong các trận đánh ác liệt nhất tại mặt trận Tây Bắc Liên Xô trong giai
**Otto Moritz Walter Model** (24 tháng 1 năm 1891 - 21 tháng 4 năm 1945) là một thống chế của quân đội Đức Quốc xã trong Chiến tranh thế giới thứ hai. Model nổi tiếng
nhỏ|Quân thập tự chinh bao vây Damascus năm 1148 **Friedrich I Barbarossa** (1122 – 10 tháng 6 năm 1190) là Hoàng đế của Đế quốc La Mã Thần thánh từ năm 1155 cho đến khi băng
**Lực lượng vũ trang Liên bang Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Xô viết**(tiếng Nga: _Вооружённые Силы Союза Советских Социалистических Республик_) là lực lượng vũ trang của Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Xô viết
phải|Hình ảnh tiêu biểu của các binh đoàn cơ động [[Đức Quốc Xã trong Thế chiến thứ 2, bao gồm xe tăng, bộ binh cơ giới hoá và các binh chủng hỗ trợ.]] **Blitzkrieg**, (
Các chiến binh Công giáo chiếm đóng Jerusalem trong cuộc Thập tự chinh thứ nhất. **Giai đoạn giữa Trung Cổ** là một thời kỳ lịch sử ở châu Âu kéo dài trong ba thế kỷ
**Chiến tranh thế giới thứ hai** (còn được nhắc đến với các tên gọi **Đệ nhị thế chiến**, **Thế chiến II** hay **Đại chiến thế giới lần thứ hai**) là một cuộc chiến tranh thế
**Trận Hy Lạp** (hay còn gọi là **Chiến dịch Marita**, ) là tên thường gọi cuộc tiến công chinh phục Hy Lạp của nước Đức Quốc xã vào tháng 4 năm 1941. Phía Hy Lạp
**Lục quân** (, ) là thành phần lực lượng trên bộ của _Wehrmacht_, lực lượng vũ trang chính quy của Đức, từ năm 1935 cho đến khi bị tan rã vào năm 1945 và sau
**Wilhelm I** (tên đầy đủ: _Wilhelm Friedrich Ludwig_; 22 tháng 3 năm 1797 – 9 tháng 3 năm 1888), là quốc vương Phổ từ ngày 2 tháng 1 năm 1861, chủ tịch Liên bang Bắc
**Hermann Hoth** (1885-1971) là một Đại tướng Lục quân Đức trong Chiến tranh thế giới thứ hai. Ông là một trong những chỉ huy hàng đầu của binh chủng Tăng-Thiết giáp Đức, đã dẫn dắt
**_Schutzstaffel_** (**SS**; cách điệu hóa bằng chữ Rune Armanen là