✨Iosif Vissarionovich Stalin
Iosif Vissarionovich Stalin, hay Joseph Stalin (tên khai sinh: Ioseb Besarionis dze Jughashvili; – 5 tháng 3 năm 1953), là một nhà cách mạng, nhà chính trị và lý luận chính trị người Gruzia. Ông giữ chức Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Liên Xô giai đoạn 1922–1952 và Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Liên Xô giai đoạn 1941–1953. Về ý thức hệ, Stalin là người tin tưởng các diễn giải của Lenin đối với chủ nghĩa Marx, sau được ông hình thức hóa thành chủ nghĩa Marx-Lenin. Các chính sách do ông ban hành thường được gọi là chủ nghĩa Stalin.
Stalin sinh thành trong một gia đình dân tộc Gruzia bần cùng ở thị trấn Gori, tỉnh Tiflis thuộc Đế quốc Nga (nay là Gruzia). Năm 1901, ông gia nhập Đảng Lao động Dân chủ Xã hội Nga Marxist và làm biên tập viên cho tờ Pravda. Trong khoảng thời gian này, ông tài trợ hoạt động của cánh Bolshevik do V. I. Lenin dẫn đầu bằng nhiều thủ đoạn như: trộm cướp nhà băng Đế quốc Nga, bắt cóc tống tiền quý tộc và bảo kê thu phí các khu mỏ tư bản. Liên tục bị chính quyền bắt giữ, ông đã dành nhiều năm tháng đày đọa ở Siberia. Sau thắng lợi của Cách mạng Tháng Mười và sự thành lập nhà nước cộng sản đơn đảng vào năm 1917, Stalin được bổ nhiệm vào Bộ Chính trị Bolshevik. Ông phục vụ Hồng quân trong Nội chiến Nga và giám sát hiệp ước thành lập Liên Xô vào năm 1922. Sau khi Lenin qua đời, Stalin vươn lên thâu tóm quyền lực và áp đặt "chủ nghĩa xã hội trong một quốc gia" làm chủ thuyết của Đảng Cộng sản Liên Xô. Nhờ các kế hoạch 5 năm do ông chủ trương, Liên Xô đã thực hiện tập thể hóa nông nghiệp và công nghiệp hóa nhanh chóng, kiến thiết nền kinh tế tập trung do nhà nước hoạch định. Tuy nhiên, sự gián đoạn nghiêm trọng đối với chuỗi cung cấp thực phẩm đã gây ra nạn đói 1930–1933 ở Liên Xô. Bên cạnh đó, nhằm diệt trừ "kẻ thù của giai cấp công nhân", Stalin đã tiến hành Đại thanh trừng, theo đó khoảng một triệu người đã bị bắt tới các trại lao động khổ sai gọi là Gulag và ít nhất 700.000 người đã bị xử tử từ năm 1936 đến năm 1938.
Stalin truyền bá chủ nghĩa Marx–Lenin thông qua Quốc tế Cộng sản và hỗ trợ các phong trào chống phát xít ở Châu Âu hồi những năm 1930, đơn cử như trong Nội chiến Tây Ban Nha. Năm 1939, chế độ của ông ký kết hiệp ước không xâm phạm với Đức Quốc xã, đặt tiền đề cho cuộc xâm lược Ba Lan tiếp sau. Năm 1941, Đức bội ước và xâm lược Liên Xô, buộc Stalin phải gia nhập Khối Đồng minh với tư cách một trong ba lãnh đạo quyền lực nhất của khối này. Tuy thất bại trong giai đoạn đầu, Hồng quân Xô viết đã dần lấy lại đà thắng trước quân Đức và chiếm đóng Berlin vào năm 1945. Trong quá trình càn quét lãnh thổ địch, Liên Xô đã tiện thể sáp nhập các nước Baltic, Bessarabia và Bắc Bukovina, đồng thời dựng lên các chính phủ ủng hộ mình ở Đông–Trung Âu và một phần Đông Á. Với sự khép lại của Thế chiến II, Liên Xô và Hoa Kỳ trở thành hai siêu cường toàn cầu và bước vào giai đoạn căng thẳng mới gọi là Chiến tranh Lạnh. Stalin đảm trách công cuộc tái thiết Liên Xô thời kỳ hậu chiến và ủy nhiệm dự án phát triển bom hạt nhân vào năm 1949. Trong thời gian này, Liên Xô trải qua nạn đói lớn thứ hai và một làn sóng bài Do Thái lên tới cao trào trong Âm mưu bác sĩ. Sau khi Stalin qua đời vào năm 1953, nhà lãnh đạo mới của Liên Xô, Nikita S. Khrushchev, đã tố cáo chế độ cũ của người tiền nhiệm và khơi mào chính sách phi Stalin hóa mọi mặt đời sống xã hội Liên Xô.
Stalin được công nhận là một trong những nhân vật lịch sử cực kỳ quan trọng của thế kỷ 20. Ông là đối tượng của sự sùng bái cá nhân trong phong trào Marx-Lenin quốc tế, được tôn vinh là vị lãnh tụ xã hội chủ nghĩa đứng về phía nhân dân lao động. Kể từ khi Liên Xô giải thể vào năm 1991, Stalin vẫn giữ được tiếng tăm ở Nga và Gruzia vì nhân dân hai nơi đó xem ông như người có công đánh thắng phát-xít và đưa nước họ lên vị thế siêu cường. Dù vậy, chính quyền thời Stalin thường bị chỉ trích là toàn trị và bản thân Stalin cũng bị phê phán vì thực hiện nhiều chính sách tàn nhẫn như: áp bức chính trị, thanh lọc sắc tộc, trục xuất quy mô lớn, xử tử hàng loạt và trưng thu lương thực dẫn đến nạn đói nghiêm trọng.
Đầu đời
1878–1899: Tuổi thơ và thiếu thời
Stalin chào đời tại thị trấn Gori, Gruzia; bấy giờ là Tỉnh Tiflis thuộc Đế quốc Nga, ngôi nhà chung của các dân tộc Gruzia, Azerbaijan, Armenia, Nga, và Do Thái. Ông sinh ngày , và được rửa tội vào ngày 29 tháng 12 cùng năm. Tên khai sinh của ông là Ioseb Besarionis dze Jughashvili, hồi nhỏ còn được đặt biệt danh là "Soso", cách gọi yêu cái tên "Ioseb". Cha ông tên là Besarion Jughashvili, còn mẹ ông tên là Ekaterine Geladze. Stalin là người con duy nhất của cặp vợ chồng Geladze sống sót qua tuổi sơ sinh.
Besarion là thợ đóng giày làm thuê cho một công xưởng. Ban đầu thu nhập của ông khá khẩm song về sau sa sút, khiến gia đình rơi vào cảnh éo le. Besarion trở nên nghiện rượu, quay ra đánh đập vợ con. Stalin và mẹ Ekaterine bỏ nhà ra đi vào năm 1883, phiêu bạt đó đây, chuyển nơi sống tận chín lần trong vòng một thập kỷ tới. Năm 1886, họ ở nhờ nhà một người bạn, Cha Christopher Charkviani. Ekaterine giúp việc nhà để kiếm sống và mong muốn cho con trai đi học. Tháng 9 năm 1888, Stalin được nhận vào trường Giáo hội Chính thống Gori, nhờ sự giúp đỡ của Charkviani. Tuy hay ẩu đả với đồng lứa, Stalin học rất giỏi, bộc lộ năng khiếu vẽ vời và kịch nghệ, tự viết thơ, và thích hát bè cùng các bạn. Ngoài ra Stalin từng gặp nhiều vấn đề về sức khỏe: trận đậu mùa năm 1884 lưu lại trên mặt ông một vết sẹo; năm 12 tuổi thì bị đâm trọng thương bởi một cỗ xe ngựa phaeton, đây là lí do tay trái ông bị tê liệt suốt đời.
thumb|right|Năm 1894, Stalin bắt đầu học tại [[Chủng viện Tiflis (ảnh chụp khoảng năm 1870).]] Tháng 8 năm 1894, Stalin được nhận vào Chủng viện Tâm linh Chính thống giáo ở Tiflis. Do có trợ cấp, ông không phải trả một số khoản học phí. Ông nội trú ở đây cùng 600 chủng sinh mục sư, đạt điểm số khá cao trên lớp. Ông tiếp tục sáng tác thơ; năm bài trong số đó, viết về các chủ đề như thiên nhiên, đất nước và tư tưởng ái quốc, được xuất bản dưới bút danh "Soselo" và đăng trên báo Iveria (Gruzia) của Ilia Chavchavadze. Theo ký giả Simon Sebag Montefiore, chúng trở thành "những vần thơ Gruzia nhỏ song kinh điển", xuất hiện ở nhiều tuyển tập thơ Gruzia trong vòng vài năm tới. Lớn lên, Stalin mất hứng thú với việc học tôn giáo, khiến điểm số trên lớp sa sút. Theo một số nguồn, ông thường xuyên bị cấm túc vì hành vi nổi loạn ở trường.
