✨Trận Kiev (1941)

Trận Kiev (1941)

Trận Kiev năm 1941 là trận công kích lớn thứ ba của Đức Quốc Xã vào mặt trận Tây Nam của Hồng quân Liên Xô (ngả qua Urkraina) trong Chiến dịch Barbarossa, sau Trận Dubno - Lutsk - Brody ở biên giới phía Tây Ukraina và Trận Uman ở miền Trung Ukraina. Từ ngày 22 tháng 6 đến ngày 30 tháng 9 năm 1941, Cụm tập đoàn quân Nam được sự hỗ trợ từ Cụm tập đoàn quân Trung tâm của quân đội Đức quốc xã đã bao vây và loại khỏi vòng chiến đấu những lực lượng cơ bản của Phương diện quân Tây Nam (Liên Xô) đang phòng thủ khu vực Tây Nam mặt trận mà trọng điểm là khu phòng thủ Kiev (Киев). Đây là một trong những chiến quả quân sự lớn nhất của quân đội Đức trong toàn bộ Chiến tranh Xô-Đức cũng như trong lịch sử quân sự thế giới. Kết quả trận đánh là chiến thắng quyết định của Quân đội Đức Quốc xã.

Trận đánh đẫm máu này có thể được xem là trận thắng vinh quang nhất của lãnh tụ Adolf Hitler nói riêng và Đức Quốc xã nói chung trong cuộc Chiến tranh Xô-Đức, và là thất bại thảm hại nhất của Quân đội Liên Xô thời đó.

Binh lực các bên tham chiến

Quân đội Đức và các nước phụ thuộc

Bộ binh: Các tập đoàn quân dã chiến 6, 11, 17 (Đức) gồm 46 sư đoàn Đức, 8 sư đoàn Romania, 1 sư đoàn Slovakia. Xe tăng: Tập đoàn quân xe tăng 1 gồm 6 sư đoàn xe tăng, 3 sư đoàn cơ giới; quân đoàn xe tăng 40. Không quân: Tập đoàn quân không quân 4 với 1.300 máy bay Pháo binh: 5 sư đoàn

Quân đội Liên Xô

Bộ binh: Các tập đoàn quân bộ binh 5, 6, 9, 12, 26. Nửa cuối chiến dịch có thêm các tập đoàn quân bộ binh 37, 38. Trong số này, tập đoàn quân 6 chỉ gồm một ít đơn vị còn lại sau khi các đơn vị khác trong tập đoàn quân bị tiêu diệt ở trận Dubno - Lutsk - Brody và trận Uman, tập đoàn quân 12 cũng không còn đầy đủ lực lượng sau khi thoát khỏi bị vậy trong trận Uman. Xe tăng: Các quân đoàn cơ giới độc lập 9, 19, 22, các quân đoàn cơ giới 8, 4, 24, 15 thuộc các tập đoàn quân 5, 6, 12 và 26. Trong số này quân đoàn cơ giới số 9, 15, 19 và 22 đã bị thiệt hại nặng nề sau trận đấu tăng ở Dubno - Lutsk - Brody. Không quân: Các sư đoàn không quân 15, 17, 62. Pháo binh: 6 sư đoàn trong đó có 1 sư đoàn pháo chống tăng.

Tập đoàn quân số 16 của trung tướng Mikhail Fedorovich Lukin và tập đoàn quân số 19 của trung tướng Konev vốn được xếp phòng thủ ở quân khu đặc biệt Kiev (phương diện quân Tây Nam) nhưng đã được Bộ Tư lệnh Hồng quân điều sang chi viện cho phương diện quân Tây (quân khu đặc biệt Tây cũ).

Ý đồ quân sự của các bên

Nước Đức Quốc xã

Trang 3 - Chỉ thị 21 của Hitler đề cập đến chiều sâu nhiệm vụ của quân đội Đức Quốc xã tại cánh Nam mặt trận Đức-Xô Trong kế hoạch Barbarossa, giới quân sự nước Đức Quốc xã coi việc đánh chiếm Ukraina, vùng Hạ Volga và vùng Kavkaz có vai trò quan trọng không kém việc đánh chiếm thủ đô Moskva và thành phố Leningrad. Nếu như việc đánh chiếm Moskva và Leningrad lấy ý nghĩa chính trị - quân sự làm trọng thì việc đánh chiếm các vùng công nghiệp, nông nghiệp và dầu mỏ ở miền Nam Liên Xô có ý nghĩa kinh tế - quân sự sống còn đối với nước Đức trong cuộc chiến với Liên Xô. Tại mặt trận phía nam phần lãnh thổ Liên Xô ở châu Âu, Kế hoạch Barbarossa đặt ra nhiệm vụ mở những chiến dịch đột kích sâu bằng xe tăng để bao vây và tiêu diệt những lực lượng chủ yếu của Liên Xô đóng tại vùng biên giới, ngăn chặn không cho các lực lượng còn sức chiến đấu của họ rút vào nội địa; tiến hành truy kích và chiếm giữ những tuyến chiến đấu sao cho không quân Liên Xô không thể ném bom xuống đất Đức. Mục tiêu cuối cùng cho các chiến dịch là tiến đến tuyến Volga - Arkhalghensk, tạo điều kiện để khi cần thiết có thể dùng không quân đánh tê liệt khu vực công nghiệp quân sự cuối cùng của Liên Xô tại vùng Ural. Sau khi hoàn thành nhiệm vụ này, cánh quân phía nam của quân đội Đức quốc xã sẽ trở thành một trong ba mũi hợp vây cuối cùng đối với quân đội Liên Xô tại hướng Moskva. Hitler tin rằng, mất nguồn đầu lửa từ Baku, nguồn lúa mỳ ở Ukraina và khu công nghiệp Donbass trù phú, Liên Xô sẽ suy yếu nghiêm trọng và đi đến phá sản về kinh tế.

Hướng đột kích chủ yếu của Cụm tập đoàn quân Nam (Đức) nhằm vào khu vực của các tập đoàn quân 5, 6, và 26 (Liên Xô) trên cánh bắc từ Koven - Lvov - Vladimir Volynsky đến Peremysl gồm tập đoàn quân dã chiến 6, tập đoàn quân xe tăng 1, tập đoàn quân 17 với 300.000 quân, gần 5.500 khẩu pháo, 700 xe tăng. Tập đoàn quân xe tăng 1 của tướng Ewald von Kleist tấn công ở giữa. Các tập đoàn quân dã chiến 6 của thống chế Walther von Reichenau và 17 của tướng Carl-Heinrich von Stülpnagel tấn công bên sườn trái và sườn phải của tập đoàn quân xe tăng 1. Trên khu vực đột kích ở Vladimir Volynskiy, quân Đức đã tạo được ưu thế cục bộ gấp ba lần về binh lực và gấp hai lần về pháo. Tại hướng đột kích thứ yếu nhằm vào khu vực Tây Nam Karpat trên dải phòng ngự của các tập đoàn quân 9 và 12 (Liên Xô) từ Przemysl - Serbauti - Iasi đến bờ biển Đen gồm tập đoàn quân dã chiến 11 (Đức), các tập đoàn quân Romania 3 và 4. Trong đó, tập đoàn quân dã chiến 11 tấn công ở giữa, hai tập đoàn quân Romania 3 và 4 tấn công ở hai bên sườn.

Ý đồ của Thống chế Gerd von Rundstedt, Tư lệnh Cụm tập đoàn quân Nam (Đức) là tạm thời phòng thủ tuyến biên giới giữa Hungary và Romania với Liên Xô; sử dụng lực lượng bộ binh cơ giới và xe tăng rất mạnh gồm ba tập đoàn quân Đức ở cánh bắc dồn các tập đoàn quân của Liên Xô xuống phía nam, chia cắt Quân khu Kiev với Quân khu đặc biệt miền Tây. Sau đó mới sử dụng cánh Nam gồm một tập đoàn quân Đức và hai tập đoàn quân Romania vượt sông Prut phối hợp với cánh Bắc hợp vây các tập đoàn quân Liên Xô ở hữu ngạn sông Dniestr.

Quân đội Liên Xô

Tại các quân khu Kiev và Odessa, Quân đội Liên Xô bố trí hai tuyến phòng ngự. Tuyến phòng ngự trên biên giới mới được tạo nên sau chiến dịch Tây Belorussia và Bessarrabia năm 1939 - 1940 gồm các lực lượng cơ bản của các tập đoàn quân 5, 6, 26, 12 và 9. Tại quân khu đặc biệt Kiev, phòng ngự trên tuyến biên giới cũ gồm lực lượng còn lại của các tập đoàn 5, 6, 12, 26, các quân đoàn cơ giới 15, 22 và tập đoàn quân 16. Sâu trong nội địa cách biên giới từ 250 đến 300 km có các quân đoàn cơ giới 4, 8, 9 và 19 đang trong giai đoạn xây dựng. Tổng số xe tăng của bốn quân đoàn này lên đế hơn 750 chiếc nhưng lại chỉ có 163 chiếc xe tăng chủ lực KV và T-34 là có thể đương đầu với xe tăng T-IV của Đức; số còn lại đều là các xe tăng hạng nhẹ T-26, T-28 và BT-7.

Diễn biến

Tình thế chiến trường trước Trận Kiev

Hội chiến biên giới tại Ukraina và Bessarabia

Sơ đồ bố trí binh lực trên hướng Tây Nam Liên Xô và kế hoạch tấn công của quân đội Đức Quốc xã

3 giờ 45 phút sáng ngày 22 tháng 6 năm 1941, các trận tấn công bất ngờ đầu tiên của quân đội Đức quốc xã vào Ukraina (khi đó thuộc Liên Xô). Tập đoàn quân 6 (Đức) tấn công vào dải phòng ngự của tập đoàn quân 5 (Liên Xô) từ Koven đến Rovno; mũi đột kích chủ yếu nhằm vào chỗ nối giữa tập đoàn quân 5 và tập đoàn quân 6 (Liên Xô) tại tuyến Ustiluh - Kryshnopol. Tập đoàn quân xe tăng 1 tấn công từ Rovno đến Tomashuv vào tập đoàn quân 6; mũi xe tăng đột kích hướng về Sokal - Vladimir Volynskiy. Tập đoàn quân 17 tấn công từ Tomashuv đến Przemysl vào tập đoàn quân 26, cánh quân chủ yếu đột kích vào Rava Russkaya. Do báo động chuyển trạng thái chiến đấu muộn nên các sư đoàn bộ binh 45, 62, 87, 124 (tập đoàn quân 5); 72, 99 (tập đoàn quân 26); 41, 97, 159 và sư đoàn kỵ binh 3 (tập đoàn quân 6) phải mất từ 8 đến 10 giờ để các khu vực phòng thủ biên giới đã được phân công. Các đơn vị tuyến hai chỉ có thể tiếp cận chiến trường sau hai ngày. Tính bất ngờ của cuọc tấn công đã tạo ra một lợi thế lớn cho quân đội Đức quốc xã. Ngay trong ngày chiến tranh đầu tiên, 180 máy bay của Liên Xô đã bị bắn rơi hoặc phá hủy tại không phận Quân khu đặc biệt Kiev. Tại hướng cực Nam của mặt trận, các tập đoàn quân 11 (Đức) của tướng Eugen Ritter von Schobert, tập đoàn quân Romania 3 của tướng Constantinescu và tập đoàn quân Romania 4 của tướng Dumitrescu chưa phát động tiến công ngay.

