✨Trận Leningrad
Cuộc bao vây Leningrad là cuộc phong tỏa quân sự của quân đội Đức Quốc xã đối với thành phố Leningrad (hiện nay là Sankt-Peterburg), đồng thời là cuộc phòng thủ dài ngày nhất trong Chiến tranh thế giới thứ hai của Quân đội Liên Xô. Đây là một trong các trận đánh có tỉ lệ tử vong cao trong lịch sử thế giới và là trận đánh có số dân thường thiệt mạng cao nhất trong toàn bộ Chiến tranh Xô-Đức. Từ khi bị quân đội Đức Quốc xã bao vây cho đến khi được quân đội Liên Xô giải phóng, cuộc phong tỏa Leningrad kéo dài 871 ngày; bắt đầu từ tháng 9 năm 1941 và kết thúc vào ngày 27 tháng 1 năm 1944. Trận Leningrad là một trong các biểu tượng lớn nhất của cuộc đọ sức cả về quân sự cũng như về sức chịu đựng của con người giữa chế độ Xô Viết và chế độ Quốc xã. Như dự kiến của Kế hoạch Barbarossa thì Leningrad là một mục tiêu chiến lược mà nếu chiếm được nó, nước Đức Quốc xã sẽ làm giảm sút đáng kể khả năng phòng thủ của Liên Xô, mở đường tiến tới Arkhangelsk. Việc chiếm Leningrad không chỉ là chiếm đóng một thành phố bình thường mà còn là việc chiếm đóng nơi đã nổ ra cuộc Cách mạng tháng 10 Nga, một biểu tượng chính trị quan trọng của Liên Xô. Đồng thời, chiếm Leningrad cũng là chiếm được một căn cứ hải quân quan trọng để phục vụ cuộc đối đầu trên biển giữa hải quân Đức Quốc xã và Hải quân Anh trên biển Baltic.
Bối cảnh mặt trận
Theo kế hoạch Barbarossa, mặt trận Tây Bắc Liên Xô bao gồm lãnh thổ của ba nước cộng hòa vùng Đông Baltic: Litva, Latvia và Estonia, vùng Tây Bắc nước Nga từ eo đất Karelia đến tuyến Tikhvin - Novgorod với thành phố Leningrad là mục tiêu cực kỳ quan trọng. Không gian chiến dịch còn bao gồm cả vùng phía Đông biển Baltic, phía nam vịnh Bosni và Vịnh Phần Lan. Trên đất liền, chiến sự còn diễn ra tại eo đất Karelia, nơi đã từng là mặt trận chính của cuộc chiến tranh Liên Xô - Phần Lan từ mùa đông đến mùa hè năm 1940. Khác với các vùng trung tâm và phía Nam Liên Xô, đây là vùng đất nằm sát vòng Bắc cực, có khí hậu giá lạnh, mùa hè ngắn ngủi với những đêm trắng. Các hoạt động quân sự tại đây đòi hỏi phải có những trang thiết bị phù hợp cho con người và phương tiện.
Với địa hình vùng đồng bằng ven biển Baltic tương đối bằng phẳng. Các con sông Neman, Tây Dvina, Velikaiya, Luga chủ yếu chảy theo hướng Đông Nam - Tây Bắc không phải là các con sông lớn. Do đó, đây là vùng đất có thể phát huy được ưu thế của xe tăng, pháo binh và không quân. Ngoài ra, vùng địa bàn ven biển tuy gần vòng Bắc cực nhưng biển Baltic không đóng băng nên đây cũng là nơi dễ dàng sử dụng hải quân để phối hợp với lực lượng trên bộ.
Tham gia chiến dịch tấn công Leningrad còn có quân đội Phần Lan do tướng Carl Gustaf Emil Mannerheim chỉ huy. Tuy nhiên, mục tiêu của Phần Lan chỉ là để giành lại eo đất Karelia đã phải cắt nhượng cho Liên Xô sau cuộc chiến tranh Liên Xô-Phần Lan năm 1940 nên sự phối hợp giữa quân đội Đức và quân đội Phần Lan là hạn chế do mục đích không gặp nhau. Ngoài ra, còn có hơn 3.000 quân Tây Ban Nha của chế độ độc tài Franco do viên tướng Agustín Muñoz Grandes chỉ huy. Nhưng trên mặt trận Xô-Đức khổng lồ với tổng quân số hai bên hàng chục triệu người thì đội quân của Tây Ban Nha mang tính chất tượng trưng hơn là có hiệu lực chiến đấu trên thực tế.
Binh lực và ý đồ tác chiến của hai bên
Quân đội Đức Quốc xã và đồng minh Phần Lan
Thống chế Wilhelm von Leeb (tư lệnh Cụm tập đoàn quân Bắc), tướng Erich Hoepner, tướng Beaulieu-Marconnay và tướng Angern xem xét kế hoạch tấn công
Quân đội Đức Quốc xã
Cụm tập đoàn quân Bắc của Quân đội Đức Quốc xã tại mặt trận Xô-Đức được giao nhiệm vụ tấn công về hướng Leningrad và vùng Tây Bắc Liên Xô có tổng quân số trên một triệu người với 20 sư đoàn bộ binh Đức, 4 sư đoàn xe tăng Đức, 2 sư đoàn cơ giới Đức, 7 sư đoàn quân Phần Lan và một sư đoàn Tây Ban Nha của Franco (Sư đoàn Xanh). Số quân này được biên chế như sau:
- Tập đoàn quân xe tăng 4 gồm quân đoàn xe tăng 38, 46, 47 và quân đoàn cơ giới 41 do tướng Erich Hoepner chỉ huy.
- Tập đoàn quân dã chiến 16 gồm các quân đoàn bộ binh 1, 2, 10, 28 và quân đoàn 50 thuộc tập đoàn quân 9 do tướng Ernst Busch chỉ huy.
- Tập đoàn quân dã chiến 18 gồm quân đoàn bộ binh 26 và quân đoàn cơ giới 42 do tướng Georg von Küchler chỉ huy.
- Quân đoàn xe tăng 56.
- Tập đoàn quân không quân 1.
Quân đội Phần Lan
- Quân đoàn bộ binh 1 (2 sư đoàn bộ binh).
- Quân đoàn bộ binh 2 (2 sư đoàn bộ binh).
- Quân đoàn bộ binh 4 (3 sư đoàn bộ binh).
Do địa bàn vùng Pribaltic tương đối quen thuộc với người Đức nên Thống chế Wilhelm Ritter von Leeb, tư lệnh Cụm tập đoàn quân Bắc có thể đưa ra những giải pháp quân sự mà nước Đức Quốc xã đã áp dụng năm 1940 tại các nước Hà Lan, Bỉ, Luxemburg và Pháp. Đó là việc sử dụng những mũi đột kích mạnh của ba quân đoàn xe tăng để chia cắt và đẩy lùi ba tập đoàn quân Liên Xô phòng ngự tại vùng biên giới. Sau đó, khép chặt sườn phải với Cụm tập đoàn quân Trung tâm hợp vây các tập đoàn quân phía sau của Liên Xô trên vùng cửa ngõ phía Nam Leningrad, cắt đứt các tuyến giao thông từ Moskva đi Leningrad, hội quân với quân Phần Lan tại vùng hồ Ladoga, cô lập Leningrad trên bộ. Tại hướng ven biển, sử dụng quân đoàn cơ giới 57 phối hợp với tập đoàn quân 18 dồn quân đội Liên Xô ra biển ở hướng Riga - Tallinn, bao vây và tiêu diệt các binh đoàn này. Hướng phát triển tấn công của Cụm quân được hoạch định đến Arkhangelsk.
Quân đội Liên Xô
Sát trước chiến tranh, tại vùng Leningrad, Bộ Tổng tư lệnh quân đội Liên Xô bố trí tại đây Quân khu Leningrad chỉ với 21 sư đoàn được biên chế trong các tập đoàn quân 7, 23, 42 và 54. Ngoài ra còn có tập đoàn quân 14 phòng thủ khu vực Murmansk trong vòng Bắc Cực. Tại các nước cộng hòa Litva, Latvia và Estonia, Quân khu Pribaltic có trong biên chế 25 sư đoàn bộ binh, 4 sư đoàn xe tăng, 2 sư đoàn cơ giới, được biên chế trong các tập đoàn quân 8, 11 và 27; các quân đoàn cơ giới 7 và 10.
Chỉ 10 ngày sau khi nước Đức Quốc xã tấn công Liên Xô, Phương diện quân Pribaltic đã để mất toàn bộ phần đất tại các nước cộng hòa ven biển Baltic; bị tổn thất 2/3 tập đoàn quân, bị mất phần lớn xe tăng, xe thiết giáp của các quân đoàn cơ giới và phải lui sâu vào nội địa đến tuyến Tikhvin, Staraya - Russa và chuyển thành Phương diện quân Volkhov
Ý đồ phòng thủ ban đầu của Phương diện quân Leningrad là dựa vào tuyến sông Luga để lập một tuyến phòng ngự dài 250 km từ vịnh Phần Lan đến hồ Inmen. Phía sau tuyến này là các khu phòng thủ kiên cố tại tuyến Oranienbaum, Petrovkoye, Ropsha, Krasnoye Selo, Krasnovardeisk (Gatchina), Tosno. Phương thức phòng thủ theo tuyến ban đầu đã không ngăn được sức tấn công của tập đoàn quân 18 và tập đoàn quân xe tăng 4 của Đức. Đến tháng 9 và tháng 10 năm 1941, Bộ Tư lệnh Phương diện quân phải từ bỏ phương thức này và tập trung binh lực giữ các con đường chính đi vào Leningrad từ các hướng Tây, Tây Nam và Nam.