Stalin tham gia một câu lạc bộ đọc sách cấm ở trường. Ông chịu ảnh hưởng rất lớn từ tiểu thuyết cách mạng Phải làm gì? (1863) của Nikolai G. Chernyshevsky và Kẻ giết bố của Alexander Kazbegi; trên thực tế, bí danh "Koba" về sau của Stalin bắt nguồn từ tên nhân vật chính trong tác phẩm này. Qua việc đọc, ông biết đến tác phẩm Das Kapital (1867) của Karl Marx và trở nên tin tưởng vào thuyết chính trị – xã hội Marxist bấy giờ đang khá thời thượng tại Gruzia; đây cũng là một trong những hình thức chủ nghĩa xã hội chống chế độ chuyên chế Sa hoàng. Vào mỗi buổi đêm, Stalin dự các cuộc họp bí mật của công nhân. Qua đó ông được giới thiệu với Silibistro "Silva" Jibladze, nhà Marxist sáng lập phái Mesame Dasi ("Nhóm thứ ba"). Sau một khoảng thời gian, Stalin rời chủng viện vào tháng 4 năm 1899 và không bao giờ ngoảnh lại.
1899–1904: Đảng Lao động Dân chủ Xã hội Nga
thumb|upright=0.8|left|Ảnh cảnh sát chụp Stalin khi ông 23 tuổi, năm 1902 Tháng 10 năm 1899, Stalin làm việc cho đài khí tượng Tiflis. Do khối lượng công việc không nhiều, ông dành những lúc rảnh rỗi để hoạt động cách mạng. Stalin thu hút một nhóm những người ủng hộ ông qua các lớp dạy lý thuyết xã hội chủ nghĩa. Ông bí mật chủ trì một cuộc họp công nhân vào ngày 1 tháng 5 năm 1900 và thuyết phục họ tổ chức biểu tình đình công. Tới thời điểm này, cục cảnh sát mật Okhrana đã biết về hành tung của Stalin trong tổ cách mạng tại Tiflis. Họ dự định bắt giữ ông vào tháng 3 năm 1901, nhưng ông tẩu thoát kịp thời, lẩn trốn và sống qua ngày nhờ khoản tiền do người thân chu cấp. Phải sống lẩn lút, ông góp sức lên kế hoạch cho một cuộc biểu tình công nhân vào ngày 1 tháng 5 năm 1901; tầm 3.000 người sau đó đã tham gia, đụng độ với lực lượng trị an của triều đình. Ông liên tiếp tránh né được các cuộc lùng sục gắt gao của chính quyền bằng cách dùng tên giả và nương náu ở nhiều căn hộ khác nhau. Tháng 11 năm 1901, ông được bầu vào Ủy ban Tiflis của Đảng Lao động Dân chủ Xã hội Nga (RSDRP), một chính đảng Marxist được thành lập vào năm 1898.
Cùng tháng, Stalin tới cảng thị Batum. Luận điệu chủ chiến của Stalin đã gây chia rẽ những người Marxist ở thành phố, một số thậm chí nghi ngờ ông là điệp viên hai mang của chính quyền Sa hoàng. Stalin tìm được việc làm tại nhà kho tinh luyện Rothschild, nơi ông đồng tổ chức hai cuộc đình công lớn. Sau khi các thủ lĩnh công nhân bị bắt, ông tiếp tục kích động một cuộc biểu tình quần chúng, xui khiến họ đột nhập vào nhà ngục địa phương; lần này quân lính xả súng vào đám đông biểu tình, khiến 13 người thiệt mạng. Stalin tổ chức một cuộc biểu tình nữa vào ngày tang lễ của họ, nhưng bị bắt giam vào tháng 4 năm 1902. Ban đầu ông bị tạm giữ trong nhà tù Batumi, rồi chuyển sang nhà tù Kutaisi, rốt cuộc giữa năm 1903 bị kết án ba năm phát lưu nơi biên viễn Siberia.
Stalin rời Batum vào tháng 10, bị thuyên chuyển tới thị trấn Novaya Uda cuối tháng 11 năm 1903. Ông sống trong một căn nhà nông dân, ngủ trong phòng trữ lương thực. Ông từng hai lần định tẩu thoát: lần đầu, ông chạy được tới Balagansk nhưng phải quay lại vì bỏng lạnh; lần hai, vào tháng 1 năm 1904, thì thành công và tới được Tiflis. Tại đây, ông cùng Philip Makharadze chủ bút tờ báo Marxist tiếng Gruzia Proletariatis Brdzola ("Cuộc đấu tranh của giai cấp vô sản"). Ông kêu gọi phong trào Marxist Gruzia mạnh dạn tách khỏi phong trào Marxist Nga; điều mà đã khiến một số đảng viên RSDRP cáo buộc ông là có thái độ dân tộc chủ nghĩa đi ngược lại phong trào Marxist quốc tế, đồng thời bị kiến nghị khai trừ khỏi Đảng. Stalin đành phải rút lại lời kêu gọi của mình. Trong những năm tháng Stalin bị đày ải, RSDRP đã rạn nứt thành hai bè phái, "Bolshevik" của Vladimir I. Lenin và "Menshevik" của Yuli Martov. Stalin bất đồng với nhiều thành viên Menshevik ở Gruzia nên ngả theo phái Bolshevik. Mặc dù kiểm soát một bản doanh do Stalin lập ra tại thành phố mỏ Chiatura, Bolshevik vẫn chỉ là phái thiểu số trên địa bàn Gruzia khi so với phái Menshevik.
1905–1912: Cách mạng 1905 và hệ quả
thumb|left|Stalin gặp gỡ [[Vladimir Lenin lần đầu tiên tại hội nghị năm 1905 ở Tampere, bấy giờ thuộc Đại công quốc Phần Lan. Lenin trở thành "người thầy không thể thay thế của Stalin".]] Tháng 1 năm 1905, quân đội Sa hoàng thảm sát người biểu tình tại Sankt-Peterburg. Bất ổn dần lan rộng trên toàn Đế quốc và leo thang thành Cách mạng năm 1905. Gruzia bị ảnh hưởng đáng kể bởi sự biến này. Stalin trú ở Baku vào tháng 2, thời điểm mà căng thẳng sắc tộc giữa người Armenia và Azerbaijan đang lên đến đỉnh điểm, khiến ít nhất 2.000 người thiệt mạng do ẩu đả. Stalin công khai khiển trách "cuộc pogrom chống lại người Do Thái và người Armenia" như một phần nỗ lực của Sa hoàng Nikolai II nhằm "củng cố ngai vàng đáng khinh của hắn ta". Stalin thành lập Đội Biệt động Bolshevik, có nhiệm vụ làm chêm đệm giữa hai phe dân tộc thù địch nhau tại Baku; ông cũng thừa cơ này để trộm cắp công cụ in ấn. Ông tiếp tục mở rộng quy mô Đội Biệt động giữa triền miên xung đột tại Gruzia, song song với động thái của phe Menshevik. Các toán quân của Stalin giải giáp binh lính và cảnh sát địa phương, đột kích kho vũ khí của chính quyền, gây quỹ thông qua việc bảo kê các nhà kinh doanh và hầm mỏ địa phương. Họ thực hiện nhiều đợt tấn công nhắm vào lính Cossack và phiến quân Trăm Đen ủng hộ Sa hoàng, đôi khi phối hợp hoạt động với lực lượng dân quân Menshevik.
Tháng 11 năm 1905, tổ Bolshevik Gruzia cử Stalin thay mặt họ tới dự hội nghị Bolshevik toàn thể được tổ chức tại Sankt-Peterburg. Lúc tới nơi, ông hay tin từ vợ của Lenin, bà Nadezhda Krupskaya, rằng địa điểm cuộc hẹn đã chuyển đến Tampere, Đại công quốc Phần Lan. Tại hội nghị năm 1905, Stalin vinh dự gặp mặt Lenin lần đầu tiên. Tuy hết sức tôn kính vị lãnh tụ, Stalin bất đồng với quan điểm của Lenin rằng phái Bolshevik phải cài cắm những ứng cử viên của họ trong cuộc bỏ phiếu sắp tới vào Duma Quốc gia; Stalin cho rằng quá trình tiến cử quốc hội không ích gì ngoài phí thời gian. Tháng 4 năm 1906, Stalin dự Đại hội IV RSDRP ở Stockholm; đây cũng là chuyến đi đầu tiên của ông ra ngoài Đế quốc Nga. Tại hội nghị, Đảng RSDRP – khi đó phái Menshevik chiếm đa số – đồng thuận là sẽ không thực hiện cướp có vũ trang để chu cấp cho các hoạt động cách mạng của họ. Lenin và Stalin bất đồng với quyết định này, bèn ngầm thảo luận với những đảng viên Bolshevik khác, lên kế hoạch cướp tiền của Đế quốc nhân danh cách mạng.