13 giờ ngày 22 tháng 6, Đại tướng Tổng tham mưu trưởng quân đội Liên Xô G. K. Zhukov được phái đến chỉ đạo tác chiến tại Quân khu đặc biệt Kiev (được đổi thành Phương diện quân Tây Nam). 24 giờ ngày 23 tháng 6, Bộ Tổng tư lệnh Liên Xô hạ lệnh cho Phương diện quân Tây Nam phải phản đột kích ngay vào các cánh quân Đức đã đột nhập lãnh thổ Liên Xô tại Sokal. Mặc dù tham mưu trưởng phương diện quân, tướng M. A. Purkaev cho rằng Phương diện quân không đủ lực lượng và phương tiện để phản kích nhưng vẫn phải thực thi mệnh lệnh này. Trong tay Bộ tư lệnh Phương diện quân Tây Nam chỉ có hai quân đoàn cơ giới 8 và 15 để huy động vào cuộc phản kích. Ba quân đoàn cơ giới 9, 19 và 22 phải đến ngày 24 mới có thể tiếp cận chiến trường. Các tập đoàn quân 5, 6, 26 đều rải các đơn vị bộ binh trên tuyến mặt trận dài hơn 600 km. Cuộc phản kích diễn ra trong ngày 24 tháng 8 vào sườn phải của quân đoàn cơ giới 48 thuộc tập đoàn quân xe tăng 1 Đức và đã chặn được cánh quân này trong hai ngày nhưng Quân đội Liên Xô không còn lực lượng dự bị trên hướng này để tiếp tục phản đột kích.

Trên hướng Vladimir Volynskiy, Sư đoàn 14 thuộc Tập đoàn quân xe tăng 1 (Đức) đã lợi dụng sự đứt đoạn trên tuyến phòng ngự giữa hai sư đoàn bộ binh 62 và 87 của tập đoàn quân 5 (Liên Xô) để đánh bọc sườn các sư đoàn này, mở đường tiến về Lusk nhưng đã bị lữ đoàn pháo chống tăng 1 (Liên Xô) chặn lại tại Voynitsa, cách Vladimir Volynskiy 20 km về phía đông. Trên hướng Sokal, sư đoàn xe tăng 16 (Đức) cũng đột phá được một đoạn cửa mở tại sườn phải của sư đoàn bộ binh 124 (Liên Xô) và tiến sâu về Radekhov. Tuyến phòng ngự của các tập đoàn quân 5, 6 của Phương diện quân Tây Nam bị xe tăng Đức chọc thủng ở nhiều nơi khác.

Trong ngày 22 tháng 6, tập đoàn quân 17 (Đức) tung ra 5 sư đoàn để công phá tuyến phòng ngự của quân đội Liên Xô tại các khu phòng thủ Rava - Russkaya, Przemysl và Strumilov (???) nhưng đến ngày 23 vẫn không vượt qua được các khu vực này. Ngày 24 tháng 6, Stülpnagel điều động thêm quân đoàn bộ binh 44 và tìm được chỗ yếu tại nơi tiếp giáp giữa các sư đoàn 97 và 159 bên sườn phải của tập đoàn quân 6 (Liên Xô). Đến cuối ngày 24, tập đoàn quân 6 (Đức) đã tạo được một cửa mở rộng 40 km để đi vòng qua các khu phòng thủ Rava - Russkaya và Przemysl. Cửa đột phá này đã tạo điều kiện cho các sư đoàn cơ giới Đức tiến vào chặn trước các quân đoàn cơ giới 9 và 19 của Liên Xô trên tuyến Dubno, không cho các quân đoàn này tiếp cận chiến trường và trợ lực cho hai quân đoàn cơ giới 8 và 15 để phản kích vào sườn tập đoàn quân xe tăng 1 (Đức). Ngày 29 tháng 6, Quân đội Liên Xô phải rút khỏi thành phố biên giới Przemysl.

Người dân quận Grushky, Kiev vô gia cư sau trận ném bom của Không quân Đức Quốc xã xuống thành phố ngày 23-6-1941

Ngày 26 tháng 6, quân đoàn cơ giới 8 của Phương diện quân Tây Nam tiếp tục phản đột kích vào Lesnevo (???) và Berestechko nhưng không còn lực lượng để phát triển. Ngày 27 tháng 6, quân đoàn bộ binh 36 và các sư đoàn đi trước của các quân đoàn cơ giới 9 và 19 của Phương diện quân Tây Nam từ tuyến hai đã tiếp cận chiến trường và giao chiến với quân đoàn bộ binh 55, các sư đoàn xe tăng 13, 14 và sư đoàn cơ giới 60 của Tập đoàn quân xe tăng 1 Đức tại phía tây Dubno nhưng không đánh bật được các sư đoàn xe tăng Đức. Đêm 27 tháng 6, xét thấy các quân đoàn cơ giới có nguy cơ bị hợp vây, Bộ Tư lệnh phương diện quân Tây Nam dự kiến rút các sư đoàn đã bị thiệt hại về tuyến sông Stokhod, Styr, chuyển sang phòng ngự tại Koven, Dubno, Lusk và Brody nhưng Moskva vẫn hạ lệnh: Tiếp tục phản đột kích. Đại tá I. K. Bagramian, trưởng phòng tác chiến Phương diện quân Tây Nam nhận xét: "Đây là một nhiệm vụ làm chúng tôi nghẹt thở".

Trong tuần đầu tiên của chiến tranh, bốn quân đoàn cơ giới của Quân đội Liên Xô đã lần lượt giao chiến với 6 sư đoàn xe tăng và ba sư đoàn cơ giới Đức. Quân đội Liên Xô đã có thể có thắng lợi nếu như họ có thời gian để tập trung cả bốn quân đoàn này lại thành một khối xung kích mạnh. Tuy nhiên, thời gian ủng hộ quân đội Đức Quốc xã cũng như việc bị mất hàng nghìn máy bay ngay trong ngày đầu giao chiến đã làm cho không quân Liên Xô hầu như tê liệt. Các xe tăng của Liên Xô không có hệ thống súng phòng không yểm hộ đã trở thành "mồi ngon" cho các máy bay cường kích của Đức. Dù sao thì những đoàn phản kích bằng lực lượng cơ giới của Liên Xô cũng đã làm thất bại kế hoạch tốc chiến tốc thắng của quân đội Đức, ít nhất là trong tuần đầu tiên của cuộc chiến.

Do bị thiệt hại nặng cả về quân số và phương tiện, ngày 28 tháng 6, các quân đoàn cơ giới 8 và 15 của quân đội Liên Xô đã bị đánh bật khỏi Dubno. Sư đoàn xe tăng 11 (Đức) còn tấn công vào sườn trái bị hở của quân đoàn bộ binh 36 và lao nhanh về Ostroh và Shepetovka. Một sự trùng hợp ngẫu nhiên là do đánh giá thực lực của Phương diện quân Tây Nam có thể đảm đương đựợc nhiệm vụ, Bộ Tổng tư lệnh tối cao Liên Xô rút tập đoàn quân 16 trên chính hướng này đến phòng ngự tuyến hữu ngạn sông Berezina, trấn giữ con đường Mogilev – Smolensk. Tư lệnh tập đoàn quân 16, tướng M. F. Lukin buộc phải "dỡ" hai sư đoàn bộ binh đã lên tàu và điều nó đi bịt cửa mở ở phía tây Shepetovka. Bộ Tư lệnh phương diện quân Tây Nam cũng phải điều hai quân đoàn cơ giới 8 và 15 đã yếu đi rất nhiều vào các cuộc phản kích hướng lên phía bắc tới Dubno. Thậm chí, còn phải tung cả quân đoàn cơ giới dự bị số 24 đang xây dựng (mới chỉ có một sư đoàn và 2 trung đoàn) vào chiến đấu. Đến ngày 30 tháng 6, Bộ tư lệnh Phương diện quân Tây Nam mới nhận được những tin tức thiệt hại của hai quân đoàn cơ giới 9 và 19 tại tuyến Rovno. Các quân đoàn này không thể đến Dubno do bị hai quân đoàn xe tăng Đức liên tục đột kích từ sườn phía nam. Cuộc tiến công của quân đoàn cơ giới 8 vì thế trở nên đơn độc, bị sa vào vòng vây của hai quân đoàn cơ giới Đức tại Brody. Không còn dầu cho các xe tăng, chỉ huy quân đoàn đã hạ lệnh chôn các xe tăng dưới đất và chiến đấu đến viên đạn cuối cùng. Không chịu đựng được sức ép của thất bại, Ủy viên hội đồng quân sự Phương diện quân Tây Nam, Chính ủy quân đoàn N. N. Vashughin đã tự sát.

Quân đội Đức quốc xã và quân đội Romania vượt sông Prut tấn công miền Nam Liên Xô, tháng 6 năm 1941

Cụm tập đoàn quân Nam (Đức) giữ thế phòng ngự ở biên giới Romania trong mấy ngày đầu không phải không có chủ định chiến thuật. Đến ngày 25 tháng 6, khi các tập đoàn quân 5 và 6 (Liên Xô) phải lùi dần, chỗ hở bên sườn phải các tập đoàn quân 12 và 26 xuất hiện, tập đoàn quân 17 với 12 sư đoàn, trong đó có ba sư đoàn cơ giới mới bắt đầu tiến công, dồn hai tập đoàn quân này về phía nam. Tại Quân khu đặc biệt Odessa (sau đổi thành Tập đoàn quân duyên hải rồi thành Phương diện quân Nam, tư lệnh Quân khu, trung tướng Yakovlev Timofeevich Cherevichenko có 13 sư đoàn bộ binh, 4 sư đoàn xe tăng, 2 sư đoàn cơ giới và 3 sư đoàn kỵ binh. Quân đội Đức đã sử dụng 12 sư đoàn Đức, 9 sư đoàn Romania mở cuộc tấn công vào ngày 25 tháng 6 (ba ngày sau khi chiến sự khởi phát tại phía tây Ukraina). Đến ngày 1 tháng 7, các đơn vị cơ giới Đức đã tiến đến tuyến Moghilev Podonsky - Jmerynka, đe dọa đánh vào sườn các tập đoàn quân 12, 26 và tập đoàn quân 9. Đến này 30 tháng 6, tập đoàn quân 11 (Đức), các tập đoàn quân 3, 4 Romania đã chọc thủng tuyến phòng ngự của Phương diện quân Nam sâu đến 50 km. Quân Đức và Romania tiếp tục mở rộng các cửa đột phá. Nguy cơ bị quân Đức bao vây của hai tập đoàn quân 12 và 26 cùng chủ lực Phương diện quân Nam xuất hiện.

