✨Trận phản công Staraya Russa

Trận phản công Staraya Russa

Trận phản công Staraya Russa là trận phản công lớn thứ hai của quân đội Liên Xô trên hướng Leningrad trong tháng 8 năm 1941. Diễn ra từ ngày 12 đến ngày 25 tháng 8 năm 1941, trong một cố gắng để đẩy lùi cánh phải của Cụm Tập đoàn quân Bắc (Đức) đang tấn công theo hướng Novgorod - Volkhov để vây bọc Leningrad từ phía Nam và Đông Nam, Quân đội Liên Xô trên hướng Tây Bắc đã sử dụng các tập đoàn quân 11, 27 và 34 của Phương diện quân Tây Bắc (tái lập) và Tập đoàn quân 48 của Phương diện quân Bắc cùng với Tập đoàn quân 34 do thiếu tướng K. M. Kachanov chỉ huy được điều động từ lực lượng dự bị chiến lược của STAVKA tổ chức một trận phản công lớn ở khu vực Staraya Russa và Đông Nam hồ Ilmen. Để đối phó với trận phản công này, quân đội Đức Quốc xã đã huy động các quân đoàn bộ binh 1, 2, 10 và 28.

Sau gần 2 tuần giao chiến, quân đội Liên Xô bị tổn thất nặng và buộc phải rút lui. Quân đội Đức Quốc xã tiến ra các khu vực tiếp cận ngoại ô phía Nam Leningrad. Ở phía Đông, Quân đoàn bộ binh 23 thuộc Tập đoàn quân 16 (Đức) đánh chiếm khu vực Kholm. Ở phía Bắc, Quân đoàn cơ giới 39 (Đức) đánh chiếm khu vực Shlisselburg, chia cắt Leningrad với lãnh thổ Liên Xô. Ngày 8 tháng 9 năm 1941, Tập đoàn quân 18 (Đức) và Cụm quân Đông Nam (Phần Lan) bắt đầu phong tỏa Leningrad, quân đội và người dân Liên Xô bắt đầu cuộc chiến chống phong tỏa Leningrad.

Tình huống mặt trận

Sau khi đánh lui cuộc phản công của Tập đoàn quân 11 (Liên Xô) tại khu vực phía Bắc sông Shelon, cụm tập đoàn quân "Bắc" (Đức) tiếp tục tập trung lực lượng tấn công trên hướng Bắc hồ Ilmen để mở đường tiến đến Leningrad. Trong các ngày 9 và 10 tháng 8, Quân đoàn xe tăng 41 và Quân đoàn xe tăng 56 (Đức) chuyển hướng lên phía Bắc hồ Ilmen và mở các đòn tấn công mới trên toàn tuyến phòng thủ Luga mà trọng tâm là các cụm cứ điểm Kingisepp, Luga và Shimsk. Chiến tuyến của quân Đức ở phía Nam hồ Ilmen được giao cho Quân đoàn bộ binh 10 thuộc Tập đoàn quân 16 trấn giữ.

Do các cụm quân Liên Xô ở phía Bắc hồ Ilmen đang trong trạng thái phòng ngự, quân đội Liên Xô vẫn không từ bỏ ý định kéo Tập đoàn quân xe tăng 4 (Đức) phải lùi lại bằng cách đánh vào phía sau các quân đoàn Đức đang tấn công trên hướng Luga, giảm bớt sức ép cho tuyến phòng thủ này.

Binh lực và kế hoạch

Quân đội Liên Xô

Quân đội Liên Xô tham gia trận phản công trên hướng Staraya Russa được huy động lớn hơn trận phản công Soltsy trước đó. Nó bao gồm 3 tập đoàn quân của Phương diện quân Tây Bắc (cũ) và 1 tập đoàn quân của Khu phòng thủ Leningrad thuộc Phương diện quân Bắc: Tập đoàn quân 11 do tướng V. I. Morozov chỉ huy. Thành phần còn lại sau trận phản công Soltsy gồm có: Quân đoàn bộ binh 22 gồm các sư đoàn 180, 182 và 254 Quân đoàn bộ binh 24 gồm các sư đoàn 181, 183 Trực thuộc tập đoàn quân: Trung đoàn bộ binh 398 của Sư đoàn 118, các trung đoàn công nhân vũ trang 21 và 28. Pháo binh: các trung đoàn hỗn hợp 264, 613, 614; các tiểu đoàn súng cối 111 và 698. Thiết giáp: phần còn lại của các sư đoàn cơ giới 163 và 202, Trung đoàn mô tô 5 và Tiểu đoàn xe tăng độc lập 41. Tập đoàn quân 27 do tướng N. E. Berzarin chỉ huy. Thành phần còn lại gồm có: Quân đoàn bộ binh 65 gồm các sư đoàn 5, 23, 33 và 188 Trực thuộc tập đoàn quân: Sư đoàn bộ binh 84. Thiết giáp: Quân đoàn cơ giới 21 gồm các sư đoàn xe tăng 42, 46 và Sư đoàn cơ giới 185.