Tháng 7 năm 1906, Stalin kết hôn với Kato Svanidze trong một nhà thờ Chính thống giáo ở Senaki. Tháng 3 năm 1907, người vợ mới cưới sinh cho ông một đứa con trai, đặt tên là Yakov. Theo sử gia Robert Service, tới thời điểm này Stalin đã xây dựng tên tuổi cho mình như "người Bolshevik tiên phong của Gruzia". Ông dự Đại hội V RSDRP được tổ chức tại Nhà thờ Brotherhood, London, từ tháng 5 đến tháng 6 năm 1907. Về Tiflis, Stalin vạch ra kế hoạch cướp tiền của Ngân hàng Đế quốc vào tháng 6 năm 1907. Băng nhóm của ông đánh chặn thành công một đoàn hộ tống chở tiền băng qua Quảng trường Erivansky bằng súng và bom tự chế. Khoảng 40 người thiệt mạng trong vụ cướp, song tất cả các thành viên của băng nhóm đều chạy thoát. Sau phi vụ, Stalin chuyển tới sống ở Baku cùng vợ và con trai. Tại đây, phái Menshevik đối chất Stalin về vụ cướp và đầu phiếu khai trừ ông khỏi RSDRP, nhưng Stalin phớt lờ họ.
thumb|right|Thẻ ghi chép Stalin trong hồ sơ của cục cảnh sát mật Sa hoàng Okhrana vào năm 1911 Stalin đảm bảo phái Bolshevik chiếm thế thượng phong trong nhánh RSDRP ở Baku, đồng thời biên tập hai tờ báo Bolshevik Bakinsky Proletary và Gudok ("Tiếng huýt"). Tháng 8 năm 1907, ông dự Đại hội VII Quốc tế II – một tổ chức chính trị theo chủ nghĩa xã hội – tại Stuttgart, Đức. Tháng 11 năm 1907, vợ Stalin qua đời vì sốt typhus, và vì vậy ông đành giao phó con trai mình cho nhà ngoại nuôi ở Tiflis. Tại Baku, ông tái hợp băng nhóm tội phạm Trang phục. Họ tiếp tục đánh chặn phiến quân Trăm Đen nhờ nguồn quỹ gây dựng được bằng các thủ đoạn như bảo kê, rửa tiền, và trộm cướp. Họ bắt giữ nhiều con em quý tộc nhà giàu làm con tin để tống tiền. Đầu năm 1908, Stalin đến Genève, Thụy Sĩ, để gặp Lenin và nhà Marxist nổi danh người Nga Georgy V. Plekhanov – vị này không có thiện cảm với Stalin.
Tháng 3 năm 1908, Stalin bị bắt tạm giam tại nhà tù Bailov ở Baku. Ông trở thành thủ lĩnh của những người Bolshevik bị cầm tù, tổ chức các hội nhóm thảo luận và ra lệnh giết những kẻ tình nghi tố giác. Bị kết án hai năm đày ải ở Solvychegodsk, Tỉnh Vologda, Stalin tới đó vào tháng 2 năm 1909. Tháng 6 cùng năm, ông trốn thoát khỏi ngôi làng, cải trang thành phụ nữ và chạy tới Kotlas, từ đó về Sankt-Peterburg. Tháng 3 năm 1910, ông lại bị bắt và giải về Solvychegodsk. Tại đây, ông nảy sinh tình cảm với bà chủ đất Maria Kuzakova, người sinh đứa con trai thứ hai cho Stalin tên là Konstantin. Tháng 6 năm 1911, Stalin được phép chuyển tới Vologda, ở đây trong vòng hai tháng. Ông tiếp tục nảy sinh mối tình với Pelageya Onufrieva. Một lần nữa ông trốn đi Sankt-Peterburg, nhưng lại bị bắt vào tháng 9 năm 1911, lần này án trạng bị gia hạn thêm ba năm tại Vologda.
1912–1917: Trung ương Bolshevik và báo Pravda
thumb|right|Số ra đầu tiên của tờ [[Pravda, báo chính trị Bolshevik do Stalin biên tập.]] Tháng 1 năm 1912, phái Bolshevik tiến hành bầu cử Ban Chấp hành Trung ương Đảng tại Hội nghị Praha. Lenin và Grigory Y. Zinoviev quyết định trao cho Stalin một ghế trong ủy ban. Vẫn trú tại Vologda, Stalin đồng ý và giữ vị trí đó đến cuối đời. Lenin tin tưởng Stalin vì lẽ, với tư cách là người dân tộc Gruzia, Stalin có khả năng vận động các dân tộc thiểu số khác ủng hộ phái Bolshevik. Tháng 2 năm 1912, Stalin lại trốn về Sankt-Peterburg. Tại đây, ông chịu trách nhiệm chuyển đối tuần báo Bolshevik Zvezda ("Tinh tú") thành nhật báo Pravda ("Sự thật"), chính thức ấn hành vào tháng 4 năm 1912. Vai trò biên tập viên của Stalin được giữ kín.
Tháng 5 năm 1912, ông lại bị bắt giam tại nhà tù Shpalerhy, lần này lĩnh ba năm đày ải ở Siberia. Tháng 7 cùng năm, ông đặt chân đến ngôi làng hẻo lánh Narym và sống chung với đồng chí Yakov M. Sverdlov. Chỉ hai tháng sau, Stalin và Sverdlov đào tẩu về Sankt-Peterburg. Trong khoảng thời gian ngắn về thăm Tiflis sau đó, Stalin tái hợp băng cướp cũ và mai phục một toa xe chở thư; phi vụ này tuy vậy lại khiến hầu hết các thành viên (trừ Stalin) rơi vào tay chính quyền. Stalin về Sankt-Peterburg, tiếp tục biên tập và viết bài đăng cho tờ Pravda.
thumb|left|upright=0.8|Stalin năm 1915. Sau cuộc bầu cử Duma tháng 10 năm 1912, theo đó sáu đảng viên Bolshevik và sáu đảng viên Menshevik trúng cử, Stalin đã viết nhiều bài báo kêu gọi sư hòa giải giữa hai phái Marxist, khiến Lenin phật lòng. Cuối năm 1912, Stalin hai lần qua Áo-Hung để gặp Lenin tại Kraków, rốt cuộc quy thuận sự từ chối thỏa hiệp với phái Menshevik của Lenin. Tháng 1 năm 1913, Stalin đi Viên để tìm lời giải cho 'vấn đề dân tộc', thiểu số hoặc đa số, bên trong Đế quốc Nga. Lenin khuyến khích Stalin viết một bài luận về chủ đề này để lôi kéo các dân tộc muốn độc lập về phía mình, đồng thời kỳ vọng họ sẽ chọn liên minh với nước Nga do Bolshevik kiểm soát trong tương lai.
Bài chính luận Chủ nghĩa Marx và vấn đề dân tộc của Stalin lần đầu tiên được đăng trên số tháng Ba, tháng Tư, và tháng Năm năm 1913 của tạp chí Prosveshcheniye do Bolshevik ấn hành; rất được Lenin ưng thuận. Theo ký giả Montefiore, đây là "công trình nổi danh nhất của Stalin." Ông xuất bản nó dưới bí danh "K. Stalin", cái tên mà đã xuất hiện từ năm 1912, lấy từ gốc stal 'thép' tiếng Nga, nôm na dịch ra là "người thép". Stalin có lẽ đã bắt chước cách dùng bí danh của Lenin, lấy đây làm tên riêng suốt phần đời còn lại.
Tháng 2 năm 1913, Stalin bị bắt ở Sankt-Peterburg, lần này lĩnh bốn năm đày ải ở Turukhansk hẻo lánh thuộc Siberia, nơi mà việc trốn chạy rất khó thành công. Vào tháng 8, ông đặt chân đến làng Monastyrskoe, nhưng sau sáu tuần lưu trú thì bị chuyển tới Kostino. Tháng 3 năm 1914, quan ngại về nguy cơ phạm nhân tẩu thoát, chính quyền áp giải Stalin tới làng Kureika tọa lạc gần mép Vòng Bắc Cực. Tại đây, Stalin dan díu cô thôn nữ Lidia Pereprygina 14 tuổi, hồi đó vẫn trong độ tuổi cập kê. Theo ký giả Montefiore, tầm tháng 12 năm 1914, họ sinh một đứa nhỏ song nó chết yểu, sau sinh thêm một đứa nữa, đặt tên là Alexander, vào tháng 4 năm 1917.
Tại Kureika, Stalin chung sống với các tộc thổ dân Tungus và Ostyak, dành phần lớn thời gian câu cá.