Sau các trận đánh biên giới, cuối tháng 6 năm 1941, Phương diện quân Tây Nam của quân đội Xô viết tại Ukraina đã chịu những tổn thất rất nặng nề nhưng về cơ bản đã tránh được các đòn đánh thọc sườn, bảo vệ được lực lượng và rút lui có tổ chức về tuyến sông Slutch (Случь), sông Dnestr (Днестр) và sông Tây Bug (Западный Буг) để bảo vệ thủ đô Kiev. Tuy nhiên, dãn cách đứt đoạn ở giữa mặt trận của các tập đoàn quân 12 và 26 đã làm cho hai tập đoàn quân này có nguy cơ bị bứt khỏi chủ lực của Phương diện quân Tây Nam. Sở chỉ huy Bộ tư lệnh Phương diện quân Tây Nam cũng phải rút lui từ Tarnopol về Proskurovka.

Quân đội Đức đột phá phía nam Kiev và trận hợp vây Uman

Xe tăng T-26 (Liên Xô) qua cầu Kiev ra mặt trận, mùa hè 1941 Do không còn lực lượng dự bị, ngày 30 tháng 6 năm 1941, Bộ Tổng tư lệnh tối cao quân đội Liên Xô gửi bức điện phê chuẩn kế hoạch của Phương diện quân Tây Nam đến ngày 9 tháng 7 sẽ lui về khu phòng thủ cũ tại tuyến Korosten – Novohrad-Volynskyi – Shepetovsky – Staro-Konstantinovsk – Proskurovka (Проскуровск). Phương diện quân Nam gồm 2 tập đoàn quân 9 và 18 cũng được lệnh lui về tả ngạn sông Dniestr trên tuyến Kamenets Podolski - Moghilev Podolsky - Kukueshi (???) - Sarateni (???) - Kishinev. Đây chính là khu vực biên giới cũ của Liên Xô trước khi giành lại các phần lãnh thổ bị Ba Lan chiếm trước đây - vùng Galasi và Bessarabia theo tinh thần hiệp ước Molotov-Ribbentrop. Tuy nhiên, Cụm tập đoàn quân Nam (Đức) đã đi trước một phần ý đồ rút quân của Phương diện quân Tây Nam (Liên Xô). Ngày 2 tháng 7, tập đoàn quân 17 (Đức) tiến công dọc đường cái Brody - Tarnopol, chiếm Tarnopol, vòng qua sườn trái bị hở của tập đoàn quân 6 (Liên Xô), đe dọa cắt rời ba tập đoàn quân 6, 12, 26 và đẩy các tập đoàn quân này lùi sâu thêm về phía nam. Ngày 3 tháng 7, thượng tướng M. P. Kirponosh định điều động tập đoàn quân 19 do trung tướng I. S. Koniev chỉ huy đóng quanh khu vực Kiev ra bịt cửa mở Tarnopol nhưng Bộ Tổng tư lệnh tối cao quân đội Liên Xô đã rút tập đoàn quân này để tăng cường cho Phương diện quân Tây. M. P. Kirponosh đành tung lực lượng dự bị cuối cùng của mình là quân đoàn bộ binh 49 và quân đoàn cơ giới 24 (tất cả chỉ có bốn sư đoàn). Các binh đoàn mỏng yếu này nhanh chóng bị Tập đoàn quân 17 (Đức) đẩy lùi. Sở chỉ huy Phương diện quân Tây Nam phải dời đến Zhitomir (Житомир) và sau đó ít ngày, về Kiev.

Ngày 7 tháng 7 năm 1941, 12 sư đoàn xe tăng và bộ binh Đức chọc thủng tuyến phòng thủ của quân đoàn bộ binh 7 và quân đoàn cơ giới 19 (Liên Xô) tại phía nam trung tâm phòng ngự Novograd Volynskiy và Novyi Miropol (Myropol), phá vỡ kế hoạch phòng ngự của Phương diện quân Tây Nam trên khu phòng thủ biên giới cũ. 11 giờ trưa ngày 7 tháng 7, quân đoàn cơ giới 48 (Đức) chiếm Chudnov. 16 giờ cùng ngày, sư đoàn xe tăng 11 (Đức) đánh chiếm Berdichev (Бердичев). Ngày 9 tháng 7, quân đoàn xe tăng 3 (Đức) gồm các sư đoàn xe tăng 13, 14 và sư đoàn cơ giới chiếm Zhitomir (Житомир). Trinh sát đường không của Liên Xô đếm được khoảng 300 xe tăng Đức đang triển khai về hướng Kiev. Đến ngày 11 tháng 7, các binh đội moto cơ giới tiền tiêu của quân đoàn cơ giới 48 (Đức) đã đến được sông Irpen (Ирпень), chỉ cách phía tây Kiev 15–20 km. Bộ Tổng tư lệnh tối cao Liên Xô vội vã chuyển cho Phương diện quân Tây Nam quân đoàn cơ giới 16 đang hoạt động tại khu vực Mozyr với mệnh lệnh: "Phải bịt ngay khu vực cố thủ, tiêu diệt quân địch đã đột nhập". Tuy nhiên, quân đoàn này còn cách Berdichev (Бердичев) hơn 100 km, chưa thể tác động ngay đến tình hình cánh bắc của Phương diện quân Tây Nam đang rất nguy ngập. Tư lệnh Phương diện quân M. P. Kirponosh đề nghị Đại bản doanh trả lại cho Phương diện quân ba trung đoàn pháo chống tăng vừa được điều sang phương diện quân Tây nhưng G. K. Zhukov cho biết đề nghị này bị bác bỏ do hướng Smolensk - Moskva đang bị quân Đức uy hiếp nghiêm trọng. G. K. Zhukov cũng yêu cầu Phương diện quân cho chuyển các trung đoàn pháo cao xạ thành các trung đoàn pháo chống tăng, sử dụng đạn xuyên bê tông thay cho đạn mảnh.

Ngày 9 tháng 7, Bộ tư lệnh Phương diện quân Tây Nam (Liên Xô) huy động quân đoàn bộ binh 49 (thuộc tập đoàn quân 6), quân đoàn bộ binh 31, quân đoàn cơ giới 4 (thuộc tập đoàn quân 5) và các 15, 16 (độc lập) tổ chức phản đột kích vào Berdichev (Бердичев) để thủ tiêu nguy cơ bị hợp vây. Chủ lực tập đoàn quân 5 đột kích từ khu phòng thủ Korosten và suờn trái tập đoàn quân xe tăng 1 (Đức) hướng về Zhitomir. Các trung đoàn máy bay ném bom tầm xa 94, 224 và 226 thuộc các sư đoàn không quân 17 và 62 (Liên Xô) đã ném bom nhiều trận vào đội hình xe tăng Đức trên con đường từ Zhitomir đi Fastov. Các trận đánh ác liệt của quân đội Liên Xô từ ngày 9 đến ngày 16 tháng 7 tại khu vực Berdichev (Бердичев) - Zhitomir (Житомир) đã làm cho Tập đoàn quân xe tăng 1 (Đức) phải ngừng tấn công để đối phó với các mũi đột kích của quân đội Liên Xô từ hai bên sườn. Tranh thủ thời gian một tuần đó, Phương diện quân Tây Nam đã củng cố khu phòng thủ Kiev bằng tập đoàn quân 37 mới được thành lập từ các đơn vị dự bị và hai lữ đoàn thuộc quân đoàn đổ bộ đường không 2. Đại tá S. K. Potekhin được giao nhiệm vụ chỉ huy khu phòng thủ Kiev. Những người dân Kiev đều tự coi mình là người đã được động viên. Tại hướng Nam, mũi đột kích từ tập đoàn quân 6 do tướng I. N. Muzychenko chỉ huy đã không thể triển khai được do quân đoàn 49 bị tổn thất trầm trọng và đang rút lui, quân đoàn cơ giới 4 đang phải chiến đấu để phá vây tại Ivanopol và quân đoàn bộ binh 37 đang phải chống lại hai quân đoàn bộ binh của tập đoàn quân 17 (Đức) và tập đoàn quân 3 (Romania).

Tuy nhiên, Bộ tư lệnh Cụm tập đoàn Nam (Đức) chưa thể nghĩ đến việc tấn công Kiev khi mà hai bên sườn tập đoàn quân xe tăng 1, mũi xung kích của cụm quân này có hai tập đoàn quân 5 và 6 của Liên Xô phòng ngự. Ngày 15 tháng 7, thống chế Đức Gerd von Rundstedt điều động cánh phải của tập đoàn quân 6 (Đức) cũng có một sư đoàn xe tăng đến khu vực Zhitomir, điều chủ lực của tập đoàn quân xe tăng 1 gồm 4 sư đoàn xe tăng và hai sư đoàn cơ giới rẽ xuống phía nam phối hợp với toàn bộ tập đoàn quân 17 tấn công vào sườn phải của hai tập đoàn quân 6 và 12 (Liên Xô) tại Kanev - Kazatin (Kozyatyn) và phát triển về hướng Zhmerynka - Voynitsa. Không phát hiện được những chuyển biến mới trên mặt trận, tập đoàn quân 6 (Liên Xô) vẫn dùng lực lượng dự bị cuối cùng của mình là quân đoàn cơ giới 16 tiếp tục cuộc phản kích vào Berdichev (Бердичев) và bị rơi vào thế bao vây. Đến ngày 18 tháng 7, lỗ thủng phòng ngự của quân đội Liên Xô giữa tập đoàn quân 6 và tập đoàn quân 26 đã rộng ra đến hơn 100 km. Muốn thoát khỏi bị bao vây, các tập đoàn quân 6 và 12 chỉ có ba ngày để rút quân trên 90 km về tuyến Belaya Tserkov - Tetiev - Kitaigorod. Để kéo cụm xe tăng chủ lực của quân Đức quay lại cánh Bắc, giảm bớt sức ép cho hai tập đoàn quân cánh Nam, ngày 19 tháng 7, Phương diên quân Tây Nam tổ chức mũi đột kích bằng 7 sư đoàn của các tập đoàn quân 5, 26 và quân đoàn kỵ binh 5 từ Fastov lên và từ Korosten xuống. Kế hoạch tấn công bị lộ và Bộ tư lệnh cụm tập đoàn quân Nam (Đức) đã kịp điều đến khu vực Tsarovka các đơn vị xe tăng, cơ giới đang chuẩn bị tấn công chính diện Kiev. Cuộc phản kích không đạt được kết quả kéo lùi cánh quân xe tăng của tướng Paul Kleist đang chặn đường rút quân của tập đoàn quân 6 (Liên Xô). Những cố gắng cuối cùng của tập đoàn quân 26 đánh vào sườn trái tập đoàn quân xe tăng 1 của Đức cũng không đạt kết quả. Ngày 30 tháng 7, tập đoàn quân xe tăng 1 và tập đoàn quân 17 (Đức) đã hợp vây chủ lực của hai tập đoàn quân 6 và 12 (Liên Xô) tại Uman.