Leningrad trở thành thành phố - mặt trận
Chiến sự vùng Pribaltic và khu vực Leningrad cuối năm 1941
Tuyến mặt trận Xô-Đức tại vùng Pribaltic và khu vực Tây Bắc Liên Xô từ ngày 9 tháng 7 qua ngày 1 tháng 9 đến ngày 6 tháng 12
Đến ngày thứ ba của cuộc Chiến tranh Xô-Đức, Cụm tập đoàn quân Bắc (Đức) do Thống chế Wilhelm von Leeb chỉ huy đã đẩy lùi các tập đoàn quân 8, 11 và quân đoàn cơ giới 3 của Phương diện quân Pribaltic vào sâu nội địa Liên Xô có nơi từ 80 đến 100 km. Ngày 24 tháng 6, Đại bản doanh Bộ Tổng tư lệnh tối cao (Stavka) của Liên Xô điều động quân đoàn cơ giới 21 do Thiếu tướng D.D. Lelyushenko chỉ huy từ Quân khu Moskva kéo ra phản kích vào tập đoàn quân xe tăng 4 đang tiến công vào hai bên sườn tập đoàn quân 27 do Thiếu tướng N.E. Berzarin chỉ huy tại khu vực Daugavpils. Tuy nhiên, tướng Erich Höpner đã đi trước một bước. Quân đoàn cơ giới 56 do tướng Erich von Manstein chỉ huy thuộc tập đoàn quân này đã chiếm các bến vượt quan trọng trên sông Tây Dvina và đánh chiếm Daugavpils. Quân đoàn cơ giới 21 chỉ chặn được tập đoàn quân xe tăng Đức đến ngày 2 tháng 7. Ngày 11 tháng 7, tập đoàn quân xe tăng 4 của tướng Erich Höpner chỉ huy tiếp tục đẩy lùi các cuộc phản kích quân đội Liên Xô và tiến đến vùng Đông Nam Leningrad. Tại cánh Nam của mặt trận, tập đoàn quân 16 (Đức) đã đánh chiếm thành phố Pskov. Tại cánh Bắc mặt trận, tập đoàn quân 18 (Đức) đã bao vây số quân còn lại của tập đoàn quân 8 (Liên Xô) và Bộ tư lệnh tiền phương Phương diện quân Tây Bắc tại Tallinn. Đến ngày 11 tháng 7, Cụm tập đoàn quân Bắc (Đức) đã chiếm được Litva, Latvia, Estonia (trừ khu vực xung quanh Tallinn), một phần lãnh thổ Nga. Leningrad bắt đầu bị uy hiếp với nguy cơ quân Đức vượt sông Luga trên địa đoạn phòng ngự mỏng nhất của quân đội Liên Xô. Cũng như ở Kiev, ngay trong những ngày mùa hè năm 1941, người dân Leningrad cũng tự coi như mình đã được động viên.
Ngày 27 tháng 6 năm 1941, Cùng với việc động viên 96.000 tân binh, Hội đồng thành phố Leningrad quyết định huy động hơn nửa triệu người cho việc thiết lập các công sự phòng thủ quanh thành phố. Một trong các công sự kéo dài từ cửa sông Luga đến Chudovo, Gatchina, Urisk, Pulkovo và cuối cùng là sông Neva. Các công sự khác kéo dài từ Petergof đến Gatchina, Pulkovo, Kolpino và Koltushy. Trên thực tế, một hệ thống công sự phòng thủ khác chống lại quân Phần Lan đã được xây dựng trong suốt thập niên 1930 nhưng chủ yếu là ở phía Bắc. Hệ thống phòng thủ mới kéo dài từ phần ngoại ô phía bắc của thành phố, và đến thời điểm này được trưng dụng và xây mới thêm. Công sự phòng thủ sau khi hoàn thành bao gồm 190 km bằng gỗ, 630 km hàng rào thép, 700 km hào chống tăng, 5000 công sự bằng gỗ và bê tông, hơn 25.000 km hào đã được công nhân thành phố xây dựng. Các loại súng trang bị cho chiến hạm Rạng Đông (Aurora) được dời lên cụm điểm cao Pulkovskiye ở phía Nam của Leningrad. Quân đội Liên Xô cơ động pháo binh bảo vệ Leningrad ngày 1 tháng 11 năm 1941. (Ảnh của RIA NOVOSSTI) Đầu tháng 7 năm 1941, quân Đức đã khóa chặt con đường đến thành phố Ostrov và Pskov. Ngày 11 tháng 7, Cụm tập đoàn quân Bắc tiếp tục tấn công. Cánh phải của tập đoàn quân xe tăng 4 của tướng Erich Höpner phối hợp với cánh trái của tập đoàn quân 16 tấn công và đánh chiếm thành phố Pskov. Mặc dù không quân Liên Xô đã ném bom vào các bến vượt tại sông Tây Dvina nhưng quân đội Đức Quốc xã vẫn chiếm được một số đầu cầu quan trọng. Ngày 12 tháng 7, quân Đức tiếp tục tiến đến Kunda và Kingishep. Tuy nhiên, những nỗ lực của quân Đức tấn công Leningrad bằng đường biển đều bị Hạm đội Baltic của Liên Xô chặn đứng trước tuyến thủy lôi chặn ngang vịnh Phần Lan từ phía Đông Helsinki đến khu Oranielburg. Ngày 20 tháng 7, Cụm tập đoàn quân Bắc lại một lần nữa phải tạm dừng cuộc tấn công để đối phó với cuộc phản công của tập đoàn quân 42 (Liên Xô) vào Narva. Đến cuối tháng 8 năm 1941, tập đoàn quân 16 cắt đứt con đường sắt Moskva - Leningrad tại tuyến Tosno, Lyuban, Chudovo và tiến đến phía Nam hồ Ilmen, đe doạ cô lập Leningrad từ phía Tây Nam và dự kiến hội quân với quân đội Phần Lan tại bờ Đông hồ Ladoga. Tuyến đường sắt cuối cùng đến Leningrad chấm dứt hoạt động đến ngày 30 tháng 8. Ngày 23 tháng 8, Bộ Tổng tư lệnh tối cao quân đội Liên Xô quyết định chia Phương diện quân Bắc thành Phương diện quân Leningrad và Phương diện quân Karelia.
Đến ngày 8 tháng 9, con đường cuối cùng liên lạc với thành phố bị cắt đứt khi quân Đức tiến tới hồ Ladoga ở Orekhovets (???) và Shlisselburg. Các trận pháo kích bắt đầu từ ngày 8 tháng 9 với sự tham gia của 178 khẩu pháo. Ngày 7 tháng 9, do phải điều tập đoàn quân xe tăng 4 về hướng Moskva, theo chỉ thị của Hitler, quân Đức đã chuyển từ tấn công sang bao vây cô lập thành phố và không chấp nhận bất cứ một sự đầu hàng nào. Ý đồ của quân đội Đức là: "Sau khi tính đến những nhu cầu của con người tại mặt trận Leningrad, nơi đối phương tập trung một khối lượng lớn người và phương tiện vật chất thì tình hình ở đây căng thẳng cho tới lúc mà người đồng minh của chúng ta là nạn đói sẽ đến". Bên cạnh việc cô lập thành phố, Bộ chỉ huy Cụm tập đoàn quân Bắc (Đức) còn vạch một kế hoạch phá hủy thành phố một cách có hệ thống bằng không quân oanh tạc và pháo tầm xa cỡ lớn.
Phòng thủ mới và cuộc phong tỏa
Kế hoạch phòng thủ mới
Một khẩu đội pháo phòng không trên đường phố Leningrad
Ngay sau khi đến Leningrad ngày 9 tháng 9 nhận chức vụ tư lệnh Phương diện quân thay cho Nguyên soái K.E. Voroshilov được điều động đi xây dựng các đơn vị dự bị chiến lược, Đại tướng G.K. Zhukov đã yêu cầu thực hiện ngay các biện pháp phòng thủ mới:
- Rút ra một bộ phận pháo phòng không làm pháo bắn thẳng để tăng cường vũ khí cho các tuyến chống tăng;
- Tập trung hỏa lực của tất cả các pháo hạm để yểm hộ cho tập đoàn quân 42 đang phòng ngự trên dãy cao điểm Urisk (Staro panovo) - Punkovsky (Pulkovo), hướng hiểm yếu nhất trên tuyến phòng thủ phía Tây Nam thành phố;
- Xây dựng hệ thống phòng ngự có chiều sâu gồm súng chống tăng, cao xạ, mìn chống tăng, các chướng ngại vật và hào chống tăng.