Cả hai tập đoàn quân đều bị hao hụt quân số và vũ khí sau các chiến dịch phòng thủ liên tục từ cuối tháng 6 đến cuối tháng 7 năm 1941. Để tăng cường cho trận phản công này, STAVKA đã điều động cho Phương diện quân Tây Bắc các đơn vị lấy từ lực lượng dự bị mới thành lập và huy động cánh trái của Phương diện quân Bắc tham gia chiến dịch: *Tập đoàn quân 34 do tướng K. M. Kachanov chỉ huy mới được thành lập ngày 16 tháng 7 tại Quân khu Moskva. Thành phần gồm có: Bộ binh: Các sư đoàn 245, 259, 262 và 257. Kỵ binh: Các sư đoàn 25 và 54. Pháo binh: Các trung đoàn 171 và 759. *Thiết giáp: Các trung đoàn xe tăng độc lập 16 và 59. Tập đoàn quân 48 (thuộc Phương diện quân Bắc) do trung tướng S. D. Akimov, được thành lập ngày 4 tháng 8 trên cơ sở Quân đoàn bộ binh 16 và khu phòng thủ Novgorod. Thành phần gồm có: Quân đoàn bộ binh 16 gồm các sư đoàn 70, 128, 237. Cụm phòng thủ Novgorod gồm Sư đoàn bộ binh 311, Sư đoàn công nhân vũ trang và Lữ đoàn súng máy 1. Pháo binh: Trung đoàn hỗn hợp 541. **Thiết giáp: Sư đoàn xe tăng 21.

Ngày 8 tháng 8, STAVKA ra mệnh lệnh số 00824 về mục tiêu nhiệm vụ trên hướng Leningrad. Phần nhiệm vụ của Phương diện quân Tây Bắc gồm có:

Các tướng N. F. Vatutin và M. V. Zakharov cho rằng họ có thể tấn công với tốc độ 15 km/ngày. Nguyên soái B. M. Shaposnikov, Tổng tham mưu trưởng Liên Xô coi tốc độ này là quá cao so với thực lực của quân đội. Ông chỉ thị yêu cầu chỉ duy trì tốc độ tấn công 4 đến 5 km/ngày và phải luôn chú ý bảo vệ chặt chẽ hai bên sườn. Một cụm xung kích được thành lập gồm các sư đoàn bộ binh 245, 257, 259, 262, Sư đoàn kỵ binh 254 và trung đoàn xe tăng 16 ở thê đội 1. Thê đội 2 gồm Sư đoàn kỵ binh 25 và trung đoàn xe tăng 59. Trong số các sư đoàn bộ binh có các sư đoàn 254, 257 và 262 được chuyển từ quân của NKVD với quân số chỉ từ 1.000 đến 1.500 người mỗi sư đoàn, hầu như không có vũ khí nặng.