Tại cánh cực Nam của mặt trân Xô-Đức, tập đoàn quân 11 Đức và các tập đoàn quân Romania 3 và 4 tiếp tục vượt sông Dniestr, đột phá qua các bến vượt ở Mogilev - Podolsky, ép các tập đoàn quân 9 và 18 của Phương diện quân Nam (Liên Xô) lùi sâu về Nikopol, Krivoy rog và Nikolaev. Bộ Tổng tư lệnh tối cao quân đội Liên Xô giao quyền chỉ huy hai tập đoàn quân 6 và 12 cho đại tướng I. V. Tiulenev, tư lệnh Phương diện quân Nam nhưng trên thực tế, Phương diện quân Nam không đủ lực lượng để giải vây cho hai tập đoàn quân này. Ngày 2 tháng 8 năm 1941, hai tập đoàn quân 6 và 12 (Liên Xô) bị đánh tan trong vòng vây tại khu vực Uman - Pervomaisk (Первомайск). Tướng I. N. Muzychenko, tư lệnh tập đoàn quân 6 và tướng P. G. Ponedelin, tư lệnh tập đoàn quân 12 và hơn 6.000 sĩ quan, binh sĩ Liên Xô bị bắt làm tù binh. Tập đoàn quân 9 (Liên Xô) phải rút lui trong thế bị nửa hợp vây về tuyến sông Ingulet. Chủ lực tập đoàn quân xe tăng 1, các tập đoàn quân 11, 17 (Đức) tiến đến bờ sông Dniev trên tuyến Kherson, Nikopol, Dnepropetrovsk. Trước tình thế nguy ngập trên hươớg Nam Kiev, Bộ Tổng tư lệnh quân đội Liên Xô lấy từ lực lượng dự bị của mình sáu sư đoàn bộ binh và tập hợp hơn 2000 sĩ quan và binh sĩ thoát vây để tái lập hai tập đoàn quân 6, 12 và bố trí trên tả ngạn sông Dniev từ Krasnodar đến Dnepropetrovsk.

Chiến sự tại khu vực Kiev

Trên các cửa ngõ vào thành phố

Ngày 11 tháng 7, quân đoàn xe tăng 3 (Đức) chiếm Berdichev, một bàn đạp có thể tấn công trực diện vào Kiev. Để tăng cường cho cụm quân của tướng M. F. Lukin, Bộ tư lệnh Phương diện quân Tây Nam điều động sư đoàn xe tăng 10 của tướng S. I. Ogurtsov và kìm giữ được quân đoàn xe tăng 3 Đức trong khoảng một tuần lễ. Ngày 19 tháng 7, tướng Paul Kleist tung sư đoàn cơ giới 60 từ lực lượng dự bị của Tập đoàn quân xe tăng 2 đánh tiêu hao cụm quân của tướng M. F. Lukin và đẩy lùi sư đoàn xe tăng 10 khỏi Berdichev. Tập đoàn quân 6 bị tập đoàn quân 17 (Đức) dồn ép phải lùi về phía nam cũng là tuyến mặt trận của quân đội Liên Xô phía trước Kiev xuất hiện một lỗ hổng rất lớn. Bộ tư lệnh Phương diện quân Tây Nam điều động hai quân đoàn kỵ binh 27 và 64 ra bịt cửa mở nhưng hai đơn vị này vẫn còn đang trên đường hành quân. Ngày 15 tháng 7, Phương diện quân Tây Nam ra lệnh phản kích vào cách quân Berdichev của tập đoàn quân xe tăng 2 (Đức) bằng lực lượng của quân đoàn cơ giới 16 tại hướng Đông trên khu vực từ Kazatin đến Zhitomir); tập đoàn quân 5 và quân đoàn bộ binh 27 trên hướng Bắc từ Brusilov đến Zhitomir; quân đoàn bộ binh 6 và quân đoàn kỵ binh 5 trên hướng Nam từ Popilnya đến Fastov. Do các binh đoàn Xô Viết không thể tập hợp đầy đủ nên cuộc phản kích bị hoãn lại hai ngày. Lợi dụng khoảng thời gian quý giá đó, Bộ chỉ huy Cụm tập đoàn quân Nam (Đức) đã điều tập đoàn quân dã chiến 6 đến khu vực đối diện với Kiev, thế chỗ cho tập đoan quân xe tăng 1 rẽ về phía nam để cùng với tập đoàn quân dã chiến 17 hợp vây hai tập đoàn quân 6 và 12 của Liên Xô. Trong tay Bộ tư lệnh Phương diện quân Tây Nam (Liên Xô) chỉ còn 3 sư đoàn lấy từ lực lượng dự bị của Đại bản doanh và họ đã phải bố trí nó tại bàn đạp Kanev - Cherkasy trên cửa ngõ phía tây Kiev.

Đầu tháng 8 năm 1941, tập đoàn quân 6 (Đức) được tăng cường 7 sư đoàn, trong đó có 4 sư đoàn lấy từ lực lượng dự bị và 3 sư đoàn lấy từ cụm tác chiến Shvetler. Trước cửa ngõ Kiev đã có tới 20 sư đoàn Đức thuộc các quân đoàn bộ binh dã chiến 29, 35, 55, quân đoàn xe tăng độc lập 40, tướng Ofsthefender (phó tư lệnh Tập đoàn quân dã chiến 6) được giao chỉ huy cụm quân xung kích đánh chiếm Kiev với nhiệm vụ phải chiếm được thành phố trước ngày 8 tháng 8 để đón quốc trưởng Adolf Hitler đến duyệt binh

Sau trận Smolensk, Cụm tập đoàn quân Trung tâm của Đức thấy rằng không thể đột phá trực tiếp vào Moskva qua hướng Smolensk – Moskva khi còn có Phương diện quân Tây Nam (Liên Xô) mà trực tiếp là tập đoàn quân 5 bố trí bên sườn phải của nó. Mặt trận mở rộng ra đã làm cho giãn cách đội hình các tập đoàn quân Đức mỏng đi. Để khép chặt đội hình và thủ tiêu nguy cơ đe dọa từ sườn phải. Cụm tập đoàn quân Trung tâm (Đức) được lệnh tạm dừng tấn công hướng Moskva và hướng mũi tấn công của Tập đoàn quân xe tăng 2 xuống phía nam để thanh toán Phương diện quân Tây Nam trước. Ngày 8 tháng 8, tập đoàn quân xe tăng 2 và tập đoàn quân dã chiến 2 (Đức) đã mở cuộc tấn công vào địa đoạn mỏng yếu trong dải phòng ngự của Phương diện quân Trung tâm (Liên Xô) trên hướng Mogilev - Gomel và Roslavl - Starodub, phía nam Smolensk. Ngày 14 tháng 8, Bộ Tổng tư lệnh tối cao quân đội Liên Xô thành lập Phương diện quân Bryansk (từ các lực lượng còn lại của Phương diện quân Trung tâm) do trung tướng A. I. Yeryomenko chỉ huy có nhiệm vụ bịt chặt tuyến Bryansk, Gomel, Chernigov. Tướng A. I. Yeryomenko hứa sẽ đánh tan tập đoàn quân xe tăng 2 (Đức). Tuy nhiên, với lực lượng chỉ có hai tập đoàn quân 13 và 50 gồm 6 sư đoàn bộ binh và 1 sư đoàn kỵ binh, Phương diện quân Bryansk không đủ binh lực và phương tiện để chống lại đòn tiến công của tập đoàn quân xe tăng 2 và tập đoàn quân dã chiến 2 Đức gồm 18 sư đoàn, trong đó có 6 sư đoàn xe tăng. Giữa tháng 8, Tập đoàn quân xe tăng 2 (Đức) chọc thủng phòng tuyến của Phương diện quân Bryansk, tiến nhanh theo hướng Bắc – Nam về phía Gomel và chiếm thành phố này ngày 20 tháng 8 năm 1941, đe doạ nghiêm trọng sườn phải phương diện quân Tây Nam của Liên Xô đang phòng thủ trên hướng Kiev..

Ngày 8 tháng 8, quân đoàn xe tăng 40 (Đức) đột phá vào Myshalovka, Sovki, khu rừng Goloseyev (???) và chiếm một số điểm cao khống chế Kiev từ phía nam. Tình hình nghiêm trọng buộc Bộ tư lệnh Phương diện quân Tây Nam phải đề nghị với Bộ Tổng tư lệnh tối cao Liên Xô cho rút quân sang tả ngạn Dniev. Tuy nhiên, I. V. Stalin nghi ngờ Bộ Tư lệnh Phương diện quân Tây Nam định bỏ Kiev và lập tức điện hỏi. Thượng tướng M. I. Kirponosh cam đoan sẽ dùng mọi biện pháp để giữ được Kiev nhưng yêu cầu cho rút tập đoàn quân 5 và quân đoàn bộ binh 27 đang có nguy cơ bị hợp vây ở Tây Bắc Kiev tại khu vực đầm lầy nằm giữa Mozyr và Korosten. I. V. Stalin yêu cầu Phương diện quân Tây Nam phải giữ được Kiev ít nhất là hai tuần tới trước khi Đại bản doanh có thể điều những lực lượng dự bị đến để chi viện. Ngày 10 tháng 8, Bộ Tư lệnh Phương diện quân Tây Nam hợp nhất tất cả các đơn vị phòng thủ Kiev thành tập đoàn quân 37 với 2/3 quân số lấy từ các đơn vị dân quân Kiev và bố trí nó trên tuyến đường Vasinkov - Kiev. Ngày 10 tháng 8, 5 sư đoàn bộ binh và cơ giới Đức lại tổ chức tấn công trên tuyến đường này. Các trận đánh đẫm máu đã diễn ra tại khu vực Markhalovka. Quân đội Đức Quốc xã tổn thất hàng nghìn quân và hơn 100 xe tăng. Phía Liên Xô cũng chịu những thiệt hại lớn về binh lực: lữ đoàn đổ bộ đường không 3 chỉ còn 375 tay súng, sư đoàn bộ binh 147 chỉ còn gần 200 người, sư đoàn bộ binh 206 chỉ còn hơn 300 người. Bộ tổng tư lệnh hướng Tây Nam lấy từ lực lượng dự bị của mình sư đoàn bộ binh 286 tăng viện cho tập đoàn quân 37. Ngày 15 tháng 8, tập đoàn quân 37 tổ chức phản công với sự tham gia của trung đoàn pháo binh Katyusha đầu tiên của Phương diện quân đã đẩy lùi quân Đức được 10 km về phía nam Kiev. Từ ngày 11 đến ngày 16 tháng 8, thống chế Gerd von Rundstedt, tư lệnh Cụm tập đoàn quân Nam (Đức) sử dụng toàn bộ máy bay ném bom của Tập đoàn không quân số 4 mở chiến dịch không kích Kiev, đồng thời xin tăng cường lực lượng lấy từ Cụm tập đoàn quân Trung tâm. Đề nghị này không được Bộ Tổng tư lệnh lục quân Đức chấp thuận. Thống chế Gerd von Rundstedt buộc phải điều trở lại hướng Kiev hai sư đoàn xe tăng lấy từ tập đoàn quân xe tăng 1 của tướng Paul Kleist.

