✨Chiến tranh Liên Xô – Phần Lan
Chiến tranh Mùa đông (, , ) hay Chiến tranh Liên Xô-Phần Lan 1939-1940 là cuộc chiến giữa Liên Xô và Phần Lan do tranh chấp lãnh thổ tại vùng Karelia. Nó diễn ra vào thời kỳ đầu của Chiến tranh thế giới thứ hai, khi quân đội Đức đã tràn vào Áo, Tiệp Khắc, và sau đó là Ba Lan.
Cuộc chiến tranh ngắn nhưng khốc liệt này do lo ngại Phần Lan sẽ đứng cùng phe với Đức Quốc xã (đặc biệt là khi cố đô Leningrad chỉ cách biên giới Phần Lan thời đó 32 km). Chính phủ Phần Lan đã từ chối những yêu cầu này, dẫn tới việc Stalin huy động Hồng quân tấn công vào lãnh thổ Phần Lan. Một số sử gia cho rằng Liên Xô có ý định chiếm đóng hoàn toàn Phần Lan và dựng lên một chính quyền thân Liên Xô ở đây , trong khi một số khác lại bác bỏ quan điểm này, người Nga thì cho rằng cuộc chiến là một nỗ lực của Liên Xô nhằm khôi phục chủ quyền lãnh thổ, khi nước Nga Xô viết đang rối loạn vì nội chiến nên đã phải cắt nhượng những vùng lãnh thổ đáng kể cho Phần Lan vào năm 1920.
Quân Phần Lan đã chiến đấu tốt và gây cho Hồng quân một vài thất bại, giúp động viên tinh thần người Phần Lan. Nhưng sau 100 ngày quyết chiến, họ thất trận và phải nhượng lại một phần của Tây Karelia cho Liên bang Xô viết. Đây cũng được xem là một chiến thắng đắt giá của Liên Xô, bất chấp sự xem nhẹ ban đầu của nhà lãnh đạo tối cao Iosif Vissarionovich Stalin và Nguyên soái Kliment Yefremovich Voroshilov đối với quân Phần Lan. Những sai lầm chiến thuật của Hồng quân, cũng như chiến thuật tốt của quân Phần Lan
Sau Cách mạng tháng Mười (1917), đế quốc Nga và chế độ Nga hoàng sụp đổ. Ngày 6 tháng 12 năm 1917, Phần Lan chính thức tuyên bố độc lập, trở thành một nước cộng hòa. Đầu năm 1918, 3 tuần sau khi Phần Lan tuyên bố độc lập, Lenin và nhà nước Công nông của Nga đã tuyên bố công nhận nền độc lập của Phần Lan. Trung tướng Phần Lan Öhquist-Harald Bộ trưởng Quốc phòng Liên Xô, Nguyên soái Voroshilov
Từ thập niên 1930, Phần Lan đã từ chối tham gia bất kỳ một tổ chức quốc tế nào nhằm bảo đảm cho sự trung lập của mình. Tuy nhiên, quan hệ giữa Liên Xô và Phần Lan vẫn căng thẳng. Phần Lan trợ giúp các phần tử đòi ly khai ở Đông Karelia, trong khi Liên Xô hậu thuẫn cho những người cộng sản Phần Lan có ý định làm cách mạng lật đổ chính phủ tư sản Phần Lan.
Nguyên nhân chiến tranh do Liên Xô muốn trao đổi phần đất Karelia gần Leningrad nhằm bảo vệ thành phố này với phần đất khác với Phần Lan nhưng Phần Lan từ chối đề nghị. Karelia được chia làm 2 phần thành lãnh thổ, phần Đông Karelia thuộc Nga kể từ hiệp ước Stolbov năm 1617 và phần Tây Karelia mà Phần Lan đánh chiếm được vào năm 1921 (được Sa hoàng cho sáp nhập vào Đại công quốc Phần Lan kể từ khi Phần Lan vẫn còn thuộc Đế quốc Nga).