1917: Cách mạng Nga
Trong lúc Stalin thụ án phát lưu, Nga bước vào Thế chiến thứ nhất. Tháng 10 năm 1916, Stalin và nhiều đảng viên Bolshevik lưu đày khác bị gọi tòng quân, được thuyên chuyển đến Monastyrskoe. Họ dừng chân ở Krasnoyarsk vào tháng 2 năm 1917, nơi Stalin được miễn quân dịch vì cánh tay tàn tật của ông. Do không muốn trải qua bốn tháng tù đày nữa, ông xin phép được hoàn thành quân vụ tại Achinsk. Cách mạng Tháng Hai khơi mào khi Stalin ở đây; nhân dân Nga đứng lên khởi nghĩa ở Petrograd – tên mới của Sankt-Peterburg – khiến Sa hoàng Nicholas II phải hoảng hốt thoái vị để tránh bị lật đổ bạo lực. Đế quốc Nga giờ đây trở thành một nền cộng hòa trên thực tế, được điều hành bởi Chính phủ Lâm thời Nga theo chủ nghĩa tự do tư sản (liberal). Trong bầu không khí hân hoan phấn khởi, Stalin đã bắt tàu hỏa đi Petrograd vào tháng 3. Tại đây, Stalin và cộng sự Bolshevik Lev Kamenev lấy lại quyền kiểm soát tờ Pravda, và Stalin được bổ nhiệm làm đại biểu của Bolshevik trong Ủy ban Chấp hành Xô viết Petrograd, một hội đồng công nhân khá quyền uy của thành phố. Tháng 4 cùng năm, Stalin là người nhận được nhiều phiếu tín nhiệm thứ ba trong cuộc bầu cử cho vị trí trong Ủy ban Chấp hành Trung ương Bolshevik; Lenin đứng thứ nhất và Zinoviev thứ hai. Điều này minh chứng cho vị thế cao cấp của Stalin trong nội bộ Đảng lúc bấy giờ.
Stalin tham gia tổ chức cuộc biểu tình vũ trang của những người ủng hộ Bolshevik vào tháng 7 năm 1917 ở Petrograd. Sau khi sự biến này bị dập tắt, Chính phủ Lâm thời đã phát lệnh truy bức và đàn áp phái Bolshevik. Vào đêm xảy ra vụ bố ráp trụ sở Pravda, Stalin đã kịp thời đưa Lenin trốn khỏi văn phòng, sau đó di chuyển lén nhà lãnh đạo Bolshevik từ nhà an toàn này sang nhà an toàn khác ở Petrograd, bảo đảm đường máu tới Razliv cho ông. Với sự vắng mặt của Lenin, Stalin tiếp tục biên soạn tờ Pravda và giữ vai trò thay quyền lãnh đạo Bolshevik, giám sát Đại hội VI được tổ chức chui của Đảng. Lenin bắt đầu kêu gọi những người Bolshevik tiếm quyền bằng cách lật đổ Chính phủ Lâm thời Nga. Stalin và đồng sự cấp cao Leon Trotsky đều ủng hộ lời hiệu triệu của Lenin, song họ vấp phải phản đối từ phía Kamenev và nhiều đảng viên khác. Lenin trở về Petrograd và thuyết phục tổ chức đảo chính tại cuộc họp của Ban Chấp hành Trung ương vào ngày 10 tháng 10.
Ngày 24 tháng 10, cảnh sát bất ngờ khám xét các văn phòng báo chí của Bolshevik, đập phá trang thiết bị và máy in; Stalin cứu vớt được một số đồ đạc để tiếp tục viết lách. Sớm ngày 25 tháng 10, Stalin cùng Lenin dự cuộc họp chốt của Ban Chấp hành Trung ương tại Viện Smolny, trụ sở điều hành cuộc Cách mạng Tháng Mười. Dân quân Bolshevik nhanh chóng nắm quyền kiểm soát các trạm điện, bưu cục, nhà băng, tổng đài điện thoại và các cây cầu ở Petrograd. Tàu tuần tiễu Rạng Đông, do Bolshevik kiểm soát, bắn phát pháo lệnh vào Cung điện Mùa đông; các đại biểu Chính phủ Lâm thời ra mặt đầu hàng và bị bắt giữ. Mặc dù được giao trách nhiệm họp bàn với các đại biểu Bolshevik tại Đại hội II Xô viết Toàn Nga về tình hình chính sự, vai trò của Stalin trong Cách mạng Tháng Mười không quá nổi bật. Trotsky và các đối thủ Bolshevik khác của Stalin lấy đây là bằng chứng để xem nhẹ đóng góp của Stalin trong cuộc đảo chính, song giới sử gia hậu thế bác bỏ điều này. Theo sử gia Oleg Khlevniuk, Stalin "giữ một vai trò quan trọng [trong Cách mạng Tháng Mười]... với tư cách là đảng viên Bolshevik cao cấp, ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng, và chủ biên tờ Pravda"; nhà sử học Stephen Kotkin cũng công nhận Stalin đã có nhiều đóng góp lớn lao dẫn tới cuộc cách mạng.
Phục vụ chính quyền của Lenin
1917–1918: Củng cố quyền lực
thumb|upright=0.8|left|Stalin năm 1917, khi phục vụ trong [[Hội đồng Dân ủy Nga Xô]] Ngày 26 tháng 10 năm 1917, Lenin trở thành chủ tịch Hội đồng Dân ủy Nga Xô ("Sovnarkom"). Stalin ủng hộ quyết định của Lenin, không liên minh với phái Menshevik và Đảng Xã hội chủ nghĩa – cách mạng, song họ vẫn nhượng bộ một số vị trí cho Đảng Xã hội chủ nghĩa – cách mạng cánh tả. Stalin bấy giờ là một trong tứ trụ của chính phủ mới, bên cạnh Lenin, Trotsky, và Sverdlov. Văn phòng của Stalin ở gần nơi làm việc của Lenin bên trong Viện Smolny; chỉ riêng ông và Trotsky có quyền ra vào phòng đọc của vị lãnh tụ mà không cần hẹn trước. Mặc dù ít tiếng tăm hơn Lenin hoặc Trotsky, ảnh hưởng của Stalin bên trong Đảng Bolshevik đang từ từ được củng cố. Ông cùng Lenin ký các sắc lệnh đóng cửa các tờ báo thù địch chính quyền cách mạng, và cùng Sverdlov chủ trì phiên họp của ủy ban tạo lập hiến pháp mới cho Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Xô viết Liên bang Nga. Ông nhiệt tình ủng hộ quyết định thành lập Cheka của Lenin, cũng như chiến dịch Khủng bố Đỏ do ủy ban mới này chịu trách nhiệm; viện dẫn rằng bạo lực nhà nước đã phục vụ đắc lực cho chính quyền tư bản, nên cũng sẽ tỏ ra hữu hiệu nếu được vận dụng bởi chính quyền Xô viết. Không giống như các đảng viên Bolshevik cao cấp khác như Kamenev và Nikolai Bukharin, Stalin chưa bao giờ e ngại trước sự lớn mạnh của Cheka và sự lan rộng của cuộc Khủng bố Đỏ.
thumb|right|[[Điện Kremli ở Moskva, nơi ở và làm việc của Stalin từ năm 1918]] Sau khi nghỉ việc Pravda, Stalin được bổ nhiệm làm Dân ủy phụ trách Vấn đề Dân tộc. Ông chọn Nadezhda Alliluyeva làm thư ký riêng và cưới bà vào một thời điểm sau đó. Tháng 11 năm 1917, Stalin ký duyệt Sắc lệnh Dân tộc, trao quyền được ly khai và tự quyết cho các dân tộc thiểu số trong Đế quốc Nga. Mục đích của Sắc lệnh chủ yếu mang tính chiến lược; những người Bolshevik muốn sự ủng hộ của các dân tộc thiểu số song vẫn hy vọng họ không thực sự muốn độc lập lãnh thổ. Tháng đó, ông lữ hành tới Helsinki để trò chuyện với Đảng Dân chủ Xã hội Phần Lan, chấp nhận yêu sách độc lập của họ vào tháng 12. Ban ngành của ông cung cấp kinh phí để thành lập các cơ sở in ấn và trường học sử dụng thổ ngữ thiểu số. Đảng Xã hội chủ nghĩa – cách mạng cáo buộc các đàm phán của Stalin về liên bang và tự quyết dân tộc là bình phong cho các chính sách đế quốc chủ nghĩa và chuyên quyền của Sovnarkom.
Vì sự tiếp diễn của Thế chiến thứ nhất, theo đó Nga vẫn đang gồng mình chống Đức và Áo-Hung, chính phủ của Lenin di chuyển từ Petrograd tới Moskva vào tháng 3 năm 1918. Stalin, Trotsky, Sverdlov, và Lenin chuyển tới sống và làm việc ở Điện Kremli. Stalin ủng hộ ý kiến hòa hoãn với Liên minh Trung tâm của Lenin bằng cách đánh đổi một phần lãnh thổ. Stalin cho rằng điều này là cần thiết vì – không như Lenin – ông cảm thấy một cuộc cách mạng vô sản ở Châu Âu chưa kề cận. Lenin thuyết phục các đảng viên Bolshevik cao cấp chấp thuận ý kiến của mình, dẫn đến quyết định ký kết Hiệp ước Brest-Litovsk vào tháng 3 năm 1918. Việc nhượng đất cho Liên minh Trung tâm đã khiến dân tình Nga phẫn nộ; Đảng Xã hội chủ nghĩa – cách mạng cánh tả rút khỏi chính phủ sau sự kiện này để bày tỏ bất bình. Đảng RSDRP sau đó được đổi tên thành Đảng Cộng sản Nga.