Kiev thất thủ

Quân đội Đức Quốc xã bắc cầu phao qua sông Dniepr tại Kiev, tháng 9 năm 1941 Trong tháng 8, các nỗ lực phản công của phương diện quân Bryansk của Liên Xô đánh vào sườn trái tập đoàn quân xe tăng 2 và tập đoàn quân dã chiến 2 của Đức vẫn không chặn được cánh quân này. Đến ngày 16 tháng 8, hai tập đoàn quân 13 và 50 bị tổn thất lớn, phải lùi về tuyến Bryansk - Oryol, tạo ra một lỗ hổng lớn tại mặt Bắc tuyến phòng ngự của Phương diện quân Tây Nam. Những người đầu tiên trong Bộ Tổng tư lệnh quân đội Liên Xô phát hiện ra ý đồ này là nguyên soái B. M. Shaposhnikov, đại tướng G. K. Zhukov và trung tướng A. M. Vasilevsky. Trong báo cáo ngày 19 tháng 8 gửi Tổng Tư lệnh tối cao I. V. Stalin, G. K. Zhukov nêu rõ: "Quân địch thấy ta tập trung một lực lượng lớn trên đường đi về Moskva và có Phương diện quân Tây Nam và cánh quân Velikiye Luky của ta bố trí ở bên sườn của chúng, nên đã tạm thời từ bỏ việc đánh vào Moskva. Và trong khi chuyển sang phòng ngự tích cực chống lại Phương diện quân Tây và Phương diện quân Dự bị, chúng đã tung tất cả các đơn vị cơ động và xe tăng xung kích ra đánh Phương diện quân Trung tâm, Phương diện quân Tây Nam và Phương diện quân Nam, tiêu diệt Phương diện quân Trung tâm, đánh ra vùng Chernigov, Konotop, Pryluky rồi sẽ dùng đòn đánh từ sau lưng mà tiêu diệt các tập đoàn quân của Phương diện quân Tây Nam". Tổng tham mưu truởng quân đội Liên Xô, nguyên soái B. M. Shaposhnikov cũng lưu ý I. V. Stalin về tình trạng yếu kém của Phương diện quân Bryansk, nó chỉ gồm 2 tập đoàn quân với phần lớn các đơn vị vừa thoát vây, không đủ sức để chặn hai tập đoàn quân dã chiến 2 và xe tăng 2 của Đức. Tuy nhiên, I. V. Stalin vẫn không cho Phương diện quân Tây Nam rút về tả ngạn sông Dniev. Thậm chí I. V. Stalin còn cách chức Tổng tham mưu trưởng của đại tướng G. K. Zhukov vì đề nghị này và ra lệnh tiếp tục giữ vững Kiev.

Ngày 19 tháng 8, sau khi chủ trương rút quân tại cánh phải của Phương diện quân Tây Nam do S. M. Budionny đề nghị được Đại bản doanh chấp thuận, Hội đồng quân sự phương diện quân vạch kế hoạch rút tập đoàn quân 5 và quân đoàn bộ binh 27 về tả ngạn sông Dniev. Phát hiện các sư đoàn Liên Xô rút khỏi Korosten, thống chế Walther von Reichenau tổ chức cho quân đoàn bộ binh 35 (Đức) truy kích nhưng không vượt qua được sư đoàn biên phòng 4 (quân của Bộ Dân ủy nội vụ) cản hậu. Ngược lại, do tổ chức rút quân kém nên ngày 23 tháng 8, quân đoàn 27 đã để cho sư đoàn cơ giới 57 (Đức) chiếm được các bến vượt qua sông Dniev tại Ostior (???). Không chỉ có vậy, sai lầm của Bộ tư lệnh tập đoàn quân 37 cho điều động hai tiểu đoàn pháo chống tăng về hướng Nam Kiev đã vô hình chung tạo điều kiện cho sư đoàn xe tăng 11 (Đức) do tướng Staffer chỉ huy chiếm được cây cầu Okuninovo có ý nghĩa chiến lược hết sức quan trọng. Mặc dù các máy bay IL-2 của sư đoàn không quân 62 (Liên Xô) đã ném bom phá hủy cây cầu này ngày 24 tháng 8 nhưng đây vẫn là đòn nghiêm trọng giáng vào cánh Bắc của Phương diện quân Tây Nam. Xe tăng Đức đã qua sông và lao về Kiev. Bộ tư lệnh tập đoàn quân 37 đã hành động quá chậm chạp, do đó không thủ tiêu được các bến vượt sông của tập đoàn quân 6 (Đức). Kết quả là đến cuối tháng 8 năm 1941, Kiev có nguy cơ bị tấn công trực diện từ phía bắc. Tại cánh Nam của mặt trận Kiev cũng xuất hiện những nguy cơ mới. Sau khi hợp vây và đánh tan hai tập đoàn quân 6 và 12 (Liên Xô) tại Uman, các tập đoàn quân dã chiến 17 và xe tăng 1 (Đức) đã triển khai dọc hữu ngạn sống Dniev từ Kremenchuk (Кременчук) đến Dnepropetrovsk (Днепропетровск) và chuẩn bị vượt sông.

Thành phố Kiev bị tàn phá rơi vào tay quân Đức, tháng 9-1941

Ngày 24 tháng 8, Bộ Tổng tư lệnh quân đội Liên Xô giải thể phương diện quân Trung tâm, phối thuộc tập đoàn quân 21 cho Phương diện quân Bryansk. Phương diện quân Tây Nam được tăng cường tập đoàn quân 40 do tướng K. P. Potlas chỉ huy. Tuy nhiên, với lực lượng mỏng, chỉ gồm chỉ hai sư đoàn bộ binh 135, 293, sư đoàn xe tăng 10 và quân đoàn đổ bộ đường không 2 đã tổn thất đáng kể trong các trận chiến đấu bảo vệ Kiev hồi tháng 7, tập đoàn quân 40 không thể ngăn chặn được tập đoàn quân xe tăng 2 (Đức). Do hành động của Phương diện quân Bryansk vẫn không có hiệu quả, ngày 2 tháng 9, Đại bản doanh Bộ Tổng tư lệnh Liên Xô gửi một bức điện nghiêm khắc đến tướng A. I. Yeryomenko, tư lệnh phương diện quân Bryansk: "Guderian và toàn bộ cụm quân của hắn phải bị đập nát tan tành. Chừng nào điều này chưa làm được thì tất cả những lời cam đoan của đồng chí về thắng lợi vẫn không có giá trị gì hết".

Đến ngày 7 tháng 9, tập đoàn quân xe tăng 2 của tướng Guderian đã đánh bật các tập đoàn quân 21 và 40, chiếm Chernigov (Чернигов) và Konotop (Конотоп) và lao nhanh về hướng Lokhvitsa (Лохвица) - Romny (Ромны). Các chiến dịch ném bom bằng không quân tầm xa của quân đội Liên Xô cũng không ngăn chặn được cụm xe tăng này. Các cuộc phản công của Phương diện quân Bryansk trên hướng Roslav - Novozybkov cũng nhanh chóng bị tập đoàn quân đã chiến 2 (Đức) đẩy lùi. Chỗ hở giữa hai tập đoàn quân 13 và 21 của Liên Xô đã lên đến 60–70 km. Lập tức, 8 sư đoàn bộ binh, 3 sư đoàn xe tăng và 3 sư đoàn cơ giới tăng của tướng Guderian tràn qua chỗ đứt gãy này. Tại cánh Nam của mặt trận, ngày 10 tháng 9, sư đoàn xe tăng 14 (Đức) đánh chiếm bàn đạp Daryevka bên tả ngạn sông Dniev tại khu vực phòng thủ của tập đoàn quân 38 (Liên Xô) do tướng N. V. Feklenko chỉ huy. Đến ngày 12 tháng 9 thì 12 sư đoàn bộ binh của tập đoàn quân 17, 4 sư đoàn xe tăng và 3 sư đoàn cơ giới của tập đoàn quân xe tăng 1 (Đức) đồng loạt vượt sông tại năm điểm từ Kremenchuk (Кременчук) đến Dnepropetrovsk (Днепропетровск). Trên hướng chính diện Kiev, tập đoàn quân 6 Đức đã tập trung 20 sư đoàn bộ binh, 3 sư đoàn SS và 1 sư đoàn xe tăng. Phương diện quân Tây Nam gồm các tập đoàn quân 5, 26, 37, 38, 40 đã rơi vào tình trạng bị nửa hợp vây từ bốn phía.

Tại hướng cực Nam của mặt trận Xô-Đức, từ ngày 11 tháng 8 đến 10 tháng 9, Cụm tập đoàn quân Nam (Đức) sau khi đánh tan hai tập đoàn quân 6 và 12 dã chiếm Krivoy Rog (Кривой Рог), Nikolaiev (Николаев), Zaporozhye (Запорожье); bao vây Odessa, dồn cụm tác chiến Duyên hải (Liên Xô) về bán đảo Krym, bao vây Sevastopol. Ngày 28 tháng 9, sư đoàn xe tăng 16 thuộc tập đoàn quân xe tăng 1 của tướng Paul Kleist và tập đoàn quân 11 (Đức) tiến công vòng qua Novomoskovsk về hướng Pavlograd. Mặc dù tập đoàn quân 9 và 18 (Liên Xô) đã dồn lực lượng để giữ Taganrog nhưng không đủ binh lực. Sườn phía bắc của Phương diện quân Nam vẫn bị hở và Phương diện quân phải lui về giữ tuyến sông Miush.