Quân đội Đức Quốc xã

Từ ngày 9 tháng 8, khi Quân đoàn xe tăng 41 (Đức) chuyển vị trí tấn công lên hướng Kingisepp, Quân đoàn cơ giới 56 (Đức) cũng dịch chuyển lên hướng Luga. Tập đoàn quân 16 (Đức) do thượng tướng Ernst Busch chỉ huy mở rộng chính diện cánh trái đến phía Tây hồ Ilmen. Binh lực quân Đức đối diện với các tập đoàn quân Liên Xô trên hướng Staraya Russa gồm có: Quân đoàn bộ binh 10 do tướng pháo binh Christian Hansen chỉ huy đóng đối diện với Tập đoàn quân 11 (Liên Xô), thành phần bao gồm: Bộ binh: Các sư đoàn 30 và 290. Pháo binh: Các trung đoàn 610, 785, Tiểu đoàn 1 của Trung đoàn 818 và Tiểu đoàn súng cối độc lập 19. Thiết giáp: Trung đoàn pháo tự hành 667. Quân đoàn bộ binh 2 do tướng Walter Graf von Brockdorff-Ahlefeldt chỉ huy đóng đói diện với Tập đoàn quân 34 (Liên Xô), thành phần bao gồm: Bộ binh: Các sư đoàn 12, 23 và 123. Pháo binh: Các trung đoàn 526, 603 và Tiểu đoàn súng cối độc lập 5. Thiết giáp: Trung đoàn pháo tự hành 666. Quân đoàn bộ binh 1 do tướng Kuno-Hans von Both chỉ huy đóng đối diện với Tập đoàn quân 48 (Liên Xô), thành phần gồm có: Bộ binh: Các sư đoàn 11, 21 và 126. Pháo binh: Các trung đoàn 110, 782, Tiểu đoàn 2 của Trung đoàn 37, Tiểu đoàn 2 của Trung đoàn 47. Thiết giáp: Các trung đoàn pháo tự hành 600 và 659. Cánh phải của Quân đoàn bộ binh 28 của tướng Mauritz von Wiktorin đóng tại Utorgosh: Bộ binh: Sư đoàn 121 **Pháo binh: Tiểu đoàn 2 của trung đoàn 72.

Sau khi đánh lui cuộc phản công của Tập đoàn quân 11 (Liên Xô) tại khu vực sông Shelon, thống chế Đức Wilhelm von Leeb nhận định trong Báo cáo số 1770/41 ngày 27 tháng 7 năm 1941:

Tuy nhiên, Bộ Tổng tham mưu lục quân Đức lại có đánh giá khác. Ngày 1 tháng 8, tướng Franz Halder, Tổng tham mưu trưởng lục quân Đức ghi nhận:

Tướng Erich von Manstein cũng nhận định rằng cuộc tấn công sắp diễn ra của quân đội Liên Xô vào Quân đoàn bộ binh 10 (Đức) sẽ buộc cánh phải của Quân đoàn cơ giới 56 (Đức) phải tạm dừng tấn công trên hướng Leningrad để quay sang cứu trợ cho Quân đoàn bộ binh 10 và cũng nhằm che đỡ cho sườn phía Tây của chính họ.

Diễn biến

Sáng 12 tháng 8, Phương diện quân Tây Bắc (tái lập) đồng loạt mở cuộc tấn công vượt qua sông Lovat. Ngày 13 tháng 8, tướng Ernst Busch điều động Sư đoàn cơ giới 18 của tướng Friedrich Herrlein từ Tập đoàn quân xe tăng 3 mới được phối thuộc cho Tập đoàn quân 16 mở cuộc đột kích vào Kholm, chặn đứng cuộc tấn công của Tập đoàn quân 27. Trên cánh phải, Tập đoàn quân 11 từ tuyến Staraya Russa - Okufokovo (???) tấn công theo hướng đến Soltsy, đánh bật Quân đoàn bộ binh 10 (Đức) sang bờ Tây sông Polist và phát triển đến nhà ga Baglyady. Tập đoàn quân 34 trên tuyến Okufokovo - Skuratovo (???) thu được nhiều thành công hơn cả. Sau hai ngày tấn công, Tập đoàn quân này đã thọc sâu đến hơn 40 km vào tuyến phòng thủ của quân Đức ở điểm tiếp giáp giữa Quân đoàn bộ binh 2 và Quân đoàn bộ binh 10. Đến ngày 14 tháng 8, Tập đoàn quân 34 (Liên Xô) đã đánh chiếm thị trấn Morino, cắt đứt đường sắt từ Dno đi Staraya Russa và uy hiếp con đường sắt từ Dno đi Shimsk.