1918–1921: Chỉ huy quân đội
thumb|left|Stalin thị sát trận địa chiến hào ở Tsaritsyn. Tranh vẽ của [[Mitrofan Grekov khoảng năm 1934]] Sau Cách mạng Tháng Mười, các quân đội tả khuynh lẫn hữu khuynh dấy binh chống chính quyền mới, khơi mào cuộc Nội chiến Nga. Tháng 5 năm 1918, Sovnarkom cử Stalin tới Tsaritsyn để trông coi việc thu mua lương thảo để đảm bảo chuỗi cung ứng ở miền nam nước Nga. Nóng lòng muốn chứng tỏ tư chất chỉ huy, ông bèn nắm quyền điều hành chiến dịch của đạo Hồng quân tại đây, ngoài ra còn kết thân với hai chiến hữu là Kliment Voroshilov và Semyon Budyonny. Vì tin rằng mình có lợi thế quân số, Stalin áp dụng chiến thuật biển người để xuyên thủng hàng ngũ của phe Bạch Vệ chống-Bolshevik ở Tsaritsyn, gây tổn thất nhân mạng không đáng có. Ngoài ra, ông cũng chỉ huy một chi nhánh Cheka địa phương, ủy quyền cho họ hành quyết những người bị tình nghi là phản cách mạng, đôi khi không cần qua xét xử. Trái với quy định của chính phủ, ông cho phép Cheka thanh trừng quân đội và các cơ quan phụ trách thực phẩm của chuyên viên địa phương thuộc tầng lớp trung lưu. Sự lạm dụng chiến dịch khủng bố của Stalin vượt trên mức hạn định của các lãnh đạo Bolshevik; chẳng hạn, ông từng hạ lệnh cho đốt làng mạc để nông dân tuân thủ giao nộp lương thảo.
Tháng 12 năm 1918, Stalin được cử tới Perm để điều tra xem tại sao lực lượng Bạch vệ của Alexander Kolchak có thể càn quét căn cứ Hồng quân ở đó. Ông về Moskva khoảng giữa tháng 1 và tháng 3 năm 1919, rồi được điều sang Mặt trận Tây tại Petrograd. Khi binh lính của Trung đoàn Hồng quân 3 đào ngũ, ông đã ra lệnh xử tử nhiều kẻ để làm gương. Vào tháng 12, ông quay lại Mặt trận Nam. Trong thời chiến, ông đã chứng tỏ bản thân đối với Ủy ban Chấp hành Trung ương Đảng, phô diễn tinh thần quyết đoán, ý chí quyết tâm, và sẵn lòng lãnh trách nhiệm trong các tình huống xung đột. Tuy nhiên, ông hay bất tuân mệnh lệnh và liên tục dọa từ chức khi bị mất thể diện. Ông bị chỉ trích công khai bởi Lenin tại Đại hội VIII Đảng Cộng sản Nga vì vận dụng chiến thuật không hợp lý, gây thiệt hại nhân mạng không đáng có. Dù vậy, chính phủ vẫn trao tặng ông Huân chương Cờ đỏ vào tháng 11 năm 1919.
Cuối năm 1919, phái Bolshevik đã kiểm soát hoàn toàn chiến cục. Sovnarkom bèn chuyển hướng sang việc lan truyền cách mạng vô sản ra toàn cầu, thành lập Quốc tế Cộng sản vào tháng 3 năm 1919; Stalin dự lễ khai mạc của tổ chức mới này. Tuy Stalin không chung quan điểm với Lenin về cách mạng vô sản châu Âu, ông vẫn nhận thấy rằng, chừng nào Nga Xô còn đứng một mình thì nó sẽ cực kỳ yếu ớt. Tháng 12 năm 1918, Stalin chuẩn bị sắc lệnh công nhận các cộng hòa Xô viết ở Estonia, Litva, và Latvia. Những chính phủ Marxist này vốn từng bị lật đổ trong cuộc nội chiến, điều mà Stalin coi là không chính đáng. Tháng 2 năm 1920, ông được bổ nhiệm làm Trưởng Ban Thanh tra Công Nông, rồi được cử tới Mặt trận Kavkaz vào cùng tháng đó.
thumb|upright=0.8|right|Stalin năm 1920 Tiếp nối các giao tranh trước đó giữa Ba Lan và Nga, chiến tranh Ba Lan – Xô viết bùng nổ vào năm 1920, mở màn với sự kiện quân Ba Lan xâm lược Ukraina và chiếm đóng Kiev vào ngày 7 tháng 5. Ngày 26 tháng 5, Stalin được điều tới Ukraina ở Mặt trận Tây Nam. Hồng quân tái chiếm Kiev vào ngày 10 tháng 6, đánh lui quân Ba Lan về lãnh thổ của họ. Ngày 16 tháng 7, Ban Chấp hành Trung ương phê duyệt quyết định đánh lấn sang Ba Lan. Lenin tin rằng giai cấp vô sản Ba Lan sẽ nổi dậy để hỗ trợ quân Nga lật đổ chính phủ Józef Piłsudski. Stalin khá dè chứng với đánh giá của Lenin, vì ông cho rằng chủ nghĩa dân tộc sẽ khiến công nhân Ba Lan ủng hộ cuộc chiến với Nga. Ông cũng cho rằng, Hồng quân chưa có đủ trang bị để tiến hành một cuộc tổng tấn công, và điều này chẳng may sẽ giúp Quân Bạch vệ ở Krym củng cố lực lượng, rất có khả năng châm ngòi lại cuộc Nội chiến. Tuy nhiên, lập luận của Stalin không có sức thuyết phục, nên ông đành thuận theo quyết sách của Lenin. Tại Mặt trận Tây Nam, ông quyết tâm đánh chiếm Lvov; nhằm thực hiện được ý đồ này, ông bất tuân lệnh chuyển quân cho nỗ lực tấn công Warsaw của Mikhail Tukhachevsky vào đầu tháng 8.
Giữa tháng 8 năm 1920, quân Ba Lan đã đẩy lùi cuộc tiến công của Nga, và Stalin quay về Moskva để hội kiến với Bộ Chính trị. Ở Moskva, Lenin và Trotsky khiển trách thái độ của ông trong cuộc chiến với Ba Lan. Stalin cảm thấy mình bị xem thường và tủi nhục; vào ngày 17 tháng 8, ông xin từ chức quân ngũ, được chấp thuận vào ngày 1 tháng 9. Tại Hội nghị Bolshevik lần thứ 9 giữa tháng 9, Trotsky cáo buộc Stalin đã mắc phải "sai sót chiến lược" trong việc quản lí trận địa. Trotsky cho rằng Stalin đã gây tổn hại đến chiến dịch do không tuân lệnh chuyển quân. Lenin đồng tình với Trotsky, và không một ai trong cuộc họp đứng ra bảo vệ Stalin. Do vậy, ông cảm thấy bị thất sủng và ngày càng thù ghét Trotsky. Chiến tranh Ba Lan - Xô viết khép lại vào ngày 18 tháng 3 năm 1921 với việc ký kết Hòa ước Riga.
1921–1923: Cuối đời Lenin
thumb|left|Stalin đeo [[Huân chương Cờ đỏ tại nhà riêng của Sergo Ordzhonikidze vào năm 1921.]] Chính quyền Bolshevik bắt đầu tìm cách mở rộng tầm ảnh hưởng sang các nước láng giềng. Tháng 2 năm 1921, Nga Xô viết tuyên chiến với chính quyền Menshevik ở Gruzia. Tháng 4 năm 1921, Stalin cử Hồng quân tiếp quản Turkestan. Với tư cách Dân ủy viên phụ trách vấn đề Dân tộc, Stalin tin rằng mỗi quốc gia dân tộc và nhóm sắc tộc nên có quyền được tự biểu lộ quan điểm, chủ trương đề ra khái niệm "cộng hòa tự trị" bên trong một liên bang thống nhất. Một số nhà lý luận Marxist chỉ trích Stalin vì lập trường mang màu sắc dân tộc chủ nghĩa tư sản này, còn số khác lại cáo buộc ông là có quan điểm thiên vị Nga.
Dãy Kavkaz đa sắc tộc, nơi chôn rau cắt rốn của Stalin, bấy giờ lại là rào cản lớn nhất đối với chính sách dân tộc do ông ban bố. Stalin phản đối việc lập ra các nhà nước cộng hòa Gruzia, Armenia, và Azeri tự chủ, viện lý rằng các dân tộc thiểu số vẫn sẽ bị đàn áp nếu làm vậy; thay vào đó, ông kêu gọi thành lập duy nhất một nhà nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Xô viết Liên bang Ngoại Kavkaz. Đảng Cộng sản Gruzia tuy vậy không tiếp thu ý kiến của Stalin, dẫn đến mâu thuẫn mà thường được gọi là sự vụ Gruzia. Giữa năm 1921, Stalin trở về quê nhà ở miền nam Kavkaz, nhằm khuyển nhủ các đảng viên Gruzia chớ có tư tưởng sô-vanh dân tộc chủ nghĩa mà chà đạp quyền lợi của các dân tộc thiểu số sống cạnh bên như người Abkhazia, người Ossetia, và người Adjara. Nhân tiện dịp này, Stalin thăm con trai Yakov và đưa cậu lên Moskva nuôi nấng. Tháng 3 năm 1921, Nadezhda hạ sinh con trai thứ hai của Stalin, đặt tên là Vasily.
