✨Chiến dịch Sấm tháng Giêng
Chiến dịch Sấm tháng Giêng (), Chiến dịch tấn công Krasnoye Selo–Ropsha hay Chiến dịch Neva-2 là một chiến dịch quân sự do Hồng quân Liên Xô tổ chức nhằm tấn công vào quân đội Đức Quốc xã, kéo dài từ ngày 14 đến ngày 30 tháng 1 năm 1944. Tham gia chiến dịch này là Phương diện quân Leningrad của quân đội Liên Xô và địch thủ bên kia chiến tuyến của họ là Tập đoàn quân số 18 của Đức Quốc xã. Kết thúc chiến dịch, quân đội Liên Xô đã tiêu diệt cụm quân Petergof-Strelna của Đức, đẩy quân thù ra xa 60-100 cây số và giải phóng Krasnoye Selo, Ropsha, Krasnogvardeysk (Gatchina), Pushkin và Slutsk (Pavlovsk, St Petersburg, Nga). Quan trọng hơn, sau chiến dịch này, cùng với các đợt tấn công của phương diện quân Volkhov trong cùng thời gian, sự uy hiếp của quân Đức đối với thành phố Leningrad sau 900 ngày tồn tại cuối cùng cũng hoàn toàn bị phá giải. Ngày 26 tháng 1 năm 1944, Leningrad đã bắn 324 phát đại bác chào mừng khoảnh khắc đáng nhớ này.
Chiến dịch Sấm tháng Giêng là một phần của Chiến dịch tấn công Leningrad-Novgorod.
Bối cảnh
Vào năm 1943, quân đội Liên Xô sau khi phá vỡ được vòng vây ở Leningrad đã bắt đầu giành thế thượng phong ở mặt trận Tây Bắc. Tuy nhiên các nỗ lực nhằm phá giải hoàn toàn sự uy hiếp đối với thành phố đều không thành công. Leningrad vẫn nằm trong tầm bắn phá của Tập đoàn quân số 18 (Đức) và hàng trăm tấn bom đạn vẫn tiếp tục dội xuống thành phố cùng "con đường Chiến thắng" hành lang tiếp vận trên bộ đối với Leningrad được thiết lập sau thắng lợi của Chiến dịch Tia Lửa.
Tư lệnh Tập đoàn quân xung kích số 2, tướng I. I. Fedyuninsky đã miêu tả tình hình ở mặt trận Tây Bắc như sau:
Vào đầu tháng 9 năm 1943, các chỉ huy cấp cao Xô Viết đã nhận thấy rằng, quân Đức đang có dấu hiệu bắt đầu rút binh khỏi vùng phụ cận Leningrad về tuyến Panther-Wotan dọc theo phòng tuyến ở sông Narva - hồ Chudsko - Pskov - Ostrov - Idritsa. Trước tình hình đó, hội đồng quân sự của các phương diện quân Leningrad và phương diện quân Volkhov bắt đầu thảo kế hoạch tấn công quy mô lớn nhằm đánh bại Tập đoàn quân số 18 (Đức) và phá giải hoàn toàn sự uy hiếp đối với Leningrad. Do chưa nắm được tường tận thông tin về hoạt động lui binh của quân Đức, Đại bản doanh Bộ Tổng tư lệnh Tối cao Liên Xô (STAVKA) đã đề xuất hai phương án tấn công. Phương án thứ nhất (Neva-1) đặt trường hợp quân Đức rút lui sớm và vì vậy quân đội Liên Xô phải đánh nhanh để truy kích kẻ thù bỏ chạy. Phương án thứ hai (Neva-2) đặt giả thiết quân Đức sẽ cố bám trụ thêm một thời gian và vì vậy quân đội Liên Xô sẽ tổ chức đục thủng phòng tuyến quân địch để tiến tới quét sạch quân Đức khỏi Leningrad.