- Do quân Phần Lan chưa có hành động tấn công, điều chuyển một phần lực lượng của tập đoàn quân 23 tăng cường cho tập đoàn quân 42;
- Thành lập từ 5 đến 6 lữ đoàn bộ binh độc lập lấy từ lính hải quân của Hạm đội Baltic và học viên các trường quân sự. Động viên 9 sư đoàn dân quân với quân số khoảng 96.000 người.
Ngày 10 tháng 9, tập đoàn quân 18 (Đức) được sự yểm hộ của máy bay ném bom và pháo binh hạng nặng tiếp tục công kích khu phòng ngự Urisk - Punkovsky. Việc Bộ Tư lệnh Phương diện quân điều động tập đoàn quân 23 tăng cường cho tập đoàn quân 42 đã kịp thời đẩy lùi các đợt công kích của quân Đức. Ngày 17 tháng 9, trước nguy cơ thành phố bị đánh chiếm, Bộ tư lệnh Phương diện quân Leningrad đã phải tung sư đoàn bộ binh 10 là lực lượng dự bị cuối cùng mà họ có trong tay vào cuộc phản kích. Hầu hết pháo cao xạ được rút ra khỏi nội thành và được điều đến các tuyến phòng thủ để chống lại bộ binh và xe tăng Đức. Tại địa đoạn Punkovsky, hơn 500 khẩu pháo các cỡ đã được đưa vào trận và chủ yếu sử dụng phương pháp bắn thẳng vào đội hình tấn công của quân Đức. Ngày 18 tháng 9, tập đoàn quân 54 (Liên Xô) tổ chức phản kích tại khu vực Kolpino - Puskin, buộc quân Đức phải ngừng cuộc tấn công vào khu phòng thủ Urisk - Punkovsky. Ngày 6 tháng 10 năm 1941, Thống chế Wilhelm von Leeb chuyển quân đoàn xe tăng 56 và chủ lực của Cụm tập đoàn quân Bắc về hướng Tikhvin và tiến công vào khu vực "cổ chai" Shlisselburg, phía Nam hồ Ladoga. Tập đoàn quân 54 bị tách khỏi chủ lực Phương diện quân. Mặc dù Tập đoàn quân 4 (tái lập) đã mở ngay các cuộc công kích vào sườn cánh quân chủ lực của tập đoàn quân 16 (Đức) để thủ tiêu nguy cơ bao vây Leningrad nhưng do không đủ binh lực và phương tiện nên đến ngày 18 tháng 10, tập đoàn quân 16 (Đức) đã chiếm Tikhvin, tiến đến cửa ngõ thành phố Volkhov, cắt đứt tuyến đường sắt chính từ Volkhov đi Leningrad. Chỉ có hành động kiên quyết của các tập đoàn quân 4 và độc lập 7 (Liên Xô) dưới sự chỉ huy của Đại tướng K.A. Meretskov mới chặn đứng được tập đoàn quân 16 (Đức) trên tuyến Mga, Volkhov, Tikhvin, Novgorod. Leningrad trong vòng phong toả
Trong khi đó thì tập đoàn quân 54 dưới quyền chỉ huy của Nguyên soái G.I. Kulik (do bị tách rời nên chuyển thuộc Phương diện quân Volkhov) đã hoàn toàn thụ động ngồi chờ quân Đức mặc dù họ có thể tấn công vào sườn phải quân đoàn cơ giới 41 (Đức). Động thái này của chỉ huy tập đoàn quân 54 đã dẫn đến hậu quả tai hại cho Phương diện quân Leningrad. Không bị đe dọa từ bên sườn, quân đoàn cơ giới 41 (Đức) tấn công thẳng vào Shlisselburg và siết chặt "chiếc thòng lọng" bao vây Leningrad. Ngày 19 tháng 9, không quân Đức Quốc xã mở một cuộc không kích lớn trong suốt 18 giờ liền vào Leningrad. Có đến 275 máy bay Đức tiến hành 6 đợt ném bom rải thảm liên tục từ 1 giờ 05 phút sáng đến 19 giờ tối, mở đầu cho chiến dịch bao vây, phá hoại và bóp chết Leningrad trong nạn đói và rét.
"Tồn tại hay không tồn tại"
Bảo vệ các công trình của thành phố
Ngày 8 tháng 9 năm 1941, bằng đòn tấn công chia cắt đoạn tiếp giáp giữa tập đoàn quân xung kích 4 và tập đoàn quân 54 của Liên Xô tại phía Nam hồ Ladoga, tập đoàn quân 16 (Đức) đánh chiếm đầu mối đường sắt Mga và khu vực "cổ chai" Shlisselburg. Ở phía Bắc, quân đội Phần Lan vẫn giữ phòng tuyến từ Lembolovo, vòng qua phía Bắc hồ Ladoga đến sông Svir ở phía Đông. Cụm chiến dịch ven biển của quân đội Liên Xô tại "mỏm Oranielbaum" cũng phải lùi về tuyến Petergof, Ust (???), Rudina (???). Leningrad hoàn toàn bị cắt đứt liên lạc trên bộ với đất nước Liên Xô. Tuyến đường thủy qua hồ Ladoga thường xuyên bị máy bay và pháo binh Đức quốc xã uy hiếp. Ngày 2 tháng 9 năm 1941, Adolf Hitler ra chỉ thị cho Bộ tư lệnh hải quân Đức: "Cần phải tiến đến gần thành phố này và phá hủy nó bằng một dàn pháo binh của tất cả các cỡ đại bác và máy bay ném bom tầm xa". Do bị hạm đội Baltic ngăn chặn bằng tuyến thủy lôi trên vịnh Phần Lan, Hải quân Đức phải dùng đường sắt vận chuyển các loại pháo hạm, trong đó, nhiều khẩu có cỡ nòng từ 180 mm đến 420 mm đến vùng phụ cận Tây Nam và Nam Leningrad để bắn phá thành phố. Từ các trận địa pháo hạng nặng đặt tại Krasnoye Selo, Krasno Vardeisk, Sluck (???), quân đội Đức Quốc xã tiếp tục gia tăng các cuộc pháo kích vào Leningrad. Máy bay ném bom của Đức hầu như làm chủ không phận Leningrad. Trong thời gian vây hãm Leningrad, quân đội Đức Quốc xã đã sử dụng khoảng 150.000 quả đạn pháo, hơn 100.000 quả bom cháy, khoảng 4.600 quả bom mảnh để hủy hoại thành phố. Nhiều công trình quan trọng trong thành phố sập đổ. Người dân Leningrad đã dựng những lô cố (Блокада) để bảo vệ các công trình kiến trúc và nghệ thuật quan trọng của thành phố.
Vấn đề lương thực thực phẩm Tem phiếu cấp phát thực phẩm của thành phố Leningrad trong những ngày bị phong toả
Đến ngày 2 tháng 9, khẩu phần ăn của người dân Leningrad bắt đầu bị cắt giảm: một công nhân được cung cấp 600 g bánh mì một ngày, lao động bình thường được 400 g, trẻ em và các thành phần khác được 300 g một ngày. Một lượng lớn ngũ cốc, bột và đường bị phá hủy vào ngày 8 tháng 9. Một vài sau khi cuộc bao vây bắt đầu, người ta vẫn có thể ăn trong một vài nhà hàng nên chỉ trong một thời gian ngắn như vậy, các nhà hàng này đã tiêu thụ hết 12% mỡ và 10% thịt dự trữ của thành phố. Đầu mùa đông năm 1941, những khó khăn lớn về lương thực thực phẩm đã xuất hiện. Do mặt hồ Ladoga bắt đầu đóng băng, các trận bão tuyết hoành hành khiến cho tuyến tiếp tế đường thủy phải ngừng hoạt động. Nạn đói bắt đầu đe doạ. Từ ngày 20 tháng 11, khẩu phần thực phẩm của quân đội và dân thường đã phải rút xuống vài lần: Mỗi công nhân chỉ được 250 g bánh mì/ngày; người sống nương nhờ và trẻ em được 125 g bánh mì/ngày; những người lính trên tuyến 1 và trên các tàu chiến được nhận mỗi ngày 300 g bánh mì và 100 g bánh bicote. Tại nhiều điểm phân phát lương thực trong thành phố, người ta đã phải dùng đến cân tiểu ly để cân chính xác từ gam cho một khẩu phần bánh mì mà giờ đây đã trở nên quý hơn vàng. Khẩu phần bánh mì trộn mùn cưa của quân nhân và thường dân Leningrad trong những ngày bị quân đội Đức Quốc xã bao vây (hiện vật tại Bảo tàng Sankt-Peterburg)
Một đội tàu nhỏ của hồ Ladoga được trang bị thô sơ và dễ dàng bị máy bay Đức ném bom phá hủy, mấy chiếc xà lan chở ngũ cốc bị chìm vào tháng 9. Một số được trục vớt lên bằng các đội thợ lặn và ngũ cốc bị ẩm này được sử dụng để làm bánh mì nướng. Khi tất cả các nguồn dự trữ bột mì đã hết một số nguồn khác như cellulose và bán khô dầu cho súc vật được tận dụng. Yến mạch cho ngựa cũng được trưng dụng làm thực phẩm, còn ngựa thì được nuôi bằng lá cây. Khi 2000 tấn lòng cừu được tìm thấy ở bến cảng, một món giò đã được làm từ số lòng cừu này. Sau đó, thịt cũng được thay thế bằng giò và da bê thối. Trong suốt cuộc bao vây, có tổng cộng năm đợt giảm khẩu phần: ngày 2 tháng 9, 10 tháng 9, 1 tháng 10, 13 tháng 11 và lần cuối cùng vào ngày 20 tháng 11 năm 1941. Mức độ thiếu ăn được khắc phục phần nào nhờ những vườn cây tự trồng trong các vùng đất của thành phố vào năm 1943.