Sau khi cuộc Nội chiến Nga kết thúc, các cuộc đình công của công nhân và các cuộc khởi nghĩa nông dân bùng nổ xuyên khắp Nga, hầu hết là để phản đối lệnh trưng thu lương thực của Sovnarkom; do vậy mà Lenin đành thông qua Chính sách kinh tế mới (NEP) vào năm 1921. Lục đục cũng bắt đầu biểu hiện bên trong Đảng Cộng sản Nga, bắt nguồn từ việc Trotsky muốn bãi bỏ các công đoàn; Lenin phản đối điều này, dẫn đến việc Stalin phải giúp thành lập một bè phái chống Trotsky bên trong Đảng.
right|thumb|Stalin hội kiến với một [[Lenin bệnh tật ở Gorki vào tháng 9 năm 1922.]] Tháng 5 năm 1922, Lenin đột quỵ, tê liệt một phần thân. Do phải dưỡng bệnh ở dacha Gorki, Lenin liên lạc với Sovnarkom thông qua Stalin, người thường xuyên đến thăm ông. Lenin từng hai lần hỏi Stalin cho ông thuốc độc để tự tử, song bị từ chối. Bất chấp tình đồng chí giữa hai người, Lenin không thích cách xử sự "Á Châu" của Stalin, từng nói với em gái Maria rằng Stalin "không sáng suốt". Về chính sách, Lenin và Stalin mâu thuẫn về vấn đề ngoại thương; Lenin tin rằng nhà nước Xô viết nên giữ độc quyền về ngoại thương, còn Stalin ủng hộ lập trường của Grigori Sokolnikov rằng làm vậy là chưa thiết thực ở thời điểm hiện tại. Một tranh cãi khác nảy sinh giữa hai người trong Sự vụ Gruzia, theo đó Lenin ủng hộ nguyện vọng thành lập Cộng hòa Xô viết Gruzia của Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Gruzia, hơn là ý kiến của Stalin nhằm thành lập một Liên bang Ngoại Kavkaz.
Lenin và Stalin cũng bất đồng với nhau về bản chất của nhà nước Xô viết. Lenin kêu gọi thành lập "Liên bang các Cộng hòa Xô viết của Châu Âu và Châu Á", phản ánh mong muốn của ông nhằm lan rộng tầm ảnh hưởng của Xô viết ra hai châu lục và khuyên Nga Xô nên tham gia liên bang này với tư cách bình đẳng như các Cộng hòa khác. Stalin tin rằng điều này sẽ khiến các dân tộc phi-Nga muốn độc lập hơn, vậy nên ông đề nghị các dân tộc thiểu số gia nhập Nga Xô với tư cách "cộng hòa tự trị". Lenin phê phán Stalin vì "tư tưởng sô vanh Đại Nga", còn Stalin vu cáo Lenin có "tư tưởng tự do tư sản dân tộc". Rốt cuộc hai người họ đi đến thỏa hiệp, đổi tên liên bang mới thành "Liên bang Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Xô viết" (Liên Xô). Sự khai sinh của Liên Xô được chính thức phê chuẩn vào tháng 12 năm 1922; tuy là một nhà nước liên bang trên danh nghĩa, tất cả các quyết định quan trọng đều phải được chuẩn y bởi Bộ Chính trị Đảng Cộng sản Liên Xô ở Moskva.
Lenin và Stalin cũng nảy sinh xích mích trong đời tư; Lenin đã rất tức giận khi hay tin Stalin xỉ mắng Krupskaya qua một cuộc điện thoại. Vào năm cuối đời của Lenin, Krupskaya đã trình bày cái gọi là "Di chúc Lenin" cho một số nhân vật cấp cao, trong đó có chỉ trích thái độ thô lỗ và chuyên quyền của Stalin, đồng thời khuyến nghị miễn nhiệm chức Tổng Bí thư của ông. Nhà sử học Kotkin đã đặt nghi vấn về tính xác thực của tài liệu này, gợi ý rằng có lẽ Krupskaya đã thảo nó. Tuy nhiên phải chú ý rằng bản thân Stalin chưa bao giờ nghi vấn điều này.
Thâu tóm quyền bính
1924–1927: Kế tục Lenin
thumb|right|Từ trái sang phải: Stalin, [[Aleksey Ivanovich Rykov|Rykov, Kamenev, và Zinovyev vào năm 1925. Ba nhân vật trên về sau bị Stalin thất sủng, rồi mất mạng trong cuộc Đại thanh trừng]]
Lenin trút hơi thở cuối cùng vào tháng 1 năm 1924. Stalin cáng đáng tang sự cho vị lãnh tụ; tại tang lễ, ông là một trong những người đứng ra khiêng tiễn linh cữu của Lenin; trái với nguyện vọng của bà Krupskaya, Bộ Chính trị quyết định bảo quản và lưu giữ thi hài của Lenin trong lăng Quảng trường Đỏ ở Moskva. Điều này dần trở thành một phần của tục sùng bái cá nhân Lenin ở Liên Xô; Petrograd được đổi tên thành "Leningrad" cùng năm. Nhằm xây dựng hình ảnh của mình như một người Leninist tận tụy, Stalin thuyết giảng chín bài giảng mang tên "Các nền tảng của chủ nghĩa Lenin" tại Đại học Sverdlov, sau được xuất bản dưới dạng sách in. Tại Đại hội XIII Đảng Cộng sản Nga vào tháng 5 năm 1924, "Di chúc Lenin" được đọc trước các đại biểu tỉnh ủy. Hổ thẹn với những lời phê bình trong đó, Stalin xin từ chức Tổng Bí thư; hành động khiêm nhường này đã cứu vãn thể diện của ông, và Bộ Chính trị cho phép ông tiếp tục đảm đương chức nhiệm.
Trên cương vị Tổng Bí thư, Stalin gần như nắm toàn quyền bổ nhiệm cán bộ, cho phép ông đưa đồng minh lên giữ các chức vụ chủ chốt trong Đảng và chính phủ. Bên trong Đảng, ông thiên vị các đảng viên trẻ tuổi có xuất thân vô sản, hơn là nhóm "Bolshevik Già", những người mà xuất thân chủ yếu từ tầng lớp trung lưu đã tốt nghiệp đại học. Bên cạnh việc tiếp xúc thường xuyên với những viên chức non trẻ, Stalin cũng gây dựng mối quan hệ thân thiết với ba thủ trưởng cảnh sát mật (Cheka và cơ quan hậu thân, Tổng cục Chính trị Nhà nước): Felix Dzerzhinsky, Genrikh Yagoda, và Vyacheslav Menzhinsky. Tháng 2 năm 1926, vợ ông sinh bé gái Svetlana.
Với cái chết của Lenin, Stalin coi Trotsky là trở ngại chính đối với quyền lực của mình bên trong Đảng. Trên thực tế, trong những năm tháng Lenin ốm đau bệnh tật, Stalin đã xây dựng một bè phái chống Trotsky cùng Kamenev và Zinoviev. Tuy Zinoviev quan ngại về uy thế manh nha của Stalin, ông vẫn đứng sau ủng hộ Stalin làm đối trọng với Trotsky ở Đại hội Đảng lần thứ XIII. Phe Đối lập cánh Tả do Trotsky lập ra cho rằng NEP đang nhượng bộ quá nhiều cho chủ nghĩa tư bản; Stalin bị gán mác "hữu khuynh" vì ủng hộ chính sách này. Đáp lại, Stalin bắt đầu gây dựng một nhóm ủy viên ủng hộ mình trong Ban Chấp hành Trung ương Đảng, còn phe Đối lập cánh Tả dần bị gạt khỏi quyền lực. Ông chiêu mộ được Bukharin về phe mình, người mà giống Stalin, cũng tin rằng các đề xuất của phe Đối lập cánh Tả sẽ khiến Liên Xô trở nên bất ổn.
thumb|left|Stalin ngồi cùng [[Anastas Mikoyan và Sergo Ordzhonikidze ở Tbilisi, 1925]] Cuối năm 1924, Stalin chĩa mũi dùi vào Kamenev và Zinoviev, loại bỏ đồng minh của họ khỏi các vị trí chủ chốt. Năm 1925, Kamenev và Zinoviev trả đũa chống lại Stalin và Bukharin. Tại Đại hội Đảng lần thứ XIV vào tháng 12, hai người họ công kích bất thành bè cánh của Stalin. Đáp lại, Stalin cáo buộc Kamenev và Zinoviev chia bè kết phái hòng làm rối loạn nội bộ Đảng. Giữa năm 1926, hai người họ hợp lực cùng những người ủng hộ Trotsky để thành lập nhóm Đối lập thống nhất chống Stalin. Tháng 10 cùng năm, phái này buộc phải giải tán do lo sợ bị khai trừ khỏi Đảng, về sau phải công khai rút lại phát ngôn dưới sức ép của Stalin. Các cuộc tranh luận bè phái tiếp diễn, khiến Stalin phải đe dọa từ chức vào tháng 10, tháng 12 năm 1926 và tháng 12 năm 1927. Tháng 10 năm 1927, Zinoviev và Trotsky bị loại khỏi Ban Chấp hành Trung ương; Trotsky bị phát lưu tới Kazakhstan, rồi ra hẳn ngoại quốc vào năm 1929. Một số ủy viên thuộc nhóm Đối lập thống nhất sau khi thừa nhận lỗi lầm, ăn năn hối cải, được khôi phục đảng tịch và chức vụ.