Năm 1938-1939, Đức Quốc xã xâm chiếm Tiệp Khắc và Ba Lan, nguy cơ chiến tranh giữa Đức và Liên Xô đã cận kề. Mặt khác, mối liên hệ mật thiết giữa chính phủ Phần Lan với Đế quốc Đức trong cuộc chiến 20 năm trước khiến lãnh đạo Liên Xô lo ngại Phần Lan sẽ trở thành đồng minh của Đức để tấn công họ. Để đảm bảo an ninh vùng biên giới phía bắc (đặc biệt là thành phố Leningrad) và tìm đường thông ra biển, Liên Xô đã đặt ra các đề nghị đối với Phần Lan như sau:
Biên giới Phần Lan trên eo biển Karel phải lui về phía sau khoảng 100 km để đưa Leningrad ra khỏi tầm đại bác của đối phương (Đức và Phần Lan) bởi thành phố này chỉ cách biên giới 2 nước khoảng 20–30 km. Phần Lan nhượng lại một số đảo nhỏ ở sát Liên Xô trên Vịnh Phần Lan (Liên Xô e ngại rằng Đức sẽ đặt đại bác trên các đảo này để bắn vào Leningrad). Diện tích đất mà Phần Lan phải cắt đi là 2.000 km2, để đền bù sòng phẳng, Liên Xô sẽ nhượng lại một vùng đất lớn hơn (khoảng 5.000 km2) cho Phần Lan (phần đất này ở xa Leningrad nên ít nguy hiểm với Liên Xô hơn). Liên Xô được thuê cảng Petsamo, cảng duy nhất không bị đóng băng của Phần Lan ở biển Bắc Cực và cảng Hango trên đường vào vịnh Phần Lan để Nga dùng làm căn cứ hải quân và không quân. Thời hạn thuê là 30 năm, mỗi năm Liên Xô trả tiền thuê là 8 triệu mác Phần Lan (thực ra cảng Petsamo vốn thuộc chủ quyền của Nga, nhưng bị Phần Lan chiếm vào năm 1920)
Phần Lan chấp nhận hầu hết yêu cầu, nhưng khước từ tất cả những đề nghị cho thuê cảng Hango vì họ cho rằng với việc Liên Xô kiểm soát các vịnh then chốt, an ninh quốc gia của họ sẽ bị đe dọa. Những cuộc đàm phán diễn ra liên tục trong 6 tuần nhưng không đi đến thỏa thuận do không bên nào chịu nhượng bộ.
Đàm phán tan vỡ ngày 13 tháng 11, chính phủ Phần Lan bắt đầu ra lệnh tổng động viên. Ngày 28 tháng 11, Ngoại trưởng Liên Xô Vyacheslav Mikhailovich Molotov đơn phương hủy bỏ hiệp ước bất khả xâm phạm ký giữa Phần Lan và Liên Xô năm 1932 (có giá trị trong 10 năm) và quân Liên Xô tràn vào Phần Lan với lý do "quân Phần Lan bắn đại bác" sang lãnh thổ Liên Xô.
Ngày 1 tháng 12 năm 1939, tại Terijoki, một chính quyền thân Liên Xô với tên gọi là "Cộng hòa Nhân dân Phần Lan" đã được thành lập do Otto Wille Kuusinen, một chính trị gia người Phần Lan lãnh đạo Chính quyền Kuusinen bị phương Tây coi là "con bù nhìn" của Stalin. Tuy nhiên, chiến tranh đã không đi theo kế hoạch và các lãnh đạo Liên Xô đã quyết định đàm phán hòa bình với chính phủ Phần Lan còn Chính phủ Kuusinen đã được lặng lẽ giải tán sau đó.
Ngày 3 tháng 12 năm 1939, Phần Lan đã yêu cầu Hội Quốc Liên ra tuyên bố lên án cuộc tấn công của Liên Xô:
Tập đoàn quân số 7 của tướng Vsevolod Yakovlev (sau đó bị thay bằng tướng Kirill Meretskov), bao gồm 2 quân đoàn súng trường (tổng cộng 7 sư đoàn), 2 sư đoàn súng trường độc lập, một quân đoàn xe tăng và 3 lữ đoàn xe tăng, đóng trên eo đất Karelia. Mục tiêu của nó là thành phố Vyborg. Lực lượng này sau đó được chia thành các Tập đoàn quân số 7 và số 13.