Vấn đề năng lượng
Cuối tháng 9, nguồn cung cấp dầu và than đá bắt đầu cạn kiệt. Nguồn năng lượng duy nhất vào lúc này là các loại củi. Ngày 8 tháng 10, Ban chỉ huy quân quản và hội đồng thành phố Leningrad (Ленгорисполком) quyết định chặt toàn bộ cây tại các quận Pargolovo và Vsevolzhskiy ở phía Bắc thành phố. Đến ngày 24 tháng 10, hầu như tất cả các loại cây đã bị đốn bỏ để lấy củi. Đến đầu tháng 11, Leningrad đã sử dụng hết những dự trữ nhiên liệu cuối cùng. Do sự thiếu thốn năng lượng, nhiều nhà máy phải đóng cửa vào tháng 11 và tất cả các dịch vụ vận chuyển công cộng đều không thực hiện được. Hệ thống cấp nước của thành phố bị bom và đạn pháo phá hủy. Nguồn nước sử dụng chủ yếu lấy từ sông Neva dưới làn đạn đại liên của quân Đức ở bên kia bờ sông quét sang. Vào mùa hè năm 1942, một số đường ray trong nội bộ thành phố được khôi phục, nhưng các loại xe điện, xe buýt chạy trên đường ray và xe goòng đẩy tay vẫn không thể tới thành phố cho đến khi vòng phong tỏa bị phá vỡ. Việc sử dụng năng lượng bị hạn chế ở nhiều nơi, ngoại trừ căn cứ trung tâm chỉ huy đặt tại điện Smolny, hội đồng thành phố, các căn cứ phòng thủ và một số trung tâm khác.
Tanya Savicheva và những trang nhật ký mùa đông năm 1941-1942
Việc thiếu chất đốt cũng ảnh hưởng nghiêm trọng đến thường dân còn mắc kẹt tại thành phố không kém gì sự thiếu thốn lương thực, thực phẩm. Họ đã phải chịu đựng hai mùa đông khắc nghiệt nhất của vùng Vòng Bắc cực lạnh giá từ năm 1941 đến năm 1943. Nhiều người đã chết trong hoàn cảnh vừa đói, vừa rét. Tại Nhà lưu niệm của nghĩa trang Piskarevskoye, nơi chôn cất hơn 600.000 người dân Leningrad chết vì đói và rét trong gần 900 ngày bị phong tỏa còn lưu trữ những trang nhật ký của Tanya Shavicheva, một thiếu nhi 11 tuổi với những dòng chữ to ghi lại thời điểm những người thân của em qua đời:
:"Zhenia chết lúc 12 giờ 30 phút chiều ngày 28 tháng 12 năm 1941 :Granny chết lúc 3 giờ chiều ngày 25 tháng 1 năm 1942 :Lyoka chết lúc 5 giờ sáng ngày 17 tháng 3 năm 1942 :Bác Vasia chết lúc 2 giờ sáng ngày 13 tháng 4 năm 1942 :Bác Liosa chết lúc 5 giờ chiều ngày 10 tháng 5 năm 1942 :Mẹ chết lúc 7 giờ 30 phút ngày 13 tháng 5 năm 1942 :Shavichev đã chết. :Tất cả mọi người đã chết :Bỏ lại mình cô đơn"
Cuối cùng, chính Tanya Shavicheva cũng không tránh khỏi cái chết. Mặc dù được đưa đến nơi sơ tán nhưng em đã chết năm 1943 vì kiệt sức.
Hậu phương tại chỗ của mặt trận
Nữ công nhân Liên Xô tại xưởng đúc thép duy sản xuất trong thời gian thành phố Leningrad bị vây hãm. tháng 1 năm 1942
Cuộc tấn công và phong tỏa kéo dài của quân đội Đức Quốc xã đã không thể bóp chết được Leningrad. Trong những ngày chiến đấu để bảo vệ Leningrad, hơn nửa triệu thường dân đã tham gia xây dựng hàng trăm km chiến hào, hàng trăm km hào chống tăng, hàng rào dây thép gai, vật cản chống tăng, hàng nghìn hỏa điểm kiên cố bằng bê tông và ụ súng bằng gỗ đắp đất. Các nhà máy được lệnh sản xuất hàng nghìn chướng ngại vật bằng thép và bê tông cốt thép, có trọng lượng từ 0,5 đế 3 tấn dùng để ngăn cản xe tăng. Nhiều ngôi nhà bằng đá được kết cấu lại thành những pháo đài nhỏ. Mặc dù bị thu hẹp sản xuất do phải sơ tán về hậu phương và thiếu hụt nghiêm trọng về nguyên liệu, nhiên liệu nhưng các nhà máy tại Leningrad vẫn cố gắng duy trì hoạt động, vẫn sản xuất được xe tăng, đại bác, súng cối, súng máy, tiểu liên, súng trường, các loại đạn dược. Việc sửa chữa lại vũ khí, phương tiện quân sự bị hư hỏng cũng được tiến hành song song với sản xuất. Các nhà máy quân sự ở Leningrad là một trong những cơ sở đầu tiên sản xuất loại pháo phản lực Katyusha BM-13.
Kể từ khi bị cắt đứt giao thông trên bộ với bên ngoài, Phương diện quân Leningrad chỉ còn có thể nhận được súng bộ binh, đạn và pháo hạng nhẹ từ nội địa Liên Xô. Việc bù đắp hiệt hại về vũ khí nặng, nhất là xe tăng phải trông cậy vào các nhà máy tại thành phố, trong đó có nhà máy Kirov chuyên sản xuất xe tăng hạng nặng KV. Các nhà máy cơ khí khác cũng được huy động vào việc bảo đảm vũ khí, đạn dược và các loại quân trang, quân dụng cho mặt trận. Chỉ trong 6 tháng cuối năm 1941, các nhà máy này đã sản xuất được 713 xe tăng, 480 xe bọc thép, 58 tàu hỏa bọc thép, hơn 3.000 súng chống tăng, gần 10.000 pháo, súng cối các cỡ và hơn 3 triệu viên đạn pháo. Số vũ khí khí tài này đã góp phần bù đắp những thiệt hại về vật chất cho Phương diện quân trong tình trạng bị bao vây.
"Con đường sống"
Đoàn tàu vận tải 310 chở lương thực qua hồ Ladoga tiếp tế cho Leningrad ngày 1 tháng 9 năm 1942. (Ảnh của RIA NOVOSSTI)
Trong những ngày bị phong toả, hồ Ladoga trở thành "con đường sống" (Дорога жизни) của thành phố Leningrad. Đầu năm 1942, khi mặt băng trên hồ Ladoga đã rắn chắc, Liên Xô đã tổ chức vận chuyển cho mặt trận Leningrad súng đạn, lương thực, thực phẩm, thuốc men và nhiên liệu. Tuy với số lượng hạn chế do các đoàn xe ô tô có trọng tải không lớn chạy theo các tuyến đường đã được xe dọn tuyết mở ra trên mặt băng nhưng đã giảm bớt nhiều khó khăn cho thành phố. Mặc dù hoạt động dưới những trận không kích thường xuyên của không quân Đức Quốc xã, đoàn xe vẫn đến được Leningrad và khi quay về, họ chở theo thương binh, những người ốm, phụ nữ, người già và trẻ em.