Stalin lúc này đã trở thành lãnh tụ tối cao của Đảng; chức Thủ tướng được ông giao phó cho người thân cận Vyacheslav Molotov. Những người ủng hộ Stalin khác trong Bộ Chính trị là Voroshilov, Lazar Kaganovich và Sergo Ordzhonikidze. Theo Montefiore, tại thời điểm này "Stalin là thủ lĩnh của một băng đảng đầu sỏ nhưng chưa phải một nhà độc tài".
Năm 1926, Stalin viết bài luận Về vấn đề chủ nghĩa Lenin, trong đó biện luận ủng hộ "chủ nghĩa xã hội trong một quốc gia" và coi đây như quan điểm Leninist chính thống. Tuy nhiên điều này trái ngược hoàn toàn với quan điểm quốc tế chủ nghĩa và cách mạng thế giới của những người Bolshevik.
1927–1931: Phi kulak hóa, tập thể hóa, và công nghiệp hóa
Chính sách kinh tế
Nền công nghiệp của Liên Xô lúc bấy giờ thua kém hoàn toàn so với phương Tây, và thiếu hụt ngũ cốc cũng là một vấn đề nhức nhối; sản lượng ngũ cốc năm 1927 ở Liên Xô chỉ bằng 70% năm 1926. Ngoài ra, Stalin cũng lo sợ mối đe dọa từ Nhật, Pháp, Anh, Ba Lan, và Romania. Phần lớn các tổ chức của Đảng Cộng sản, trong đó có Komsomol, OGPU, và Hồng quân, đã trở nên nóng lòng muốn dỡ bỏ chính sách NEP, vì lo ngại tầm ảnh hưởng của những kẻ hưởng lợi từ chính sách này; cụ thể là tầng lớp phú nông, hay "kulak", và các chủ doanh nghiệp nhỏ, hay "NEPmani". Vào thời điểm đó, Stalin cũng tỏ ý chống chính sách NEP, lập trường mà có thể coi là "thiên tả" hơn cả Trotsky hoặc Zinoviev.
Đầu năm 1928, Stalin đi Novosibirsk, nơi ông cáo buộc kulak địa phương tàng trữ ngũ cốc, bèn ra lệnh bắt giữ kulak và tịch thu mùa vụ của họ để đem về Moskva vào Tháng 2. Theo chỉ đạo của ông, các đội trưng thu ngũ cốc được lập ra ở khắp miền Tây Siberia và ở Dãy Ural, dẫn đến xung đột với tầng lớp nông dân. Stalin ra thông cáo rằng cả phú nông lẫn trung nông đều phải miễn cưỡng giao nộp mùa vụ. Bukharin cùng nhiều ủy viên Trung ương Đảng đã rất phẫn nộ do không được thông tin về chuyện này. Tháng 1 năm 1930, Bộ Chính trị phê duyệt chính sách trừ khử tầng lớp phú nông; những kulak bị tố cáo sẽ phải lãnh án phát lưu tại các trại tập trung nơi xa xôi hẻo lánh. Nhiều trong số họ bỏ mạng trên các chuyến đi. Tới tháng 7 năm 1930, hơn 320.000 hộ gia đình đã bị ảnh hưởng bởi chính sách phi kulak hóa. Theo Dmitri Volkogonov, quá trình phi kulak hóa là "cuộc khủng bố hàng loạt đầu tiên được áp dụng bởi Stalin trong chính đất nước của ông ta."
thumb|left|Anh hùng lao động [[Aleksei Grigorievich Stakhanov|A. G. Stakhanov bên cạnh một thợ mỏ: Stalin từng khởi động phong trào Stakhanovite nhằm khuyến kích công nhân làm việc chăm chỉ hơn, góp phần nâng cao đáng kể năng suất đầu ra của Liên Xô vào những năm 1930.]] Năm 1929, Bộ Chính trị tiến hành tập thể hóa ruộng đất nông nghiệp trên diện rộng, thiết lập hai kiểu nông trang là kolkhozy hợp tác xã và sovkhoz nhà nước. Stalin cấm phú nông tham gia hợp tác xã. Tuy trên danh nghĩa tự nguyện, nhiều nông dân thực chất tham gia hợp tác xã vì sợ phải chịu chung số phận với bọn phú nông; số khác thì bị đe dọa hoặc cưỡng ép tham gia bởi những người thân với Đảng. Tới năm 1932, khoảng 62% hộ nông gia làm hợp tác xã, và tới năm 1936 thì đã đạt 90%. Nhiều hợp tác xã viên uất ức vì mất ruộng đất tư hữu, khiến năng suất sụt giảm. Nạn đói lan rộng khắp nơi khiến Bộ Chính trị thường xuyên phải hạ lệnh tái phân phối lương thực để cứu đói nhiều vùng.
Bạo loạn vũ trang chống chính sách phi kulak hóa và tập thể hóa bùng nổ ở Ukraina, bắc Kavkaz, nam Nga, và Trung Á, lên đến đỉnh điểm vào tháng 3 năm 1930; tất cả đều bị Hồng Quân dập tắt. Stalin viết một bài báo phản biện rằng, việc tập thể hóa là hoàn toàn tự nguyện, đồng thời khiển trách thậm tệ các quan chức địa phương. Tuy Bukharin và Stalin khá thân thiết nhau, Bukharin lại rất ngờ vực chính sách của bằng hữu; sở dĩ vì Bukharin cho rằng đây là sự trở về với chính sách "cộng sản thời chiến" khi trước của Lenin và tin rằng nó sẽ thất bại. Dẫu vậy, tới giữa năm 1928, Bukharin không có đủ người ủng hộ bên trong Đảng để chống lại cải cách. Tháng 11 năm 1929, Stalin nhanh chóng bãi nhiệm Bukharin khỏi Bộ Chính trị.
Chính sách đối ngoại và văn hóa
Năm 1928, Stalin tuyên bố rằng cuộc chiến giữa giai cấp vô sản và kẻ thù sẽ tăng cường đồng thời với sự phát triển của chủ nghĩa xã hội. Ông cảnh báo về một "mối hiểm nguy từ phía cánh hữu" trong nội bộ Đảng Cộng sản. Phiên tòa Shakhty, vụ án dàn dựng đầu tiên ở Liên Xô, được tổ chức vào năm 1928, theo đó hàng tá "chuyên viên công nghiệp" bị kết án phá hoại. Từ năm 1929 tới năm 1930, các phiên tòa dàn dựng liên tiếp được tổ chức nhằm đe dọa phe đối lập, đáng kể như: Phiên tòa Đảng Công nghiệp, phiên tòa Menshevik, và phiên tòa Metro-Vickers. Nhận thức rõ sự nghi ngại của dân Nga đa số đối với một lãnh tụ người dân tộc Gruzia, Stalin đã cho thăng tiến nhiều quan chức Nga trong bộ máy chính phủ nhằm củng cố quyền lực, đồng thời ấn định tiếng Nga là ngôn ngữ bắt buộc ở các cấp giáo dục và nhiệm sở, sử dụng song song với các ngôn ngữ địa phương ở những nơi người Nga chiếm thiểu số. Bên cạnh đó, thái độ dân tộc chủ nghĩa thiểu số bị kiềm chế. Ngoài ra, các chính sách xã hội bảo thủ cũng được ban hành nhằm đẩy mạnh kỷ luật dân sự và thúc đẩy gia tăng dân số; chính phủ chủ trương xây dựng các đơn vị gia đình vững chắc, khuyến khích bổn phận làm mẹ của phụ nữ, tái hình sự hóa đồng tính luyến ái, hạn chế nạo phá thai và ly hôn, cũng như bãi bỏ Ban Phụ nữ Zhenotdel bên trong Đảng Cộng sản.
thumb|left|Ảnh chụp năm 1931 cho thấy [[Nhà thờ chính tòa Chúa Kitô Đấng Cứu Độ, Moskva|Nhà thờ chính tòa Chúa Kitô Đấng Cứu Độ tại Moskva bị phá hủy để nhường chỗ cho dự án Cung điện Xô viết.]]