Cuộc chuyển quân của quân Đức giữ được bí mật và đòn phản kích bất ngờ do 2 sư đoàn cơ giới và 3 sư đoàn bộ binh Đức thực hiện đã chặn đứng các tập đoàn quân Liên Xô trên tuyến đường sắt Dno - Staraya Russa. Ngày 21 tháng 8, quân Đức đánh lui các tập đoàn quân 11 và 34 (Liên Xô) về tuyến sông Polist. Ngày 23 tháng 8, xe tăng Đức vượt sông Polist và bắt đầu đánh chiếm các bến vượt của quân đội Liên Xô trên tuyến sông Lovat. Không quân Đức liên tục dội bom xuống đội hình quân đội Liên Xô suốt từ 6 giờ sáng đến 18 giờ chiều. Ngày 25 tháng 8, số quân còn lại của hai tập đoàn quân Liên Xô rút qua sông Lovat với những thiệt hại rất nặng nề. Tập đoàn quân 48 của Phương diện quân Bắc (Liên Xô) đã không thể vượt qua tuyến phòng thủ của quân Đức tại tuyến Utorgosh - Shimsk để ứng cứu cho cánh phải của Phương diện quân Tây Bắc. Tướng P. P. Shobenikov buộc phải tổ chức lại tuyến phòng thủ trên sông Lovat.

Hậu quả của trận phản công Staraya Russa càng bi thảm hơn khi Chính ủy Tập đoàn quân bậc I, Thứ trưởng Bộ Quốc phòng kiêm Chủ nhiệm Tổng cục chính trị Hồng quân L. D. Mekhlis đã lập một tòa án quân sự để xét xử các tướng lĩnh Hồng quân không phải vì thua trận mà vì cái mà ông ta gọi trong bản án số 057 là "vô tổ chức và hèn nhát". Theo bản án được tuyên ngày 11 tháng 9 năm 1941 tại làng Zaborovye, tướng K. A. Mereskov bị cách chức Tham mưu trưởng Phương diện quân Tây Bắc và bị điều đi chỉ huy Tập đoàn quân độc lập 7 trên hướng Karelia. Tướng P. P. Shobenikov bị cách chức Tư lệnh Phương diện quân Tây Bắc và bị kết án 5 năm tù, nhưng sau đó ông được tha và chỉ bị giáng cấp hàm xuống đại tá, bị điều đi là Cục trưởng Cục tham mưu của Bộ tư lệnh quân dự bị. Thay thế ông là trung tướng P. A. Kurochkin. Các tướng K. M. Kachanov, tư lệnh và V. S. Goncharov, tham mưu trưởng Tập đoàn quân 34 bị tuyên án tử hình tại bản án số 270 ngày 27 tháng 9 năm 1941. Ngày 29 tháng 9, họ bị xử bắn. Mãi đến năm 1956, một ủy ban xét khiếu nại của Tòa án tối cao Liên Xô mới kết luận về sự thiếu cơ sở pháp lý khi quy kết tội danh cho hai vị tướng này và danh dự của họ được phục hồi.