"Con đường chiến thắng"
Chuyến xe lửa đầu tiên của Liên Xô chở bột mỳ qua con đường sắt dã chiến đến với Leningrad, tháng 2 năm 1943
Sau khi hợp vây tập đoàn quân đoàn quân 6 và một phần tập đoàn quân xe tăng 4 tại Stalingrad và chắc chắn sẽ đánh tan đạo quân Đức này, Bộ Tổng tư lệnh tối cao quân đội Liên Xô vạch kế hoạch chiến dịch "Tia lửa" ("Искра") nhằm chọc thủng vòng phong tỏa của quân đội Đức để tiếp tế cho Leningrad. Đêm 11 rạng ngày 12 tháng 1 năm 1943, Quân đội Liên Xô thuộc hai phương diện quân Volkhov và Leningrad đã đẩy lùi quân Đức ra khỏi khu vực "cổ chai" Shlisselburg, chiếm được một đoạn hành lang rộng từ 15 đến 30 km phía Nam hồ Ladoga. Đêm 18 rạng ngày 19 tháng 1 năm 1943, sau khi hai cánh quân tiên phong của hai phương diện quân gặp nhau, Đài phát thanh Liên Xô loan tin: "vòng phong tỏa Leningrad đã bị phá vỡ". Ngay sau khi chiếm được khu vực Shlisselburg, Hội đồng quốc phòng Nhà nước Liên Xô đã quyết định xây dựng cấp bách một tuyến đường sắt dài 36 km từ ga Zhikharevo đến Shlisselburg. Mặc dù trong khu vực mới chiếm lại được vẫn còn đầy mìn, bom và đạn pháo chưa nổ; mặc dù dưới thời tiết giá buốt dưới 0 độ với những trận tuyết rơi liên tiếp, chỉ sau 15 ngày, tuyến đường sắt này đã đi vào hoạt động. Cùng với con đường sắt dã chiến, người dân Leningrad còn xây dựng một chiếc cầu tạm qua sông Neva. Ngày 11 tháng 2 năm 1943, những chuyến tàu chở bột mỳ, than đá, dầu, quặng kim loại, vũ khí đầu tiên đã đến được Leningrad. Người dân Leningrad gọi đây là "con đường chiến thắng" (Дорога победы). Cùng với "con đường sống", "con đường chiến thắng" cũng đã đi vào lịch sử như một biểu tượng của thành phố. Nó góp phần đẩy lùi những ngày sống trong đói rét của người dân Liên Xô tại thành phố này mặc dù bom đạn vẫn chưa ngưng nổ trên các đường phố. "Con đường chiến thắng" đánh dấu bước tiếp theo sự phá sản đối với các kế hoạch của quân đội Đức Quốc xã định bóp chết thành phố trong lửa đạn, giá rét và nạn đói.
Chiến dịch này được mở với mục tiêu "chặt đứt" khu vực "cổ chai" Shlisselburg để nối thông thành phố Leningrad với "đất lớn" của quân đội Liên Xô. Quyết tâm của Bộ tư lệnh hướng Tây Bắc là rất cao, song binh lực của quân đội Liên Xô trên hướng này khá hạn chế. Các tập đoàn quân 42 và 55 đang phải phòng thủ kịch liệt ở phía Nam sông Neva từ Urisk qua Pulkovo, Pushkin đến phía Đông Kolpino để ngăn chặn Tập đoàn quân 18 (Đức) đang tấn công thành phố. Phòng thủ khu vực dọc sông Neva phía Đông Leningrad chỉ có Cụm phòng ngự Neva với binh lực vỏn vẹn 3 sư đoàn bộ binh và một số cụm pháo. Các tập đoàn quân 4 và 52 đang phải chống đỡ cuộc tấn công của quân Đức tại khu vực Novgorod - Chudovo để cố giữ con đường sắt Moskva - Leningrad. Trong số các lực lượng còn lại chỉ có Tập đoàn quân 54 do Nguyên soái pháo binh G. I. Kulik chỉ huy mới được thành lập ngày 5 tháng 9 năm 1941 gồm các sư đoàn bộ binh 285, 286, 310, 314, Lữ đoàn xe tăng 122 và Tiểu đoàn xe tăng 119 còn tương đối sung sức. Bộ Tổng tư lệnh hướng Tây Bắc (Liên Xô) hy vọng vào sự bất ngờ của cuộc phản công khi quân đội Đức Quốc xã chưa kịp củng cố các vị trí phòng thủ tại khu vực Sinyavino (Molodtsovo), nơi có ngõ cụt của con đường sắt từ Mga lên. Trước khi cuộc tấn công diễn ra, STAVKA ra chỉ thị giải thể Bộ Tổng tư lệnh hướng Tây Bắc. Nguyên soái K. E Voroshilov trở thành tư lệnh Phương diện quân Leningrad.
Ngày 10 tháng 9, sau khi cuộc tấn công của Quân đoàn xe tăng 41 (Đức) bị chặn lại trên khu vực Pushkin - Pulkovo, Tập đoàn quân 54 phát động cuộc phản công vào Sinyavino. Các đòn phản công của Tập đoàn quân 54 tiến triển rất chậm chạp do thiếu pháo binh bắn phá dọn đường và lực lượng thiết giáp khá mỏng, chỉ đủ để yểm hộ cho bộ binh tấn công mà không thể tạo thành một mũi khoan thép. Trong ba ngày đầu từ 10 đến 12 tháng 9, các sư đoàn bộ binh của Tập đoàn quân 54 chỉ có thể tiến lên với tốc độ từ 2 đến 3 km/ngày trên hướng Turyshkino, Muya, Voronovo (???). Riêng Sư đoàn bộ binh 286 thu được nhiều thành công hơn cả khi ngày 12 tháng 9, họ đột nhập được vào thị trấn Voronovo.
Cuộc tấn công của Sư đoàn bộ binh 310 trên cánh trái của Tập đoàn quân 54 (Liên Xô) gặp nhiều tổn thất hơn cả. Ngày 10 tháng 9, Trung đoàn bộ binh 1080 của sư đoàn này kéo quân vượt sông Chernaya, dễ dàng đánh chiếm làng Gontovaya Lipka (Priladozhsky) và phát triển tấn công dọc theo Quốc lộ số 7. Tuy nhiên, đến ngày 12 tháng 9, trung đoàn này đã rơi vào ổ phục kích của pháo binh Đức, bị thương vong nặng và buộc phải rút lui. Trung đoàn bộ binh 1082 sau khi tiêu diệt tiền đồn của quân Đức tại làng Gaitolovo (???), khi tiến công về hướng Tây nhằm cắt đứt con đường sắt Mga - Sinyavino đã bị quân Đức phản kích vào hai bên sườn, buộc phải lùi về vị trí xuất phát. Trung đoàn bộ binh 1084 cũng thất bại khi công kích vượt đường sắt sang hướng Porechi (???). Phát hiện cuộc phản công của quân đội Liên Xô, tướng Ernst Busch điều động Sư đoàn xe tăng 12 thuộc Quân đoàn xe tăng 3 (được phối thuộc cho Tập đoàn quân 16) từ khu vực Tosno - Lyuban kéo lên Sinyavino hợp lực với Sư đoàn cơ giới 36 chặn kích. Từ ngày 14 tháng 9 đến ngày 17 tháng 9, các trận đánh giằng co giữa bộ binh Liên Xô và xe tăng Đức diễn ra ác liệt quanh khu vực Turyshkino, Muya và Voronovo. Ngày 18 tháng 9, có thêm Sư đoàn bộ binh 126 (Đức) đến tăng viện. Tương quan lực lượng nghiêng về phía quân đội Đức Quốc xã.
Ngày 19 tháng 9, quân Đức bắt đầu phản công dưới sự yểm hộ của pháo binh, xe tăng và không quân. Không đủ sức tiếp tục chiến dịch, Tập đoàn quân 54 (Liên Xô) buộc phải dừng tấn công tại tuyến Turyshkino, Muya, Voronovo, Porechi, Khandrovo (???), Mikhalevo (???). Thậm chí, họ còn không thể giữ được tuyến xuất phát tấn công bên cánh trái. Quân đoàn bộ binh 1 Đức tràn qua khu phòng thủ Memino (???) và công kích Volkhov, mở đầu cho các đòn tấn công trên hướng Volkhov - Tikhvin, buộc Tập đoàn quân 54 (Liên Xô) phải tựa lưng vào hồ Ladoga mà phòng ngự. Để tăng cường cho hướng Volkhov, STAVKA buộc phải điều Tập đoàn quân 4 do Trung tướng V. F. Yakovlev chỉ huy gồm các sư đoàn bộ binh 285, 292, 311 và Sư đoàn kỵ binh 7 từ lực lượng dự bị chiến lược ra bịt lỗ thủng rộng đến 60 km trên hướng Volkhov.
Đối diện với Tập đoàn quân xe tăng 4 (Đức) là Tập đoàn quân 52 đã suy yếu sau các trận phòng thủ tại khu vực Chudovo, Tập đoàn quân 54 cũng đã tổn thất sau chiến dịch phản công Sinyavino lần thứ nhất và Tập đoàn quân độc lập 4. Tập đoàn quân 54 gồm các sư đoàn bộ binh 3, 128, 286, 294 và Lữ đoàn sơn chiến 1 phòng thủ trên địa đoạn từ Voronovo đến đầm lầy Maluksinsky dài 35 km. Tuyến phòng thủ của Tập đoàn quân độc lập 4 gồm các sư đoàn bộ binh 44, 92, 191, 285, 292, 310, 311 và Sư đoàn kỵ binh 27 kéo từ đầm lầy Maluksinsky đến Kirishi có chiều dài 50 km. Tập đoàn quân 52 gồm các sư đoàn bộ binh 111, 259, 267 và 288 bố trí phòng thủ dọc sông Volkhov từ Kirichi đến phía Bắc Novgorod trên một trận tuyến dài đến 80 km. Khởi đầu chiến dịch, cả ba tập đoàn quân Liên Xô chỉ có quân số 135.000 người, 475 khẩu pháo và 59 xe tăng còn hoạt động được. Quân đoàn xe tăng 39 và các quân đoàn bộ binh 1, 38 (Đức) có 140.000 quân, khoảng trên 1.000 pháo và súng cối và trên 200 xe tăng. Tuy không chiếm ưu thế lớn về người nhưng quân Đức có ưu thế vượt trội về xe tăng và pháo binh.