Phố Kreshatic, Kiev đổ nát sau các trận ném bom của không quân Đức Quốc xã

Ngày 13 tháng 9, tướng V. I. Tupikov, tham mưu trưởng phương diện quân Tây Nam gửi báo cáo số 15614 đến Tổng tham mưu trưởng quân đội Liên Xô Shaposhnikov, trong đó nói rõ tình thế cực kỳ nguy hiểm của Phương diện quân với nhận xét: "Chỉ vài ngày nữa thôi là sẽ bắt đầu cái tai họa mà đồng chí đã hiểu". Tuy nhiên, I. V. Stalin lại cho rằng đây là một báo cáo hoảng hốt và gửi bức điện lúc 5 giờ ngày 14 tháng 9, yêu cầu ngừng rút lui. Phương diện quân Tây Nam đành phải thực hiện đến cùng nghĩa vị của mình. Đến tận ngày 17 tháng 9, khi nhận thấy tình thế là không thể cứu vãn được, I. V. Stalin mới đồng ý cho Phương diện quân rút lui và bỏ Kiev thì đã quá muộn. Ngày 15 tháng 9, tại Lokhvitsa, với ưu thế vượt trội về xe tăng, tập đoàn quân xe tăng 1 của tướng Paul Kleist từ Tây Nam đánh lên và tập đoàn quân xe tăng số 2 của tướng Guderian từ Tây Bắc đánh xuống đã hợp điểm tại các thị trấn Romny (Ромны) và Lokhvitsa. Các tập đoàn quân 5, 26, 37 và một bộ phận các tập đoàn quân 21 và 38 bị bao vây ở Đông Kiev trong một khu vực mặt trận hình bầu dục kéo dài từ Bắc xuống Nam. Tuy nhiên, họ không chịu hạ vũ khí. Sư đoàn biên phòng 4 (thuộc Bộ Nội vụ Liên Xô) do đại tá F. M. Mazhirin chỉ huy, đơn vị cuối cùng ở lại Kiev đã phá các cây cầu Petrovsski, Bosh, Navonisky, Darnitsa để ngăn chặn quân Đức. Ngày 19 tháng 9 năm 1941, Kiev thất thủ. Lợi dụng vòng vây của quân Đức còn có chỗ bị đứt đoạn, nhiều trận đột kích phá vây đã được các tập đoàn quân, quân đoàn, sư đoàn, thậm chí cả các tiểu đoàn tổ chức. Trong khi tham gia các trận đột kích phá vây, ngày 20 tháng 9, thiếu tướng V. I. Tupikov, tham mưu trưởng phương diện quân tử thương trong chiến đấu tại làng Opdiepka; thượng tướng M. P. Kirponos, tư lệnh phương diện quân bị trúng đạn cối của quân Đức và tử thương. Ngày 23 tháng 9, các ủy viên hội đồng quân sự phương diện quân: chính ủy sư đoàn E. P. Rykov, Bí thư Trung ương Đảng Cộng sản Ukraina M. A. Burmistenko bị quân Đức bắt và xử bắn. Tướng M. I. Potapov (tư lệnh tập đoàn quân 5) bị quân Đức bắt làm tù binh. Đến cuối tháng 9, số quân Liên Xô thoát vây về đến tuyến phòng ngự của Phương diện quân Tây Nam (tái lập, do nguyên soái S. M. Timoshenko chỉ huy) gồm có: quân đoàn kỵ binh 5 (tập đoàn quân 26), các quân đoàn 15, 31 bộ binh (tập đoàn quân 5), các sư đoàn 117, 187, 219 (tập đoàn quân 21). Trong số các tươớg lĩnh thoát vây có trung tướng F. I. Kostenko, tư lệnh tập đoàn quân 26; trung tướng M. A. Paksegov, chủ nhiệm pháo binh, thiếu tướng N. X. Petukhov, tư lệnh lực lượng phòng hoá; thiếu tướng Dobykin, chủ nhiệm thông tin, thiếu tướng V.T.Vonsky, chủ nhiệm tăng - thiết giáp, thiếu tướng Paniukhov, chủ nhiệm ô tô, xe máy, thiếu tướng I. K. Bagramian, trưởng phòng tác chiến, thiếu tướng A. I. Danilov, phó chủ nhiệm phòng không của Phương diện quân và 12 tư lệnh sư đoàn.

Kết quả, đánh giá và ảnh huởng

Trận Kiev đẫm máu có thể được xem là chiến thắng vinh quang nhất của Hitler và Nhà nước phát xít Đức trong cuộc Chiến tranh Xô-Đức, cũng như một thảm bại kinh hoàng nhất của Liên Xô thời bấy giờ và là một trong những thắng lợi lớn nhất của Đức trong cuộc Chiến tranh thế giới thứ hai, với việc các Tập đoàn quân Liên Xô bị tiêu diệt và con đường rộng mở cho người Đức xâm chiến vùng Ukraina giàu có. Tù binh Liên Xô rất đông, song rất ít người còn sống sót khi chiến tranh kết thúc.

Với sự tan nát của hệ thống phòng ngự Liên Xô, xem ra quân Đức đã có thể tiến thẳng tới Moskva. Tuy nhiên, những chiến quả của Quân đội Đức tại hướng Tây Nam Liên Xô cũng có những mặt trái của nó. Quân Đức thắng lợi nhưng tổn thất cũng cao. Do việc phải rút bớt cánh phải của Cụm tập đoàn quân Trung tâm để phối hợp với cánh trái của Cụm tập đoàn quân Nam tiêu diệt Phương diện quân Tây Nam của Liên Xô, quân đội Đức đã để lỡ thời cơ thực hiện chiến lược đánh nhanh, thắng nhanh trên hướng Moskva. Việc Phương diện quân Tây Nam duy trì được sức phòng thủ và phản đột kích trong vòng gần ba tháng tại Ukraina đã làm cho kế hoạch Barbarossa của Bộ chỉ huy tối cao Đức không thể thực hiện suôn sẻ. Chiến sự tại đây đã thu hút một phần rất lớn binh lực của Đức trong một thời gian đủ lâu, cho phép Liên Xô tranh thủ quãng thời gian quý báu đó để huy động đủ lực lượng dự bị cho chiến cục mùa đông 1941-1942. Thành thử, tuy giành một thắng lợi tác chiến vang dội nhưng người Đức đã không còn bất kỳ cơ hội nào để tiêu diệt Liên bang Xô viết, dù ở Đức khi ấy gần như chưa có ai nhìn nhận khía cạnh của thắng lợi cuối cùng của Liên Xô, mà họ chỉ chú tâm đến vấn đề quân Đức sẽ chinh phạt Đông Âu trong vòng bao lâu ?.

Đánh giá

Trận Kiev được đánh giá như một trong những vận động quân sự vĩ đại nhất mọi thời đại, cũng như là đỉnh cao của những thắng lợi lớn và dồn dập của Đức Quốc xã trong giai đoạn đầu cuộc Chiến tranh Xô-Đức.

Nguyên nhân tiếp theo thuộc về sự bị động, chờ đợi của Bộ tư lệnh các tập đoàn quân, các quân đoàn, sư đoàn thuộc hai phương diện quân Tây Nam và Nam trong những ngày đầu chiến tranh. Khi đó có những chứng cứ rõ ràng qua hoạt động trinh sát quân sự về việc quân đội Đức tập trung xong lực lượng để tấn công và trên thực tế đã mở các tuyến đường qua bãi mìn, dọn vật cản, chuyển quân ra tuyến trước và bắt đầu tấn công nhưng đến phút cuối cùng, họ vẫn chờ đợi một mệnh lệnh từ cấp trên mà không chuyển đơn vị vào ngay tư thế sẵn sàng chiến đấu.

Một nguyên nhân nữa làm cho việc chỉ huy tác chiến bị rối loạn là hành động hăng hái thái quá và bất hợp lý và của các tư lệnh tập đoàn quân và quân đoàn. Đáng lẽ phải từ sở chỉ huy của mình để ra các mệnh lệnh tổ chức tác chiến thì họ xuống đơn vị đang chiến đấu ác liệt nhất và nắm quyền chỉ huy tại đó. Làm như vậy, họ đã để mất vai trò chỉ huy đối với toàn bộ các đơn vị và địa bàn được phân công phụ trách, không nắm được tình hình của các đơn vị khác dưới quyền, mất liên lạc với cấp trên, với các đơn vị đồng đội ở hai bên sườn. Hành động đó cũng hạn chế vai trò chủ động của thủ trưởng đơn vị cấp dưới mà họ đang có mặt nhưng cũng đẩy các thủ truởng cấp dưới khác vào thế lúng túng do không liên lạc được với cấp trên. Không có sự chỉ huy thống nhất, các đơn vị này phải tự suy xét và xoay xở theo tình huống chỉ ở trên tuyến mặt trận của mình, rất dễ gây tác hại cho các đơn vị khác.

Về chỉ đạo chiến lược, việc thành lập Bộ Tổng tư lệnh hướng Tây Nam đã làm việc chỉ huy phải thông qua khâu trung gian này và không trách khỏi chồng chéo, chậm chạp trong việc ra quyết định Tại mặt trận Ukraina, Phương diện quân Tây Nam vừa chịu sự chỉ huy của Bộ Tổng tư lệnh tối cao vừa chịu sự chỉ huy của Bộ Tổng tư lệnh hướng Tây Nam do nguyên soái S.M. Budyony (С.М Будённый) chỉ huy. Các bộ tư lệnh trung gian này có rất ít tác dụng và thường ra nhiều mệnh lệnh trái ngược do không nắm được tình hình, đồng thời mất nhiều thời gian để khẳng định mệnh lệnh chiến đấu và cũng không có quyền thay mặt Đại bản doanh để quyết định. Chính vì nguyên nhân này, các tập đoàn quân 6 và 12 của quân đội Liên Xô đã bị chậm trễ hai ngày để được phép rút lui khỏi "cái rọ" Uman và đã không thoát vây được. Ngay cả ngày 11 tháng 9, khi Tổng tư lệnh hướng Tây Nam Nguyên soái Budyony nhận thấy tình thế nguy ngập của Phương diện quân Tây Nam và đồng ý với đề nghị của Bộ Tư lệnh phương diện quân về việc rút quân thì I. V. Stalin vẫn ra lệnh với những lời lẽ nặng như chì: "Thôi, hãy chấm dứt việc tìm kiếm tuyến rút lui và phải tìm cách chống lại. Nếu không được phép của Đại bản doanh thì không được bỏ Kiev và không được phá các cầu. Hết." Đến ngày 19 tháng 9, quyết định bỏ Kiev của I. V. Stalin được đưa ra quá muộn và trở nên vô nghĩa khi các tập đoàn quân xe tăng 2 và 4 (Đức) đã bọc lưng Phương diện quân Tây Nam ở Romny. Có đến 3/4 lực lượng của năm tập đoàn quân thuộc Phương diện quân bị loại khỏi vòng chiến đấu sau đó ít ngày.