Tập đoàn quân số 8 của tướng Ivan Nikitich Khabarov (sau này bị thay bằng tướng Grigory Mikhailovich Shtern, bao gồm hai quân đoàn (tổng cộng sáu sư đoàn bộ binh, một sư đoàn xe tăng, một lữ đoàn không quân oanh tạc), được bố trí ở phía bắc Hồ Ladoga. Nhiệm vụ của nó là thực hiện một cuộc điều động bên sườn quanh bờ phía bắc của Hồ Ladoga để tấn công vào phía sau của Phòng tuyến Mannerheim.:
Tập đoàn quân Eo đất bao gồm sáu sư đoàn dưới sự chỉ huy của Hugo Österman. Quân đoàn cơ giới II được bố trí ở cánh phải và Quân đoàn cơ sở III bố trí ở cánh trái.
Tập đoàn quân IV đóng ở phía bắc Hồ Ladoga. Nó bao gồm hai bộ phận do Juho Heiskanen chỉ huy, người sớm được thay thế bởi Woldemar Hägglund.
Cụm Bắc Phần Lan là một tập hợp của Bạch vệ, lính biên phòng và các đơn vị dự bị được soạn thảo do Wiljo Tuompo chỉ huy.
Diễn biến
thumb|alt=Các hướng tấn công của bốn đạo quân Liên Xô vào giai đoạn đầu cuộc chiến. Quân đội Liên Xô đã tiến sâu hàng trăm km vào trong lãnh thổ Phần Lan dọc 1340 km biên giới ngay trong tháng đầu tiên.|Các cuộc tấn công của bốn đạo quân Liên Xô giai đoạn từ 30-11 đến 22-12-1939 màu đỏ Xe tăng [[T-26 của Hồng quân Liên Xô ở mặt trận Karelia tháng 12/1939]]
Ngày 26 tháng 11 năm 1939, quân đội Liên Xô pháo kích làng Mainila, một ngôi làng của người Nga nằm gần biên giới với Phần Lan. Chính quyền Liên Xô đổ lỗi cho Phần Lan về vụ tấn công và sử dụng vụ việc này làm cái cớ để xâm chiếm Phần Lan. Chiến tranh mùa đông chính thức bùng nổ bốn ngày sau đó .
Liên Xô đã huy động số binh lính đông gấp 3 lần số lượng lính của Phần Lan, hơn 30 lần số lượng máy bay, gấp 100 lần số lượng xe tăng. Hồng quân đã bị thương tổn bởi cuộc thanh lọc chính trị của lãnh tụ Xô Viết Joseph Stalin 1937. Với hơn 30.000 sĩ quan của họ đã bị giam tù, xử bắn hoặc bị cách chức, trong số đó có cả những sĩ quan cao cấp nhất, nhiều sĩ quan cao cấp và trung cấp của Hồng quân 1939 không có nhiều kinh nghiệm. Vì những yếu tố này, quân đội Phần Lan đã có thể chống cự lâu hơn như phía Liên Xô mong đợi. Chỉ huy Liên Xô trong chiến dịch là Nguyên soái Kliment Yefremovich Voroshilov, một người nổi tiếng vì vai trò phụ tá hỗ trợ đắc lực cho Stalin trong hoạt động chính trị hơn là vì thành tích trên chiến trường. Dưới sự chỉ huy của những Sĩ quan cấp cao thiếu kinh nghiệm và dễ hiểu là hay lo lắng, Chính phủ này có trách nhiệm chỉ huy các hoạt động chống "các nhóm vũ trang phản động" tại Hensinki đang đàn áp nhân dân. Sau này người Nga còn dùng nhiều từ khác nhau để chỉ cuộc chiến như: "cuộc chiến không tuyên bố", "chiến dịch Phần Lan", "chiến dịch truy quét Bạch vệ Phần Lan" v.v... Nhưng khi chiến tranh bùng nổ, đa số người dân Phần Lan ủng hộ chính phủ hợp pháp ở Helsinki. Con đường chết Raate, xe tăng và binh sĩ Liên Xô bị quân Phần Lan phục kích và tiêu diệt Ban đầu người Nga tấn công chủ yếu vào công trình bố phòng trên biên giới Phần Lan ở eo biển Karel, bao gồm một vùng có công sự phòng