1932–1939: Những khủng hoảng lớn
Nạn đói
thumb|right|Bản đồ thể hiện [[nạn đói ở Liên Xô 1932–1933. Những nơi bị ảnh hưởng nặng nhất được tô đen.]] Bên trong Liên Xô, dân chúng bắt đầu nảy sinh phẫn uất với chính phủ Stalin. Bất ổn dân sự, trước đó chỉ giới hạn ở nông thôn, giờ đây đã lan lên tận đô thị, khiến Stalin phải kiềm chế các chính sách kinh tế của mình vào năm 1932. Tháng 5 năm 1932, ông cho mở các khu chợ kolkhoz nơi nông dân có thể mậu dịch nông sản thặng dư do họ sản xuất. Song song với đó, các chế tài xử phạt trở nên mạnh tay hơn; tuân chỉ của Stalin, một sắc lệnh vào tháng 8 năm 1932 được ban hành, theo đó tội trộm cắp ngũ cốc có khả năng phải lĩnh án tử hình. Như một phần của kế hoạch 5 năm lần thứ hai, chỉ tiêu đầu ra giảm mạnh so với lần thứ nhất và nhấn mạnh công tác cải thiện đời sống của nhân dân. Lần này, chính phủ chủ trương mở rộng không gian nhà ở và sản xuất hàng hóa tiêu dùng. Tuy nhiên giống như lần trước, kế hoạch lần hai cũng liên tiếp phải tu chỉnh để phù hợp với điều kiện thực tiễn; chẳng hạn như việc chú trọng vào sản xuất quốc phòng theo sau sự kiện Adolf Hitler lên làm Thủ tướng Đức vào năm 1933.
Liên Xô trải qua nạn đói lớn giai đoạn 1932–33, gieo rắc cái chết cho 5-7 triệu người. Khu vực bị ảnh hưởng nặng nề nhất là Ukraina và Bắc Kavkaz; song bên cạnh đó thì Kazakhstan và nhiều tỉnh thành của Nga cũng chịu ảnh hưởng đáng kể. Giới sử học từ lâu đã tranh luận rằng chính phủ của Stalin có cố ý tạo ra nạn đói này hay không. Trên thực tế, không tồn tại bất cứ tài liệu nào chứng minh Stalin hay nội các của ông kêu gọi bỏ đói nhân dân. Vụ mùa những năm 1931 và 1932 vốn đã thất bát sẵn do nghịch cảnh thời tiết, kèm theo đó là rất nhiều vụ mùa năng suất thấp khiến nông sản đầu ra giảm thiểu. Các chính sách của chính phủ – chủ trương công nghiệp hóa nhanh chóng, xã hội hóa gia súc, và tập trung gieo trồng tại một khu vực thay vì luân canh – đã làm trầm trọng thêm vấn đề. Nhà nước cũng thất bại trong việc dự trữ ngũ cốc để đề phòng trường hợp xấu. Stalin đổ trách nhiệm cho các thành phần không tốt và phá hoại bên trong giai cấp nông dân. Chính phủ của ông cung cấp một lượng nhỏ lương thực để cứu đói các vùng bị ảnh hưởng nhưng không ăn thua, bên cạnh đó thì lại ưu tiên hàng đầu cho lực lượng lao động thành thị. Đối với Stalin, công nghiệp hóa đất nước quan trọng hơn đời sống của nông dân. Xuất khẩu ngũ cốc, bấy giờ là nguồn phí chính để chi trả cho máy móc nhập ngoại, sụt giảm mạnh. Stalin về sau không thừa nhận lỗi lầm của mình trong nạn đói mà sự tồn tại bị giấu khỏi các quan sát viên ngoại quốc.
Chính sách đối ngoại và ý hệ
Trong năm 1935–36, Stalin giám sát công tác phác thảo hiến pháp mới; các điều khoản tự do của nó được thiết kế chỉ nhằm mục đích tuyên truyền vì quyền lực thực tế nằm hết trong tay Stalin và Bộ Chính trị. Ông hùng hồn tuyến bố: "Chủ nghĩa xã hội, giai đoạn đầu của chủ nghĩa cộng sản, về cơ bản đã đạt được ở đất nước này". Năm 1938, cuốn Lịch sử Đảng Cộng sản Liên Xô (Bolshevik), còn được biết đến với cái tên thông tục là Loạt bài giảng ngắn, được ấn hành. Một loạt các tiểu sử về Stalin cũng ra mắt trong thời kỳ này, mặc dù Stalin muốn được thể hiện như một hiện thân của Đảng Cộng sản hơn là con người thật của mình. Tới năm 1938, nội các của Stalin đã ổn định, bao gồm những nhân vật thân tín mà sẽ tiếp tục gắn bó với ông cho tới cuối đời.
thumb|Xe thiết giáp Xô viết được duyệt trước khi chuyển cho [[Quân đội Nhân dân Cộng hòa trong Nội chiến Tây Ban Nha]] Mong muốn cải thiện quan hệ quốc tế, Liên Xô gia nhập Hội Quốc Liên vào năm 1934. Từ tháng 10 năm 1933, Stalin bắt đầu trao đổi bí mật với Hitler. Stalin thán phục Hitler vì đã có thể kiểm soát Đảng Quốc xã sau khi trừ khử các đối thủ chính trị trong Đêm của những con dao dài. Tuy nhiên, Stalin nhận thức rõ mối hiểm họa manh nha của chủ nghĩa phát-xít và tìm cách liên kết với các nền tự do dân chủ Tây Âu. Tháng 5 năm 1935, Liên Xô ký kết một hiệp ước tương trợ với Pháp và Tiệp Khắc. Tại Đại hội VII Quốc tế Cộng sản vào tháng 7 và tháng 8 năm 1935, Liên Xô khuyến nghị các đảng Marx-Lenin quốc tế liên kết với các nhóm tả khác để tạo lập mặt trận nhân dân chống phát-xít. Đáp lại, các chính phủ chống cộng của Đức Quốc xã, Ý phát-xít và Đế quốc Nhật ký kết Hiệp ước chống Quốc tế Cộng sản vào năm 1936.
Đại thanh trừng
thumb|right|Khai quật khu mộ tập thể chôn xác nạn nhân của [[thảm sát Vinnitsia.]] Stalin thường ra nhiều mệnh lệnh bất nhất về áp bức nhà nước. Tháng 5 năm 1933, ông cho phóng thích nhiều phạm nhân phạm tội vặt vãnh, đồng thời chỉ đạo các cơ quan an ninh ngừng phát lệnh truy nã và trục xuất hàng loạt. Tháng 9 năm 1934, ông lập ra các ủy ban điều tra về tội tống giam người vô cớ nhưng cùng tháng đó lại hạ lệnh tử hình các công nhân tại Nhà máy Luyện kim Stalin bị buộc tội làm gián điệp cho Nhật. Các hành vi lẫn lộn này chấm dứt vào tháng 12 năm 1934 sau khi ủy viên cao cấp Sergei M. Kirov bị giết hại. Lo sợ bị ám sát, Stalin tăng cường an ninh cá nhân và hiếm khi ra ngoài gặp mặt công chúng. Đồng thời, các vụ bắt bớ tăng mạnh trở lại sau cái chết của Kirov. Tiếp theo, Stalin ban hành sắc lệnh thành lập bộ ba NKVD và trao cho họ quyền phán quyết nằm trên tòa án. Năm 1935, ông lệnh cho NKVD trục xuất các thành phần phản cách mạng khỏi các đô thị lớn; đầu năm 1935, hơn 11.000 người đã bị trục xuất khỏi Leningrad. Năm 1936, Nikolai I. Yezhov được bổ nhiệm lên vị trị thủ trưởng NKVD.
Stalin đứng sau chủ mưu các vụ bắt bớ cựu đảng viên và ủy viên trung ương tại nhiệm; bị vu vạ tội thông đồng với phương Tây, nhiều người trong số họ đã bị tống giam hoặc phát lưu nội quốc. Phiên tòa Moskva đầu tiên được tổ chức vào tháng 8 năm 1936; Kamenev và Zinoviev bị khép tội mưu sát và kết án tử hình. Phiên toà Moskva thứ hai bắt đầu từ tháng 1 năm 1937, và phiên thứ ba từ tháng 3 năm 1938; Bukharin và Rykov bị cáo buộc liên can đến mưu đồ khủng bố của khối Trotskyite-Zinovievite và đều bị tử hình. Cuối năm 1937, hầu hết tập thể lãnh đạo cũ đã bị thanh trừng và Bộ Chính trị giờ đây nằm gọn trong tay Stalin. Bên cạnh đó, ông cũng thúc giục các đảng cộng sản khác loại trừ các thành phần không theo đường lối Stalinist.
thumb|left|Nạn nhân của [[Đại thanh trừng tại khu mộ tập thể Bykivnia.]] Làn sóng áp bức tăng mạnh trở lại vào tháng 12 năm 1936 và duy trì ở mức cao cho tới tháng 11 năm 1938, thời kỳ mà còn được gọi là Đại thanh trừng. Tháng 5 năm 1937, phần lớn ủy viên bên trong Bộ Tư lệnh Tối cao và nhiều tướng tá quân sự bị bắt giữ dựa trên các cáo buộc bịa đặt. Tới cuối những năm 1937, quá trình thanh trừng đã lan ra ngoài Đảng và ảnh hưởng đến xã hội dân sự. Tháng 7 năm 1937, Bộ Chính trị ra lệnh thanh lọc