Ngày 16 tháng 10, các sư đoàn bộ binh 11 và 21 (Đức) vượt qua tuyến phòng thủ của quân đội Liên Xô ở phía Nam Volkhov. Sư đoàn bộ binh 21 (Đức) đánh chiếm một bàn đạp tấn công phía Nam Volkhov. Bất chấp sức kháng cự của các sư đoàn bộ binh 267 và 288, Sư đoàn bộ binh 21 (Đức) đánh chiếm Kirishi và tấn công lên hướng Gorodishche. Ngày 18 tháng 10, Sư đoàn xe tăng 12 và Sư đoàn cơ giới 20 vượt sông Volkhov, đánh chiếm đầu cầu Gruzino và mở cuộc tấn công chính trên hướng Budogoshch. Sư đoàn xe tăng 8 và Sư đoàn cơ giới 18 cùng một bộ phận Sư đoàn bộ binh 254 cơ động tiến công theo hướng chung đến Malaya Vishera. Ngày 20 tháng 10, Tập đoàn quân 52 (Liên Xô) buộc phải rút lui về phía Đông và Đông Nam, bỏ lại cả hai vị trí Malaya Vishera và Bolshoy Vishera. Hành động này đã tạo ra một chỗ hở giữa Tập đoàn quân 52 và Tập đoàn quân 4 (Liên Xô) tại khu vực Budogoshch, Ngày 22 tháng 10, quân Đức, không để mất thời gian, đã giáng đòn công kích rất mạnh bằng xe tăng và cơ giới vào chỗ hở đó.
Ngày 9 tháng 11, Tập đoàn quân độc lập 7 (Liên Xô) đang phòng thủ chống lại quân Phần Lan trên tuyến sông Svir cũng phải điều động Lữ đoàn xe tăng 46 và Trung đoàn lựu pháo 1061 xuống hướng Volkhov - Tikhvin để phối hợp với các tập đoàn quân 4 và 54 loại trừ mối đe dọa trên hướng này. Có thêm quân tăng viện, Bộ tư lệnh Phương diện quân Tây Bắc thành lập 3 cụm quân xung kích xung quanh Tikhvin. Cụm Bắc gồm Sư đoàn bộ binh 44 (thiếu 1 trung đoàn), Trung đoàn bộ binh 1067 và Lữ đoàn xe tăng 46 bao vây Bắc và Tây Bắc Tikhvin. Cụm phía Đông gồm các sư đoàn bộ binh 65, 191, Sư đoàn kỵ binh 27, một trung đoàn của Sư đoàn bộ binh 44 và các trung đoàn xe tăng 121, 128 của Sư đoàn xe tăng 60 trấn giữ phía Đông và Đông Nam Tikhvin. Cụm phía Nam gồm Sư đoàn bộ binh cận vệ 4, các sư đoàn bộ binh 92, 292, Trung đoàn xe tăng 120 của Sư đoàn xe tăng 60 trấn giữa phía Nam và Tây Nam Tikhvin. Binh lực tại mặt trận đã tương đối cân bằng. Quân Đức buộc phải ngừng cuộc tấn công và thiết lập các tuyến phòng thủ tại Tikhvin. Ngày 19 tháng 11, giai đoạn phòng ngự trên hướng Tikhvin của quân đội Liên Xô kết thúc.
Trên hướng Volkhov
Quân đội [[Liên Xô rút lui]]
Tại cánh Bắc của chiến dịch, Quân đoàn bộ binh 1 (Đức) phối hợp với Sư đoàn cơ giới 36 phát triển các đòn tấn công vào Tập đoàn quân 54 (Liên Xô) tại khu vực Voybokalo - Volkhov. Chiến sự chủ yếu diễn ra dọc theo bờ Tây sông Volkhov. Ngày 20 tháng 10, Sư đoàn bộ binh 11 (Đức) tập trung giáng đòn công kích vào Sư đoàn bộ binh 285 (Liên Xô) đang phòng thủ tại khu vực Posadnikov Ostrov, buộc sư đoàn 285 (Liên Xô phải rút lui 5 đến 10 km về phía Bắc. Bị hở sườn, Sư đoàn bộ binh 311 (Liên Xô cũng buộc phải rút lui. Sư đoàn bộ binh 21 (Đức) chiếm giữ đầu cầu ở bờ phải sông Volkhov và bắt đầu chia cắt sư đoàn bộ binh 292 khỏi đội hình chính của Tập đoàn quân 54 (Liên Xô). Ngày 30 tháng 10, quân Đức xâm nhập địa bàn tỉnh Volkhov.
Sau khi tạm dừng 2 ngày để bố trí lại binh lực, ngày 14 tháng 11 quân Đức tiếp tục tấn công với lực lượng đặc nhiệm được đặt tên là Cụm tác chiến "Beckmann". Cụm này bao gồm Sư đoàn bộ binh 123, 223 và một trung đoàn xe tăng của Sư đoàn xe tăng 8. Chính trong ngày này, Sư đoàn bộ binh 311 (Liên Xô) đã được thay thế bởi Sư đoàn bộ binh cận vệ 3 và Lữ đoàn xe tăng 122. Các đơn vị này đã chặn đứng được cuộc tấn công của Cụm tác chiến Beckmann (Đức) cách Volkhov 6 km về phía Nam vào ngày 24 tháng 11. Ngày 28 tháng 11, Tập đoàn quân 54 đã nối được liên lạc với Tập đoàn quân 4. 6 km phía Nam Volkhov là điểm đến xa nhất của quân đội Đức Quốc xã tại cánh Bắc của chiến dịch. Từ ngày 29 tháng 11 đến ngày 3 tháng 12, các sư đoàn bộ binh 11, 21 (Đức) tiếp tục công kích ra tuyến sông Syas nhưng đòn đánh "với tầm" của quân Đức vẫn không thể tiến đến con đường sắt Volkhov - Petrozavodsk.
Trận phản công Sinyavino lần thứ hai
Cuộc tấn công của quân đội Liên Xô từ khu vực đầu cầu Moskovskaya Dubrovka
Nhằm giảm bớt sức ép của quân đội Đức Quốc xã lên tuyến phòng thủ của Tập đoàn quân 54 (Liên Xô) đang giữ khu vực Volkhov, trong khi Tập đoàn quân xe tăng 4 (Đức) đang tấn công thọc sâu trên hướng Tikhvin, Bộ tư lệnh Phương diện quân Leningrad và Bộ tư lệnh Phương diện quân Tây Bắc quyết định nối lại cuộc tấn công trên hướng Sinyavino với hai mục đích: Kéo Quân đoàn bộ binh 1 (Đức) trở lại và nếu có điều kiện thì xóa bỏ khu vực "cổ chai" Shlissenburg, nối liên lạc giữa hai phương diện quân và mở lại tuyến giao thông trên bộ để tiếp tế cho Leningrad.
STAVKA muốn chặn trước cuộc tấn công tiếp theo của quân đội Đức Quốc xã trên hướng Volkhov và đã ra Chỉ lệnh số 002.984 ngày 14 tháng 10 yêu cầu Phương diện quân Leningrad và Phương diện quân Tây Bắc phối hợp tấn công để tiêu diệt cụm quân Shlissenburg - Sinyavino trên cánh phải của Tập đoàn quân 18 (Đức). Kế hoạch dự kiến sử dụng Tập đoàn quân 55 (mới thành lập ngày 1-9-1941) do thiếu tướng I. G. Lazarev chỉ huy gồm các sư đoàn bộ binh 70, 90, 168 và 237 cùng các sư đoàn dân quân 1 và 4 Leningrad tấn công từ khu vực đầu cầu Ivanovo, kéo Sư đoàn cơ giới 36 (Đức) khỏi Cụm cứ điểm Mga, làm dãn đội hình phòng ngự của quân Đức tại khu vực Sinyavino. Cụm tác chiến Neva gồm các sư đoàn bộ binh 86, 115 và 265 được tăng cường Lữ đoàn xe tăng hạng nặng 123 sẽ tấn công vượt sông Neva tại khu vực Moskovsky Dubrovka đánh vào phía Tây Cụm cứ điểm Sinyavino của quân Đức. Tuy nhiên, sau khi xét thấy chiếc cầu phao yếu ở khu vực Dubrovka không thể chịu được trọng lượng của các xe tăng KV-1, Lữ đoàn xe tăng 123 được phối thuộc cho Tập đoàn quân 55.
Từ hướng Gaytolovo (???), Tập đoàn quân 54 gồm các sư đoàn bộ binh cận vệ 3, cận vệ 4, 128, 286, 294 và 310 được tăng cường Lữ đoàn xe tăng 122 và Tiểu đoàn xe tăng 16 có nhiệm vụ tấn công vào phía Đông các cụm phòng ngự của quân Đức. Cánh quân chủ yếu gồm các sư đoàn bộ binh cận vệ 3, 128, 310 cùng Lữ đoàn xe tăng 122 và Tiểu đoàn xe tăng 16 sẽ tấn công dọc theo Quốc lộ số 7 đánh vào Sinyavino. Cánh quân thứ yếu gồm các sư đoàn bộ binh 286 và cận vệ 4 sẽ tiến công về Mga. Sư đoàn bộ binh 294 làm nhiệm vụ phòng ngự ở khu vực giữa mặt trận. Quân đội Liên Xô huy động vào chiến dịch này khoảng 63.000 quân, 475 pháo và 97 xe tăng. Quân Đức có khoảng 54.000 sĩ quan và binh lính, 450 pháo và trên 120 xe tăng.