Bộ Tư lệnh của Cụm Tập đoàn quân Bắc cũng nhanh chóng nhận thấy các dấu hiệu chuẩn bị đánh lớn của quân đội Liên Xô, vì vậy thống chế Geogr von Küchler đã gặp Adolf Hitler để thỉnh cầu y cho phép quân Đức rút lui sớm về tuyến Panther-Wotan. Tuy nhiên, Adolf Hitler lại đồng tính với ý kiến của Geogr Lindemann - tư lệnh của Tập đoàn quân số 18 - rằng quân Đức vẫn có thể bám trụ được và bắt buộc quân Đức phải tiếp tục cuộc bao vây ở Leningrad.
Binh lực và kế hoạch
Quân đội Liên Xô
Binh lực
*Phương diện quân Leningrad (tư lệnh: Đại tướng L. A. Govorov, tham mưu trưởng: trung tướng D. N. Gusev) Tập đoàn quân xung kích số 2 (trung tướng I. I. Fedyuninsky) Tập đoàn quân số 42 (thượng tướng I. I. Maslennikov) Tập đoàn quân số 67 (trung tướng V. P. Sviridov) *Tập đoàn quân không quân số 13 (thượng tướng không quân S. D. Rybalchenko) Hạm đội Baltic** (đô đốc V. F. Tributs)
Cho đến đầu năm 1944, phương diện quân Leningrad phòng thủ tại thành phố cùng tên có 3 tập đoàn quân: tập đoàn quân số 23 đóng ở eo đất Karelia, tập đoàn quân số 42 và 67 chống giũ tuyến từ vùng duyên hải Vịnh Phần Lan tới Gontovoy Lipki. Thêm vào đó là một đội quân trú đóng ở khu bàn đạp Oranienbaum (dài 50 cây số và rộng 25 cây số). Do Đại bản doanh chưa thể cung cấp một lượng binh lực đáng kể để củng cố cho quân đội Liên Xô đóng tại gần Leningrad, bộ chỉ huy Phương diện quân đã thực hiện tái tổ chức và tái cơ cấu lại quân số để có thể tập trung một lượng lớn binh lực ở những địa đoạn đột phá.
Vì vậy, tổng hành dinh của phương diện quân đã được chuyển về Oranienbaum. Tướng I. I. Fedyuninsky cũng được điều đến làm Tư lệnh Tập đoàn quân xung kích số 2 thay cho V. Z. Romanovskiy vì Fedyuninsky có nhiều kinh nghiệm tác chiến hơn. Vào ngày 7 tháng 11 năm 1943, lực lượng tác chiến Duyên hải được điều về phối thuộc cho Tập đòn quân xung kích số 2, một phần của lực lượng này được chuyên chở tới mặt trận bởi Hạm đội Ban Tích và bởi máy bay. Kết quả từ ngày 5 tháng 11 năm 1943 đến 21 tháng 1 năm 1944, 5 sư đoàn bộ binh, 13 trung đoàn pháo binh, 2 trung đoàn xe tăng, 1 trung đoàn pháo tự hành và 1 брига xe tăng với tổng cộng 53.000 người, 2.300 xe tải và xe kéo, 241 xe tăng và thiết giáp, 700 đại bác và súng cối, 5.800 tấn đạn dược, 4.000 ngựa và 14.000 tấn hàng hóa khác đã được chuyển tới tổng hành dinh.
Toàn bộ binh lực của Phương diện quân Leningrad (ngoại trừ Tập đoàn quân số 23) bao gồm 30 sư đoàn bộ binh, 3 lữ đoàn bộ binh, 4 lữ đoàn xe tăng và 3 đơn vị tăng cường với tổng quân số 417.600 người Hỗ trợ về mặt không quân là 461 máy bay của Tập đoàn quân không quân số 13, Tập đoàn quân phòng không Leningrad và 192 máy bay của Hạm đội Ban Tích. Общее наступление двух фронтов поддерживали соединения авиация дальнего действия - chỉ có 330 máy bay.
Theo kế hoạch, Tập đoàn quân xung kích số 2 của PDQ Leningrad sẽ tấn công từ khu bàn đạp Oranienbaum còn tập đoàn quân số 42 của cùng PDQ sẽ tấn công từ phía Tây Nam của Leningrad. Sau khi hội quân ở Krasnoye Selo - Rospha, hai tập đoàn quân này sẽ tấn công và tiêu diệt cụm quân Petergof-Strelna của Đức và sau đó phát triển tiến công tới hướng Tây Nam, tiến tới Kingisepp ở phía Nam Krasnogvardeisk và Luga.