👁️ 0 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Trận phản công Staraya Russa** là trận phản công lớn thứ hai của quân đội Liên Xô trên hướng Leningrad trong tháng 8 năm 1941. Diễn ra từ ngày 12 đến ngày 25 tháng 8
**Trận phản công Soltsy** là hoạt động quân sự lớn đầu tiên của Phương diện quân Bắc (sau này là Phương diện quân Leningrad) trên khu vực phía Tây hồ Ilmen. Đây cũng là trận
**Chiến dịch phản công** là thuật ngữ quân sự sử dụng để mô tả các chiến dịch tấn công quy mô lớn, thường là chiến dịch tiến hành sau khi một đạo quân đã chặn
**Trận phòng thủ Luga** diễn ra từ ngày 6 tháng 8 đến giữa tháng 9 năm 1941 là một trong các trận đánh ác liệt nhất tại mặt trận Tây Bắc Liên Xô trong giai
**Chiến dịch phản công Mozhaysk-Vyazma** có tên mã **Chiến dịch "Sao Mộc"** (10 tháng 1 - 31 tháng 3 năm 1942) là chiến dịch bộ phận trong Cuộc phản công chiến lược đầu năm 1942
**Chiến dịch phòng ngự chiến lược Leningrad** là tổ hợp các hoạt động quân sự của quân đội Liên Xô chống lại các cuộc tấn công của quân đội Đức Quốc xã tại khu vực
**Cuộc bao vây Leningrad** là cuộc phong tỏa quân sự của quân đội Đức Quốc xã đối với thành phố Leningrad (hiện nay là Sankt-Peterburg), đồng thời là cuộc phòng thủ dài ngày nhất trong
Chiến sự trên **Mặt trận Rzhev-Sychyovka-Vyazma** là hoạt động quân sự lớn trong Chiến tranh Xô-Đức bao gồm nhiều chiến dịch bộ phận do các Phương diện quân Tây, Phương diện quân Kalinin và Phương
**Yaroslav Yaroslavich** (tên rửa tội là Afanasiy , 1230 - 1272 ) - hoàng tử độc lập đầu tiên của Tver (từ 1247), Đại công thứ 11 vĩ đại của Công quốc Vladimir. Trong biên
**Chiến dịch Leningrad – Novgorod** là tổ hợp các chiến dịch bộ phận do Hồng quân Liên Xô tổ chức nhằm tấn công vào quân đội Đức Quốc xã. Chiến dịch tấn công Leningrad-Novgorod diễn
**Chiến dịch tấn công Novgorod-Luga** (14 tháng 1 - 15 tháng 2 năm 1944) là một chiến dịch quân sự diễn ra trong Chiến tranh Xô-Đức do Hồng quân Liên Xô tổ chức nhằm tấn
**Chiến dịch tấn công Nevel** là một chiến dịch độc lập do cánh phải của Phương diện quân Kalinin tiến hành từ ngày 6 đến ngày 10 tháng 10 năm 1943 tại thành phố Nevel
**Mặt trận Các tập đoàn quân dự bị** (tiếng Nga: _Фронт резервных армий_) là một tổ chức tác chiến chiến lược của Hồng quân Liên Xô vào đầu Thế chiến thứ hai. ## Hình thành
**Chiến dịch Demyansk** (_Демянская операция_) là tên của một chiến dịch quân sự do Liên Xô tổ chức trong Chiến tranh Xô-Đức, kéo dài từ ngày 7 tháng 1 đến ngày 25 tháng 5 năm
**Chiến dịch Sao Hỏa** (_Oперация «Марс»_) là mật danh của **Chiến dịch phản công chiến lược Rzhev-Sychyovka lần thứ hai** do Hồng quân Liên Xô tổ chức nhằm vào quân đội phát xít Đức trong
**Mikhail Alexandrovich Ulyanov** (; 20 tháng 11 năm 1927 – 26 tháng 3 năm 2007) là diễn viên, đạo diễn, giảng viên nghệ thuật, nhân vật công chúng Liên Xô và Nga. Ông được tặng
**Chiến dịch Toropets–Kholm** là một chiến dịch phản công của Hồng quân Liên Xô diễn ra ở phía Nam Hồ Ilmen trong Cuộc chiến tranh vệ quốc vĩ đại, kéo dài từ ngày 9 tháng
**Tập đoàn quân 27** là một đơn vị quân sự chiến lược cấp tập đoàn quân của Hồng quân Liên Xô, hoạt động trong thời gian Chiến tranh thế giới thứ hai. ## Thành lập
**Tập đoàn xung kích số 1** (Nga:_1-я ударная армия_) là một đơn vị quân sự chiến lược cấp tập đoàn quân của Hồng quân Liên Xô trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Được thành
**Erich von Manstein** tên đầy đủ là **Fritz Erich Georg Eduard von Lewinski** (24 tháng 11 năm 1887 – 10 tháng 7 năm 1973) là một chỉ huy cấp cao của quân đội Đức thời
**Chiến dịch Gorodok (1943)** là hoạt động quân sự quy mô lớn đầu tiên của Phương diện quân Pribaltic 1 (Liên Xô) kể từ khi nó được đổi tên từ Phương diện quân Kalinin ngày
**Grigory Petrovich Kotov** (; 21 tháng 10 năm 1902 – 7 tháng 11 năm 1944) là một trung tướng Hồng quân trong Chiến tranh Vệ quốc Vĩ đại. Ngày 7 tháng 11 năm 1944, ông
**Tập đoàn quân 29** là một đơn vị quân sự chiến lược cấp tập đoàn quân của Hồng quân Liên Xô và sau này là Lực lượng Mặt đất của Nga. ## Lịch sử Tập
**Đại vương công Aleksey Petrovich của Nga** hay **_Tsarevich_ Aleksey Petrovich của Nga** (tiếng Nga: _Алексей Петрович Романов_; 28 tháng 2 năm 1690 – 7 tháng 7 năm 1718) là Thái tử của Nga đồng
**Ernst Bernhard Wilhelm Busch** (6 tháng 7 năm 1885 - 17 tháng 7 năm 1945) là một Thống chế Đức Quốc xã trong Thế chiến thứ hai. ## Tiểu sử ### Tuổi thơ và trước