Sáng 20 tháng 10, Tập đoàn quân 54 bắt đầu tấn công nhưng cũng như chiến dịch Sinyavino lần thứ nhất, các sư đoàn bộ binh tiến lên rất chậm chạp. Chỉ có Sư đoàn bộ binh cận vệ 4 và Tiểu đoàn xe tăng 16 là đạt được chiều sâu đáng kể khi ngày 23 tháng 10, họ tiến đến Tortolova (???). Trên các hướng Estolsky (???) đi Mga, các trung đoàn bộ binh Liên Xô tiếp tục bị quân Đức đánh bật về tuyến xuất phát và tổn thất khá nặng, có trung đoàn chỉ còn lại 300 tay súng. Trên hướng Dubrovka, Sư đoàn bộ binh 86 (Liên Xô) đã chiếm được một đầu cầu nhỏ trên bờ Đông sông Neva nhưng không thể phát triển được trước các đòn phản kích liên tục của Sư đoàn bộ binh 28 (Đức) có một trung đoàn xe tăng kéo từ Mga lên trợ chiến. Tại đầu cầu Ivanovo, chỉ sau hai ngày phản kích, Sư đoàn SS Polizei và Sư đoàn bộ binh 121 (Đức) đã chặn đứng cuộc tấn công của các sư đoàn bộ binh 168 và 237 (Liên Xô), đánh bật các sư đoàn này về bờ Tây sông Tosna. Vì để thất bại ngay trong những ngày đầu tấn công, ngày 26 tháng 10, STAVKA ra lệnh cách chức Tư lệnh Phương diện quân Leningrad của tướng I. I. Fedyuninsky, giáng xuống là Tư lệnh tập đoàn quân 54. Tướng M. S. Khozin được bổ nhiệm là tư lệnh phương diện quân này. Ngày 28 tháng 10, tình hình mặt trận trên hướng Tikhvin - Volkhov xấu đi đã buộc STAVKA phải ra lệnh dừng cuộc tấn công để bố trí lại lực lượng.
Ngày 31 tháng 10, tướng M. S. Khozin trình lên nguyên soái B. M. Shposnikov, Tổng tham mưu trưởng quân đội Liên Xô một kế hoạch tấn công mới. Theo đó, Phương diện quân Leningrad sẽ tăng cường lực lượng cho khu vực đầu cầu Moskovsky Dubrovka. Ngoài các sư đoàn bộ binh 86, 115 và 265 đã có mặt tại đây, các sư đoàn bộ binh 10, 11, 168, 177, Sư đoàn 20 của NKVD và Lữ đoàn hải quân đánh bộ 4 cũng được huy động. Ngày 1 tháng 11, quân đội Liên Xô tiếp tục tấn công. Tuy nhiên, quân Đức đã đợi sẵn cuộc tấn công của Phương diện quân Leningrad tại khu vực đầu cầu này. Các sư đoàn bộ binh sơn chiến 5, 28, 227 và Sư đoàn cơ giới 36 (Đức) được huy động ra chặn kích. Hỏa lực pháo binh Liên Xô khá mỏng và không đủ đạn nên đã không chế áp được các hỏa điểm súng máy và các trận địa pháo của quân Đức trên khu vực từ Gorodozh (???) đến Anzhensky (???). Bộ binh Liên Xô bị thiệt hại nặng bởi hỏa lực súng máy, súng cối và pháo của quân Đức. Bất chấp thiệt hại, các sư đoàn bộ binh 86, 115 và 168 vẫn tiếp tục tấn công nhưng không thể ra khỏi khu vực đầu cầu Dubrovka nhỏ hẹp phía Tây con đường đê dọc bờ Đông sông Neva.
Cuộc chiến tại khu vực đầu cầu Dubrovka tiếp tục kéo dài, giằng co ác liệt đến cuối tháng 12 năm 1941. Theo số liệu của quân đội Đức Quốc xã, từ 15 tháng 11 đến 27 tháng 12 năm 1941, tại khu vực đầu cầu này, quân đội Liên Xô đã tổ chức 79 trận đánh cấp đại đội, hơn 60 trận đánh cấp tiểu đoàn, 50 trận đánh cấp trung đoàn và 16 trận đánh cấp sư đoàn, trong số đó, có 61 trận đánh có xe tăng tham gia.
Trên hướng đầu cầu Ivanovo, cuộc tấn công từ khu vực Kolpino của các sư đoàn bộ binh 70, 90, 125, 268 có sự yểm hộ của 2 tiểu đoàn xe tăng nhằm tiến ra tuyến sông Tosno cũng không thành công. Các sư đoàn bộ binh 43, 85 và lữ đoàn xe tăng 123 cũng không thể bám trụ được trên bờ Đông sông Tosna. Mọi cuộc đột kích đều bị các sư đoàn bộ binh 121 và 122 (Đức) đánh bật trở lại. Trên cánh Đông của chiến dịch, các sư đoàn bộ binh cận vệ 3, 128 và 310 cùng Lữ đoàn xe tăng 122 và Tiểu đoàn xe tăng 16 không thể tiến ra đến Sinyavino trước sức phòng thủ quyết liệt của Sư đoàn bộ binh 223 (Đức). Các sư đoàn bộ binh 286 và 294 hầu như phải chuyển sang phòng ngự. Còn sư đoàn bộ binh cận vệ 4 sau khi cố gắng tiến đến Novo Mikhailovsky (???) đã bị đánh bật về Tortolovo (???), nơi họ bắt đầu cuộc tấn công.
Sau khi ngăn chặn được cuộc phản công của quân đội Liên Xô tại khu vực Mga - Sinyavino, quân đội Đức Quốc xã vẫn tiếp tục thực hiện các đòn tấn công trên khu vực Tikhvin để đạt mục tiêu kết nối liên lạc với quân Phần Lan trên eo đất Karelia. Ngày 10 tháng 11, Sư đoàn xe tăng 12 và một phần Sư đoàn xe tăng 8 (Đức) mở cuộc tấn công dọc theo con đường bộ từ Tikhvin lên Khomushka (???). Cùng ngày, các sư đoàn cơ giới 18 và 20 (Đức) tấn công từ Tikhvin sang phía Đông theo hướng Staryi Galichno (???). Sau một ngày tấn công, cả hai cánh quân này đã tiến lên được từ 6 đến 8 km. Phần còn lại của Sư đoàn xe tăng 8 (Đức) làm nhiệm vụ yểm hộ bên sườn phải của các sư đoàn cơ giới 18 và 20. Sư đoàn bộ binh 61 được điều động từ Lipnaya Gorka lên Tikhvin thế chỗ cho Sư đoàn xe tăng 12. Tuy nhiên, đòn tấn công với tầm của Quân đoàn xe tăng 39 (Đức) không còn mạnh như trước do nó đã bị thiệt hại khá lớn trong quá trình tấn công lên Tikhvin. Các sư đoàn xe tăng chỉ còn lại khoảng 30% số xe tăng hoạt động được. Sư đoàn xe tăng 12 chỉ còn lại 52 xe tăng trong số 71 xe tăng khi bắt đầu tấn công. Riêng Sư đoàn xe tăng 8 chỉ còn lại 38 xe tăng hoạt động được so với 91 xe tăng lúc ban đầu.
Quân đội Liên Xô không để cho quân đội Đức Quốc xã tiến sâu hơn trên hướng Tây Bắc bằng một phần lực lượng dự bị chiến lược được gửi đến tham chiến tại khu vực Tikhvin mặc dù Chiến dịch phòng thủ Moskva đang bước vào giai đoạn quyết định. Ngày 12 tháng 11, Lữ đoàn xe tăng 46 và Trung đoàn pháo tự hành 1061 được điều từ Tập đoàn quân 7 xuống Khomushka phối hợp với Sư đoàn bộ binh 191 đã chặn đứng Sư đoàn xe tăng 12 (Đức) ở phía Bắc Tikhvin 8 km. Ngày 18 tháng 11, Sư đoàn xe tăng 12 (Đức) bị đánh bật về Tikhvin. Trên hướng Staryi Galichno, ngày 19 tháng 11, Sư đoàn bộ binh 65 và một trung đoàn xe tăng được điều đến phối hợp với các sư đoàn bộ binh 44 và 49 có mặt tại đây từ đầu chiến dịch cũng buộc các sư đoàn cơ giới 18 và 20 (Đức) phải bỏ mục tiêu Astrachi vừa chiếm được và lùi về phòng thủ tại khu vực tổ hợp công nghiệp "1 tháng 5". Trước nguy cơ bị bao vây và tiêu diệt tại khu vực Tikhvin, tướng Kuno-Hans von Both buộc phải rút Sư đoàn xe tăng 12, Sư đoàn cơ giới 20, phần còn lại của Quân đoàn xe tăng 8, Sư đoàn cơ giới 18 và Sư đoàn bộ binh 61 khỏi Tikhvin. Trên suốt tuyến đường rút lui từ Tikhvin đến Budogoshch, quân Đức luôn bị chặn đánh và tập kích từ trên mặt đất và trên không.