Điểm mạnh duy nhất của Quân đội Liên Xô mà quân đội Đức Quốc xã không thể khắc chế được là tinh thần chiến đấu. Ở Ukraina cũng giống như ở Belorussia, ở vùng ven Biển Đen cũng giống như ở Pribaltic, quân đội Liên Xô khi bị bao vây, bị lâm vào thế yếu vẫn thường chiến đầu đến cùng. Họ hơn hẳn đối thủ của mình ở chỗ coi thường cái chết, họ kiên trì chiến đấu cho đến khi bị giết. Mặc dù bị bao vây, bị dội bom từ trên không, họ vãn không bị tê liệt về tinh thần. Họ có thể giữ vững được một trận địa với chỉ dăm ba người. Lính Đức đã gặp phải một đối thủ hoàn toàn khác với mặt trận phía tây năm 1940.

Ý nghĩa quan trọng nhất của chiến cục mùa hè kéo dài hơn ba tháng tại Ukraina mà trọng tâm tác chiến là khu vực Kiev là Quân đội Liên Xô đã bằng nỗ lực lớn lao của mình chặn đứng âm mưu chiếm Ukraina trong một thời gian ngắn của quân đội Đức. Không những thế, họ còn thu hút về mình hai binh đoàn quan trọng của quân đội Đức trên hướng Tây, tạo điều kiện cho Bộ Tổng tư lệnh tối cao, các Phương diện quân Tây, Dự bị và Bryansk có thêm thời gian chuẩn bị cho chiến dịch phòng ngự phản công Moskva. Mặc dù chịu thiệt hại lớn về người và phương tiện, gần như mất cả một Phương diện quân nhưng Quân đội Liên Xô tại mặt trận Tây Nam đã làm tiêu hao đáng kể bốn tập đoàn quân hùng mạnh của quân đội Đức, ổn định tạm thời mặt trận Tây Nam trong mùa đông 1941-1942 và tiến hành hai trận phản công thắng lợi tại Rostov và Eletch (???) chỉ hai tháng sau đó.

Về quân đội Đức Quốc xã

Do chiến trường được dự kiến là các vùng thảo nguyên và đồng bằng Ukraina tương đối bằng phẳng, Cụm tập đoàn quân Nam của Đức bố trí các sư đoàn xe tăng trong biên chế các tập đoàn quân dã chiến. Khác với các quân đoàn và sư đoàn Liên Xô thường được tổ chức theo kiểu binh chủng hợp thành (trừ không quân); các sư đoàn, quân đoàn, thậm chí là tập đoàn quân của quân đội Đức Quốc xã được tổ chức chuyên môn hóa cao. Một tập đoàn quân xe tăng Đức thường bao gồm 2 quân đoàn xe tăng và 1 quân đoàn bộ binh cơ giới. Ngược lại, một tập đoàn quân dã chiến Đức thường gồm hai quân đoàn bộ binh và một quân đoàn cơ giới hỗn hợp với một sư đoàn xe tăng và hai sư đoàn cơ giới. Việc sử dụng rộng rãi xe tăng và xe bọc thép đã tạo cho quân đội Đức Quốc xã những "quả đấm thiết giáp mạnh". Khi phối hợp với không quân oanh tạc, xe tăng Đức có sức mạnh đột kích với ưu thế áp đảo.

Ngoài những ưu thế ban đầu về người và phương tiện chiến tranh, các tư lệnh tập đoàn quân của Cụm tập đoàn quân Nam (Đức) đã biết khoét sâu những điểm yếu của Quân đội Liên Xô còn hoàn toàn chưa được chuyển trạng thái từ thời bình sang thời chiến. Họ tích cực sử dụng các trận trinh sát chiến đấu để phát hiện những chỗ mỏng yếu trên tuyến phòng ngự không liên tục của Quân đội Liên Xô và tung lực lượng xe tăng đột kích vào các "khoảng trống" đó. Đặc điểm mới mẻ về chiến thuật của Cụm tập đoàn quân Tây Nam (Đức) là hạn chế dùng pháo binh để mở trận mà phát huy ưu thế to lớn của không quân oanh tạc. Các máy bay ném bom được sử dụng rộng rãi để chế áp các tuyến phòng ngự của Quân đội Liên Xô trước khi dùng bộ binh cơ giới và xe tăng tấn công và nhanh chóng vây bọc các đơn vị Liên Xô hầu như không được không quân yểm hộ.

Những ưu thế đó chỉ phát huy được trong vài tuần đầu của cuộc chiến. Sức chống cự mạnh không ngờ của quân đội Liên Xô đã không tho phép Bộ tư lệnh Đức đạt được mục tiêu là trong một chiến cục ngắn, thực hiện hợp vây và tiêu diệt quân đội Liên Xô ở phía tây sông Dniev, không cho các lực lượng này rút sâu vào nội địa. Từ tháng 7 trở đi, Cụm tập đoàn quân Nam phải thay đổi chiến thuật. Các thống chế Gerd von Rundstedt và Walther von Reichenau đã không vội vã tấn công trước các binh đoàn cơ giới và bộ binh Liên Xô được tổ chức phòng ngự có chiều sâu trên mặt trận Ukraina. Các tướng lĩnh chỉ huy các tập đoàn quân thường chọn giải pháp đi vòng qua các khu phòng thủ kiên cố và vây bọc các đơn vị Liên Xô thường sa vào thế trận phòng ngự bị động và tiếp tục phát huy lợi thế về xe tăng, cơ giới. Chiến thuật này của họ đã thu được hiệu quả là làm suy yếu dần dần các đơn vị Liên Xô. Thế nhưng, các tướng lĩnh trong Bộ Tổng tham mưu quân đội Đức hùa theo thuyết đánh nhanh, thắng nhanh của Hitler lại không hiểu điều này và thường xuyên phê phán Cụm tập đoàn quân Nam tiến quân quá chậm chạp. Chỉ khi bằng chiến thuật đánh tiêu hao này phát huy hiệu quả trong hai trận hợp vây ở Uman và Đông Kiev, những lời phê phán này của các sĩ quan tham mưu Đức ở hậu phương mới tắt dần.

Vì chính chiến thuật này lại mâu thuẫn với phương châm đánh nhanh thắng nhanh nên việc chậm đánh bại Phương diện quân Tây Nam của Liên Xô đã làm cho Adolf Hitler phải điều chỉnh lại kế hoạch Barbarossa vào ngày 17 tháng 8 là ngừng tấn công trên hướng Smolensk - Moskva và điều tập đoàn quân xe tăng 2 cùng tập đoàn quân dã chiến 2 tiến về hướng Romny để phối hợp với tập đoàn quân xe tăng 1 và tập đoàn quân dã chiến 6 hợp vây Phương diện quân Tây Nam (Liên Xô). Sau này có nhiều ý kiến cho rằng, quyết định của Adolf Hitler phái một nửa lực lượng của cụm tập đoàn quân Trung tâm xuống phía nam tiêu diệt Kiev đã bỏ lỡ cơ hội đánh chiếm Moskva trước mùa đông. Tuy nhiên, theo nguyên soái G.K. Zhukov của Liên Xô thì quyết định này là đúng đắn cho quân Đức và sẽ phải xảy ra theo đúng quy luật quân sự và tình thế chiến trường khi đó. Một trong những nguyên nhân đơn giản là quân đội Đức cho dù rất mạnh nhưng cũng vẫn không đủ lực lượng để tổng tấn công trên tất cả các hướng chiến lược cùng một lúc. Điều này lại càng không thể thực hiện được do sau hai tháng chiến tranh, Liên Xô đã kịp động viên lực lượng dự bị của mình trong khi lực lượng dự bị của quân Đức từ các Tây Âu, Đông Âu và nội địa nước khác phải mất gấp đôi thời gian mới có thể tiếp cận chiến trường. Tóm l