ngự rộng khoảng 20 dặm chạy từ Bắc đến Nam. Tuy nhiên xe tăng Liên Xô thường xuyên vấp mìn của quân Phần Lan cài lại nên nhiều chiếc bị phá huỷ, còn binh sĩ Liên Xô bị vướng rào kẽm gai trong phòng tuyến của đối phương nên phơi mình cho các ổ súng máy bố trí khéo léo trong rừng. Quân đội Phần Lan với số lượng ít hơn, khoảng hơn 250.000, dựa vào địa hình quen thuộc và các công sự vững chắc đã chống trả quyết liệt. Họ chủ động rút lui nhử các binh đoàn Xô Viết với vũ khí hạng nặng vào sâu trong lãnh thổ. Khi quân Nga kéo sâu vào 30 dặm, người Phần Lan tổ chức phản công. Bị chặn lại tại các phòng tuyến Phần Lan được xây dựng trong rừng, ngày đêm bị tấn công dữ dội vào sườn, đường giao thông phía sau bị gián đoạn, các binh đoàn Nga phải rút lui về điểm xuất kích với tổn thất lớn.
Mùa đông năm 1939 có nhiệt độ âm 40-50 độ C, lạnh thứ hai kể từ năm 1828. Đây được xem là một trong mùa Đông khắc nghiệt nhất của thế kỷ 20. Tàn quân Liên Xô rút chạy về hậu cứ.
trái|Lính trượt tuyết Phần Lan tại mặt trận phía bắc ngày 12-1-1940 Thống kê trong các chiến dịch này Phần Lan đã tịch thu 288 xe tăng và 35 xe cơ giới các loại của Liên Xô bao gồm T-26, BT-5 và BT-7. 167 chiếc đã được trang bị lại cho các đội xe tăng lúc này còn nhỏ bé của Phần Lan.
Hồng quân rất lúng túng bởi nhiều vấn đề chưa lường hết: quân phục lính liên Xô có màu sẫm khiến họ dễ bị lộ trên tuyết, vấn đề liên lạc, vấn đề di chuyển trên các vùng đầm lầy Phần Lan, vấn đề lương thực, nhiên liệu và sưởi ấm trong nhiệt độ âm 40 độ C cho một đội quân nửa triệu... Tại eo đất Karelia, các đơn vị Nga gặp bão tuyết và bị kẹt trong các công sự bằng gỗ, nhiều người bị chết cóng. Các đoàn xe vận tải, xe tăng lao phải đầm lầy, mắc kẹt giữa sông băng cho tới tận mùa xuân mới chìm xuống đáy. Hàng đoàn xe bị bỏ giữa những con đường xuyên rừng. Phần Lan chiếm được 85 xe tăng, 437 xe tải, 36 xe kéo, 10 xe gắn máy, 1.620 ngựa, 92 pháo, 78 súng chống tăng, 13 pháo cao xạ và hàng ngàn súng trường, súng máy, nhiều kho đạn dược. nhỏ|Quân tình nguyện người Na Uy chiến đấu cùng Phần Lan năm 1940
Trong cuộc chiến này, quân đội Phần Lan đã sáng chế ra một loại vũ khí đặc biệt là Cocktail Molotov (hàm ý chế giễu Molotov-Ngoại trưởng Liên Xô lúc đó) hay còn gọi là chai xăng để chống lại những xe tăng hạng nhẹ, xoay trở chậm chạp, vỏ thép mỏng của Liên Xô đạt hiệu quả rất cao cũng như việc các binh sĩ Phần Lan mặc áo khoác trắng nguỵ trang trong tuyết để phục kích quân địch. Những kinh nghiệm này về sau đã được Liên Xô học lại trong Chiến tranh Xô-Đức dù Cocktail Molotov vì nhiều lý do đã không đạt hiệu suất tiêu diệt xe tăng Đức cao như những gì người Phần Lan đã làm với Liên Xô (do xe tăng Liên Xô tham chiến hầu hết là tăng hạng nhẹ T-26 dễ bị phá hủy, trong khi xe tăng Đức chủ yếu là xe tăng hạng trung hoặc hạng nặng). Khi kết thúc cuộc chiến Hồng quân Liên Xô bị thiệt hại 2.268 xe tăng, tương đương 9,2% số xe tăng Liên Xô có được năm 1939.