Trên hướng Novgorod, các sư đoàn bộ binh 25, 111, 259, 267, 288 thuộc Tập đoàn quân 52 và các sư đoàn bộ binh 186, 305 cùng Sư đoàn xe tăng 3 của Cụm phòng thủ Novgorod cũng phát động tấn công vượt sông Vishera. Toàn bộ sư đoàn bộ binh 126 (Đức) bị bao vây và tiêu diệt tại Bolshaya Vishera. Quân Đức cố gắng lập tuyến phòng thủ từ Posad đến Muratovo nhưng đến ngày 11 tháng 12, tuyến phòng thủ này cũng bị đập vỡ. Ở giữa mặt trận, tàn quân của các sư đoàn xe tăng 8, 12, các sư đoàn cơ giới 18, 20 và Sư đoàn bộ binh 61 (Đức) định bám trụ lại xung quanh đầu mối đường sắt Budogoshch nhưng ý đồ này cũng thất bại. Sư đoàn bộ binh cận vệ 4 và Sư đoàn xe tăng 60 được điều đến phía Nam Budogoshch, chặn con đường rút của cụm quân Đức về Gruzino. Tàn quân của các sư đoàn Đức phải bỏ lại hầu như tất cả các vũ khí nặng và luồn qua vòng vây bị hở của quân đội Liên Xô giữa hai con sông Pchevzha và Oskuya để rút về bờ Tây sông Volkhov.
Xe tăng Liên Xô tấn công qua mặt hồ Ladoga đóng băng
Quyết định tấn công vẫn được I. V. Stalin thông qua do tư lệnh Phương diện quân Leningrad, tướng M. S. Khozin bảo đảm sẽ huy động đầy đủ tập đoàn quân 54 vào hướng thứ yếu. Ngày 22 tháng 3 năm 1942, tập đoàn quân xung kích 2 do thiếu tướng A. A. Vlasov tấn công trên hướng chủ yếu đã chọc thủng trận tuyến Spasskaya Polist - Mostki - Myasnoy Bor của quân Đức, vừa tiến nhanh về phía sông Oredesh vừa phát triển đến Lyuban. Do hành động không dứt khoát, tập đoàn quân 54 của nguyên soái G. I. Kulik tiến rất chậm, không những không đến được Lyuban mà còn không hỗ trợ được tập đoàn quân xung kích 2 chiếm Chudovo. Do không bị đe dọa từ sau lưng, quân đoàn 1 phối hợp với quân đoàn 28 (Đức) tấn công vào hai bên sườn, bịt được cửa mở và bao vây Tập đoàn quân xung kích 2 trong vùng đầm lầy. Trong khi phải hành động tích cực hơn để cứu tập đoàn quân xung kích 2 thì trung tướng M. S. Khozin lại cho rằng cần sáp nhập hai phương diện quân lại để dễ chỉ huy. Tuy bị Tổng tham mưu trưởng B. M. Shaposnikov phản đối nhưng I. V. Stalin vẫn đồng ý với đề nghị này. Mặc dù biết rằng tập đoàn quân xung kích 2 không còn sức tấn công nhưng M. S. Khozin vẫn không chịu rút tập đoàn quân này ra và hậu quả nghiêm trọng đã đến. Cuối tháng 5 năm 1942, tướng A. A. Vlasov, tư lệnh tập đoàn quân xung kích 2 chạy sang đầu hàng và nhận làm việc cho quân Đức. Ngày 8 tháng 6 năm 1942, Phương diện quân Volkhov được tái lập, vẫn do đại tướng Mereskov chỉ huy đã sử dụng các tập đoàn quân 4, 52 và 59 liên tục công kích vào phía sau các quân đoàn bộ binh 1 và 28 của quân Đức và giải cứu được phần lớn tập đoàn quân xung kích 2. Chiến dịch Lyuban nhằm phá vây cho Leningrad thất bại. Vì những sai lầm nghiêm trọng này, nguyên soái G. I. Kulic bị giáng cấp xuống đại tướng và được điều về phụ trách Tổng cục pháo binh, trung tướng M. S. Khozin bị cách chức tư lệnh phương diện quân Leningrad, bị giáng cấp quân hàm xuống thiếu tướng và điều về Bộ Tổng tham mưu làm trợ lý. Trung tướng L. A. Govorov được chỉ định làm tư lệnh Phương diện quân Leningrad. Năm 1945, tướng A. A. Vlasov và quân đoàn giải phóng nước Nga của ông ta chiến đấu trong đội hình Cụm tập đoàn quân Trung tâm của quân đội Đức Quốc xã bị quân đội Liên Xô bắt sống gần Plzen (Tiệp Khắc). Năm 1946, Vlasov và các tướng X. N. Krasnov, Skuro, Suntal Ghirey trong các đội quân Nga chiến đấu cho Đức Quốc xã bị Tòa án Liên Xô kết án tử hình vì tội phản bội Tổ quốc.
Chiến dịch bao vây Demyansk
Bản đồ chiến dịch bao vây Demyansk (1942)
Nhằm phát huy kết quả khả quan của các chiến dịch phòng ngự-phản công của quân đội Liên Xô trên các hướng Moskva, Tikhvin và Rostov, Bộ chỉ huy Phương diện quân Tây Bắc do tướng P. A. Kurochkin làm tư lệnh được lệnh của STAVKA đã phục hồi và đệ trình STAVKA một kế hoạch tấn công nhằm bao vây và tiêu diệt Quân đoàn bộ binh 2 (Đức) do tướng Walter Graf von Brockdorff-Ahlefeldt chỉ huy và các đơn vị tăng cường của Tập đoàn quân 16 (Đức) đang tác chiến trong khu vực Demyansk. Mục tiêu tiếp theo của chiến dịch này là loại trừ nguy cơ quân Đức mở một đòn tấn công từ Demiansk qua vùng đồi Valday và dọc theo bờ Đông hồ Ilmen lên phía Bắc, bảo vệ phía sau Phương diện quân Volkhov lúc này đã hoàn thành chiến dịch phản công Tikhvin đánh bật quân Đức về bờ Tây sông Volkhov. Mục tiêu trực tiếp của chiến dịch là chiếm lại Staraya Russa, Demyansk, Toropets Kholm, chiếm lấy tuyến sông Polista, đẩy lùi quân Đức về phía Tây để loại trừ nguy cơ đe dọa đầu mối giao thông Valday lúc này đang đóng một vai trò rất quan trọng trong việc vận chuyển người, vũ khí và hàng hóa tiếp tế cho các phương diện quân Leningrad và Volkhov. Mặc dù kế hoạch tấn công này được vạch ra từ tháng 9 năm 1941 và được phê chuẩn bởi mệnh lệnh số 002.265 của Bộ Tổng tư lệnh tối cao nhưng do phải đối phó với các cuộc tấn công của quân Đức trong nửa đầu mùa đông 1941-1942 nên đến tháng 1 năm 1942, nó mới được thi hành.
Đồng thời với kế hoạch này, ngày 18 tháng 12 năm 1941, STAVKA còn ra mệnh lệnh số 005.868, yêu cầu Tập đoàn quân xung kích 4 trên cánh phải của Phương diện quân Kalinin phối hợp tấn công trên hướng Toropets Kholm để tạo lập một bàn đạp từ phía Bắc Smolensk, uy hiếp chủ lực Cụm tập đoàn quân Trung tâm (Đức) trên hướng này. Quân đội Liên Xô huy động vào chiến dịch này các tập đoàn quân 11, 34 và Xung kích 3 của Phương diện quân Tây Bắc. Binh lực tổng cộng gồm 14 sư đoàn và 8 lữ đoàn bộ binh, 5 lữ đoàn và 4 tiểu đoàn xe tăng. Ở giai đoạn sau của chiến dịch, Tập đoàn quân xung kích 4 của Phương diện quân Kalinin và Tập đoàn quân xung kích 1 lấy từ Phương diện quân Tây lên cũng bước vào tham chiến. Quân đội Đức Quốc xã trên mặt trận vào giai đoạn đầu chiến dịch có sư đoàn cơ giới SS "Totenkopf", các sư đoàn bộ binh 12, 30, 32, 123 và 290. Sau khi cụm quân này bị vây, Bộ tư lệnh Cụm tập đoàn quân Bắc (Đức) đã huy động đến tuyến sông Polist và khu vực Staraya Russa các sư đoàn bộ binh 5, 8, 81, 122 và Sư đoàn cơ giới 18 tăng cường cho Quân đoàn bộ binh 10 do tướng Walther von Seydlitz-Kurtzbakh chỉ huy để phá vây, nối liên lạc với cánh quân bị vây. Chiến dịch diễn ra trong thời tiết mùa đông phương Bắc hết sức khắc nghiệt. Hồ Ilmen và các con sông bị đóng băng. Nhiệt độ ban ngày xuống thấp đến âm 44 độ, có đêm xuống đến âm 53 độ. Nhiều nơi, tuyết ph