👁️ 2 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Trận Kiev năm 1941** là trận công kích lớn thứ ba của Đức Quốc Xã vào mặt trận Tây Nam của Hồng quân Liên Xô (ngả qua Urkraina) trong Chiến dịch Barbarossa, sau Trận Dubno
**Trận Kiev (1943)** là một trong các trận đánh quan trọng nhất của chuỗi Chiến dịch Tả ngạn sông Dniepr. Từ ngày 24 tháng 9 đến ngày 24 tháng 12 năm 1943, trên toàn bộ
**Trận Moskva** là một trong những trận đánh lớn nhất trong Chiến tranh Xô-Đức và Thế chiến thứ hai vào cuối năm 1941 và đầu năm 1942. Với quân số và vũ khí tham chiến
**Chiến dịch Kharkov (1941)**, theo cách gọi của Wilhelm Keitel là **Trận Kharkov lần thứ nhất**, còn theo lịch sử của Nga là **Chiến dịch phòng thủ Sumy-Kharkov**, diễn ra từ ngày 1 tháng 10
Các sự kiện quân sự ở Mặt trận phía Đông trong Chiến tranh thế giới thứ hai. Các mốc thời gian ghi theo năm - tháng - ngày. ## 1941 * 1941-06-22 Chiến dịch Barbarossa
**Chiến tranh Xô–Đức 1941–1945** là một cuộc chiến giữa Liên Xô và Đức Quốc xã trong Thế chiến thứ hai, trải dài khắp Bắc, Nam và Đông Âu từ ngày 22 tháng 6 năm 1941
**Trận Uman** là một phần Chiến dịch Barbarossa trong giai đoạn đầu của Chiến tranh Xô-Đức, diễn ra từ ngày 15 tháng 7 đến ngày 10 tháng 8 năm 1941 diễn ra tại thành phố
**Chiến dịch Krym – Sevastopol (1941–1942)** bao gồm toàn bộ các trận chiến đấu của quân đội Xô Viết và quân đội Đức Quốc xã cùng với quân Romania tại bán đảo Krym từ tháng
**Trận Dubno-Lutsk-Brody** (một số tên khác là **Trận Brody**, **Trận Dubna**, **Trận Dubno**) là một trong những trận đánh xe tăng lớn nhất trong Chiến tranh Xô-Đức. Trận đánh diễn ra giữa các sư đoàn
**Thảm sát Babyn Jar** (, **_Babiy Yar_**; , **_Babyn Yar_**) là cuộc thảm sát của Đức Quốc xã đưa tới cái chết của hơn 33.000 người Do Thái tại hẻm núi Babyn Jar trong khu
**Trận sông Dniepr** là một chuỗi các chiến dịch tấn công chiến lược của Quân đội Liên Xô trong giai đoạn mở đầu cho thời kỳ thứ ba của cuộc chiến tranh Xô-Đức, đồng thời
**Trận Białystok – Minsk** là một chiến dịch tấn công chiến lược do Cụm Tập đoàn quân Trung tâm của Đức thực hiện nhằm chọc thủng các phòng tuyến biên giới của Liên Xô trong
**Cuộc bao vây Leningrad** là cuộc phong tỏa quân sự của quân đội Đức Quốc xã đối với thành phố Leningrad (hiện nay là Sankt-Peterburg), đồng thời là cuộc phòng thủ dài ngày nhất trong
**Chiến dịch Rostov năm 1941** là trận phòng ngự-phản công tại vùng Rostov trên sông Don của Quân đội Liên Xô. Đây là một trận đánh quan trọng trên khu vực phía Nam chiến trường
**Trận phòng thủ Luga** diễn ra từ ngày 6 tháng 8 đến giữa tháng 9 năm 1941 là một trong các trận đánh ác liệt nhất tại mặt trận Tây Bắc Liên Xô trong giai
**Trận phòng thủ Odessa** là một trận đánh giữa Hồng quân Liên Xô với quân đội Đức Quốc xã và đồng minh Romania diễn ra trong giai đoạn đầu của chiến tranh Xô-Đức. Theo kế
430x430px|thumb ## Sự kiện ### Tháng 1 * 13 tháng 1: Binh biến Đô Lương. * 28 tháng 1: Nguyễn Ái Quốc về nước trực tiếp lãnh đạo cách mạng Việt Nam. ### Tháng 2
**Trần Duy Long** (sinh năm 1941 tại Nam Định) là một cựu cầu thủ bóng đá Việt Nam và là huấn luyện viên trưởng đội tuyển bóng đá quốc gia Việt Nam giai đoạn 1994-1997.
**Chiến dịch tấn công hữu ngạn Dniepr** ở Ukraina (1944), hay còn được gọi là **Chiến dịch tấn công Dniepr–Carpath**, kéo dài từ ngày 24 tháng 12 năm 1943 đến ngày 14 tháng 4 năm
**Phương diện quân Tây Nam** (tiếng Nga: _Ю́го-За́падный фро́нт_) là một tổ chức tác chiến chiến lược của Hồng quân Liên Xô trong Thế chiến thứ hai. Địa bàn tác chiến của phương diện quân
**Sergey Sergeyevich Varentsov** (; , Dmitrov, tỉnh Moskva - 1 tháng 3 năm 1971, Moskva) là một tướng lĩnh cao cấp của quân đội Liên Xô, Chánh nguyên soái Pháo binh (6 tháng 5 năm
nhỏ|phải|Biểu tượng trên các máy bay của Liên Xô trong Thế chiến thứ hai Khi Chiến tranh thế giới thứ hai bùng nổ, Không quân Liên Xô chưa có các đơn vị được trang bị
phải|thumb|Quân X đang bị quân V bao vây trên một khu vực. **Bao vây** là một thuật ngữ quân sự, chỉ tình hình khi một lực lượng quân sự tại một vị trí bị cô
**Tập đoàn quân thiết giáp số 4** () là một binh đoàn xe tăng Đức trong Chiến tranh thế giới thứ hai. Là thành phần thiết giáp quan trọng của Wehrmacht, Tập đoàn quân đã
**Chiến dịch Barbarossa** (), còn được gọi là **Cuộc xâm lược của Đức vào Liên Xô** là mật danh của chiến dịch xâm lược Liên Xô do Quân đội Đức Quốc xã tiến hành trong
**Thành phố Anh hùng** (tiếng Nga: город-герой, _gorod-geroy_) là một danh hiệu vinh dự được Đoàn Chủ tịch Xô viết Tối cao Liên bang Xô viết trao tặng cho 12 thành phố đã có những
**Khu liên hợp thể thao quốc gia Olimpiyskiy** (còn được gọi là **Sân vận động Olympic**; ) là một khu liên hợp thể thao đa năng ở Kiev, Ukraina, nằm ở trên sườn đồi Cherepanov
Quân kỳ của Quân đội Đức quốc xã**Lịch sử quân sự Đức trong Chiến tranh thế giới thứ hai** bắt đầu từ quân số 100.000 do Hòa ước Versailles hạn chế, không được quyền có
Kế hoạch Barbarossa là văn kiện quân sự-chính trị có tầm quan trọng đặc biệt do Adolf Hitler và các cộng sự của ông trong Đế chế Thứ Ba vạch ra. Nằm trong chiến lược
**Ivan Khristoforovich Bagramyan** (tiếng Nga: _Иван Христофорович Баграмян_) hay **Hovhannes Khachatury Baghramyan** (tiếng Armenia: _Հովհաննես Խաչատուրի Բաղրամյան_) (sinh ngày 2 tháng 12, lịch cũ ngày 20 tháng 11, năm 1897, mất ngày 21 tháng 9
**Dmitry Grigoryevich Pavlov** (tiếng Nga: _Дми́трий Григо́рьевич Па́влов_; 1897-1941) là một Đại tướng Liên Xô trong giai đoạn đầu của Chiến tranh Vệ quốc vĩ đại. Ông từng được phong danh hiệu Anh hùng Liên
**Konstantin Konstantinovich Rokossovsky** (tiếng Nga: Константин Константинович Рокоссовский, tiếng Ba Lan: _Konstanty Rokossowski_), tên khai sinh là _Konstantin Ksaveryevich Rokossovsky_, (21 tháng 12 năm 1896 – 3 tháng 8 năm 1968) là một chỉ huy
**Holocaust ở Ukraina** diễn ra ở vùng Ukraina bị Đức Quốc Xã xâm chiếm trong Chiến trang Thế giới thứ hai. Từ năm 1941 đến 1944, khoảng 900,000 đàn ông, phụ nữ và trẻ con
**Pyotr Semyonovich Klyonov** (; 1894-1942) là một tướng lĩnh Hồng quân Liên Xô trong thời kỳ đầu Chiến tranh Vệ quốc vĩ đại, hàm Trung tướng (1940). ## Tiểu sử Klyonov sinh ngày 4 tháng
**Mykhailo Oleksiyovych Burmystenko** (; 22 tháng 11 năm 1902 - 20 tháng 9 năm 1941), hoặc **Mikhail Alekseyevich Burmistenko** () trong tiếng Nga, là một chính khách người Ukraina và Liên Xô, từng là Chủ
**Chiến dịch Barvenkovo–Lozovaya** (Lozova) (được Thống chế Đức Wilhelm Bodewin Gustav Keitel gọi là **Trận Kharkov lần thứ hai**) là một hoạt động quân sự lớn của quân đội Liên Xô và quân đội Đức
**Anh hùng Liên bang Xô viết**, gọi tắt là **Anh hùng Liên Xô** (tiếng Nga: Герой Советского Союза, _Geroy Sovyetskovo Soyuza_) là danh hiệu vinh dự cao nhất của Chủ tịch đoàn Xô viết Tối
thumb|Ảnh thành phố và nhà máy điện hạt nhân Chernobyl từ trạm Mir, 1997 **Chernobyl** (, , ), còn được gọi là **Chornobyl** (; ), là một thành phố bị bỏ hoang một phần trong
**Chiến dịch Blau** (tiếng Đức: **_Fall Blau_**) là mật danh của Kế hoạch tổng tấn công từ mùa hè năm 1942 của quân đội Đức Quốc xã trên toàn bộ cánh Nam của mặt trận
**Chiến dịch Khalkhyn Gol** (trong một số tài liệu gọi là Halhin Gol) (Tiếng Nga: бои на реке Халхин-Гол; Tiếng Mông Cổ:Халхын голын байлдаан; Tiếng Nhật: ノモンハン事件 _Nomonhan jiken_ — Sự kiện Nặc Môn Khâm
**Tập đoàn quân 28** là một đơn vị quân sự chiến lược cấp tập đoàn quân của Hồng quân Liên Xô. Hình thành ba lần trong giai đoạn 1941-1942, đơn vị này hoạt động tích
**Aleksey Semyonovich Zhadov** (; 1901-1977), họ khai sinh là **Zhidov** () là một tướng lĩnh Hồng quân Liên Xô trong Chiến tranh Vệ quốc vĩ đại, Anh hùng Liên Xô. Ông từng chỉ huy Tập
**Leonid Aleksandrovich Govorov** (tiếng Nga: _Леонид Александрович Говоров_) (22 tháng 2 năm 1897 – 19 tháng 3 năm 1955) là một chỉ huy cao cấp của Hồng quân Liên Xô trong Thế chiến thứ hai,
**Tập đoàn quân binh chủng hợp thành Cận vệ số 58** (Nga: _58-я гвардейская общевойсковая ордена Суворова армия_) là một đơn vị quân sự chiến lược cấp tập đoàn quân của Lục quân Nga, thuộc
**Tập đoàn quân 27** là một đơn vị quân sự chiến lược cấp tập đoàn quân của Hồng quân Liên Xô, hoạt động trong thời gian Chiến tranh thế giới thứ hai. ## Thành lập
**Ivan Stepanovich Koniev** (tiếng Nga: _Иван Степанович Конев_; đọc là **Ivan Xtêphanôvích Cônhép**; 28 tháng 12 năm 1897 - 21 tháng 5 năm 1973) là một chỉ huy cao cấp của Hồng quân Liên Xô
**Kyivo-Pechers'ka Lavra** hoặc **Kiev Pechersk Lavra** (; ) còn được gọi là **Tu viện các hang động Kyiv** là một tu viện Cơ đốc Chính thống giáo Đông phương lịch sử nằm tại huyện Pechersk
**Phương diện quân Trung tâm** (tiếng Nga: _Центральный фронт_) là một tổ chức tác chiến chiến lược của Hồng quân Liên Xô trong Thế chiến thứ hai. ## Lịch sử ### Thành lập Phương diện
**Ngày Chiến thắng** là ngày lễ kỷ niệm chiến thắng của Liên Xô trước Đức Quốc xã vào năm 1945. Ngày lễ này được tổ chức lần đầu tiên tại 15 nước cộng hòa thuộc
**Grigory Mikhailovich Shtern** (; - 28 tháng 10 năm 1941) là một tướng lĩnh Hồng quân Liên Xô, cố vấn quân sự phe Cộng hòa trong Nội chiến Tây Ban Nha. Ông cũng phục vụ