Cuộc tấn công trên bộ của 6 sư đoàn Hồng quân, được yểm hộ bởi 440 khẩu đại bác cỡ lớn (bắn 300.000 quả đạn trên phòng tuyến chỉ dài 1,6 km), cùng với 500 máy bay và hàng trăm xe tăng tại Hatjalahti và hồ Muolaa đã bị bẻ gãy. Hồng quân thiệt hại nặng, nhưng Stalin tiếp tục điều thêm 300.000 quân, trong suốt một tháng, các cuộc tấn công tiếp diễn tại hồ Ladoga, tại vịnh Phần Lan.
Trung uý [[Simo Häyhä cùng khẩu súng bắn tỉa M28]] Ngoài những trận đánh trực diện, quân Phần Lan còn sử dụng các tay bắn tỉa, mà trong đó nổi tiếng nhất là Simo Hayha (Simo Häyhä), người được quân Nga mệnh danh là Cái chết trắng (tiếng Nga: Белая Смерть, tiếng Anh: White Death, tiếng Phần Lan: Valkoinen kuolema). Sử dụng 1 khẩu súng trường Pystykorva và sau đó được tặng 1 khẩu súng tiểu liên Suomi M-31 SMG, anh được quân đội Phần Lan ghi nhận là đã hạ 505 quân địch trong suốt cuộc chiến (trong đó 259 là bằng súng trường bắn tỉa). Tuy nhiên, 1 tuần trước khi chiến tranh kết thúc, Simo Hayha đã bị một xạ thủ bắn tỉa Liên Xô bắn trọng thương và không thể chiến đấu tiếp được nữa.
Những thắng lợi phòng ngự của quân Phần Lan trong cuộc chiến đã lên dây cót cho tinh thần của binh lính. Trong khi đó, ở hậu phương, người Phần Lan trở nên tự tin rằng họ có khả năng đương đầu với cuộc chiến. Ngày 12 tháng 3 năm 1940 quân Liên Xô đổ bộ 2 sư đoàn (1 sư đoàn Liên Xô khoảng 8.000-9.000 người) lên Petsamo để tấn công 3 đại đội của Phần Lan với 400 quân. Tuyến phòng thủ phía bắc của quân Phần Lan bị chọc thủng, 3 đại đội quân Phần Lan phòng thủ ở đây bị tiêu diệt hoàn toàn. Ngày 26/2, sau khi đã hết sạch đạn dược và nhiên liệu, lương thực, quân Phần Lan buộc phải rút khỏi Koivisto. Ngày 12 tháng 3 năm 1940, chính phủ Phần Lan đã phải tuyên bố chấp thuận các điều kiện ban đầu của Liên Xô. Hai bên chấp nhận ngừng bắn. Sau 100 ngày quyết chiến Chiến tranh Liên Xô-Phần Lan và Mặt trận Phần Lan (Chiến tranh Xô-Đức) được xem là giai đoạn lịch sử được người nước ngoài biết đến nhiều nhất của Phần Lan., với 25.000 người chết, 55.000 bị thương, 450.000 người mất nhà cửa. Nước Phần Lan đã "chảy máu từ muôn nghìn vết thương".
Hồng quân Xô Viết đã không thực hiện được kế hoạch đề ra ban đầu và bị tổn thất lớn, do vậy vị thế của Liên Xô trên vũ đài quốc tế bị suy sụp. Có thể thấy, dù nhỏ bé và trang bị kém nhưng quân Phần Lan đã cầm chân Hồng quân trong suốt cuộc chiến (lâu hơn hẳn dự kiến của Liên Xô Trong khi người Phần Lan xem chiến tranh mùa đông là cuộc tranh đấu không còn lựa chọn nào khác để bảo vệ đất nước. Ngoài ra, vị thế quốc tế của Phần Lan cũng gia tăng. chiến tranh Mùa đông và Hòa ước đình chiến đã cứu Phần Lan khỏi việc mất tên hoàn toàn trên bản đồ thế giới.
Dù sao, Liên Xô đã có thể đoạt được các khu vực chiến lược nhằm củng cố phòng thủ đất nước và lấy thêm nhiều nhà máy, công trình của Phần Lan trên vùng đất mới Karelia Song, hậu quả trực tiếp của cuộc Chiến tranh Liên Xô-Phần Lan là sự cô lập của Liên Xô với các cường quốc, ngoại trừ Đức. Sau khi Liên Xô chiếm dải đất Karelia của Phần Lan, họ đã tạo được cái đệm quan trọng cho Leningrad
Một số sử gia phương Tây thì cho rằng các đòi hỏi về lãnh thổ chỉ là lý do Liên Xô dùng để ép Phần Lan vào "vòng ảnh hưởng" của mình sau khi đã ký hiệp ước không tấn công với Đức Quốc xã (Hiệp ước Xô-Đức) vào tháng 8 năm đó, có kèm theo một nghị định thư bí mật phân chia vùng ảnh hưởng tại Đông Âu, mà trong đó Phần Lan được đặt vào vùng ảnh hưởng của Liên Xô, được ký bổ sung. Hội Quốc Liên (gồm 2 thành viên chủ chốt là Anh và Pháp) đã lên án hành động của Liên Xô vào ngày 14 tháng 12 năm 1939 và trục xuất nước này ra khỏi tổ chức, cũng như kêu gọi các hội viên giúp đỡ Phần Lan bảo vệ đất nước.. Tuy nhiên, với việc thế chiến thứ hai đã nổ ra, quân Đức đã áp sát biên giới và Anh-Pháp đã từ chối lập liên minh chống Đức, việc bị trục xuất khỏi Hội Quốc liên (một tổ chức không có thực quyền) không còn là vấn đề khiến Liên Xô phải bận tâm khi so với việc họ cần làm để chuẩn bị cho cuộc đại chiến với Đức. Sau cuộc chiến, với các điểm yếu được bộc lộ, quá trình hiện đại hóa quân đội Liên Xô đã được đẩy nhanh tốc độ vào năm 1940-1941.
Bản thân nước Anh phản đối hành động của Liên Xô, nhưng chỉ 4 tháng sau, chính họ cũng đã đổ quân tấn công Iceland (một nước trung lập) để đảm bảo Đức sẽ không biến nước này thành bàn đạp tấn công Anh. Điều này cho thấy khi bị đe dọa nghiêm trọng, không chỉ Liên Xô mà bất kỳ một cường quốc nào cũng sẵn sàng tấn công một nước khác để bảo vệ sự an toàn của chính mình. Tuy nhiên đến năm 2013, Tổng thống Nga Vladimir Putin trong cuộc gặp mặt các nhà sử học quân sự, tuyên bố rằng việc Liên Xô phát động cuộc chiến tranh là chính đáng nhằm "sửa chữa sai lầm" khi tiến hành hoạch định biên giới với Phần Lan sau Cách mạng Tháng Mười năm 1917, khi mà nước Nga Xô viết mới thành lập còn rất non yếu nên đã phải cắt nhượng những vùng lãnh thổ đáng kể ở Karelia cho Phần Lan.
Âm nhạc
Năm 1942, nghệ sĩ Phần Lan Matti Jurva đã hát bài Njet Molotoff (Không Molotov) để lên án cuộc tấn công của Liên Xô.