Vài ngày trước chiến dịch mở màn, Tập đoàn quân số 67 được hạ lệnh tấn công và giải phóng Mga, Ulyanovka, Tosno, phối hợp với phương diện quân Volkhov tiến hành giải phóng các tuyến Đường sắt Kirov và tuyến Đường sắt Tháng Mười. Sau đó Tập đoàn quân số 67 sẽ phát triển tấn công lên hướng Pushkin và Krasnogvardeisk.
Về phía mình, phương diện quân Volkhov phải đánh bại quân địch ở Novgorod, nhanh chóng phát triển lên Luga và hội quân với phương diện quân Leningrad tại ngoại vi của Luga để tiến hành hợp vây Tập đoàn quân số 18 (Đức).
Quân đội Đức Quốc xã
Binh lực
Một phần Cụm Tập đoàn quân Bắc (tư lệnh: Thống chế Georg von Küchler) Tập đoàn quân số 18 (trung tướng kỵ binh Geogr Lindenmann) Quân đoàn thiết giáp SS số 3, binh lực bao gồm sư đoàn bộ binh số 9 và 10 thuộc không quân, sư đoàn bộ binh ném lựu SS "Norland", sư đoàn cơ giới hóa SS "Hà Lan" và một trung đoàn cảnh vệ SS Quân đoàn số 50, bao gồm các sư đoàn bộ binh số 126, 170, 215 Quân đoàn số 54, bao gồm các sư đoàn bộ binh số 11, 24, 225 *Quân đoàn số 26, bao gồm các sư đoàn bộ binh số 61, 27 và 212 Sư đoàn không quân số 1 (tướng Kurt Pflyugbeyl)
Lực lượng đối đầu trực tiếp với phương diện quân Leningrad chính là Tập đoàn quân số 18 của Cụm Tập đoàn quân Bắc. Chính diện mặt trận được trấn thủ bởi quân đoàn thiết giáp SS số 3 đóng tại khu bàn đạp Oranienbaum và một phần của quân đoàn số 50 đóng tại khu vực từ Petergof tới Pushkin. Thêm vào đó, quân đoàn số 54 có nhiệm vụ trấn thủ khu vực từ Puskhin tới Neva và quân đoàn số 26 trấn thủ ở Mga.
Theo các tài liệu Liên Xô, Tập đoàn quân số 18 của Đức có tổng cộng 168.000 người, 200 xe tăng và pháo tự hành, 4.500 đại bác và súng cối. Binh lực của toàn bộ Cụm Tập đoàn quân Bắc vào ngày 14 tháng 10 năm 1943 - theo các tài liệu của Đức - tính luôn các số quân đóng ở miền Bắc Phần Lan bao gồm 601.000 người, 146 xe tăng, 2.398 đại bác và súng cối. Tuy nhiên, việc chuẩn bị đầy đủ các tuyến phòng ngự trung gian như vậy cần nhiều thời gian, mà quân đội Liên Xô thì không bao giờ cho quân Đức đủ thời gian cả. Trong suốt ngày hôm đó, pháo binh của các tập đoàn quân số 42 và 67 đã liên tục nhả đạn trên khắp toàn bộ trận tuyến từ điểm cao Pulkovo tới Mga, điều này khiến quân Đức phải căng sức trên toàn mặt trận và không đoán được hướng tấn công chính của quân đội Liên Xô.
Đến ngày 15 tháng 1, sau 110 phút bắn pháo chuẩn bị bởi 2.300 đại bác và súng cối, quân đoàn bộ binh số 42 đã tấn công trên một địa đoạn dài 17 cây số tại tuyến Ligovo - Redkoye (???) - Kuzmino (???). Quân đoàn bộ binh số 30 (bao gồm các sư đoàn bộ binh số 45, 63, 64) cũng xung phong dưới sự yểm hộ của pháo binh và đột phá được 4,5 cây số với tổn thất rất nhỏ. Các đợt tấn công của quân đoàn số 109 (bao gồm sư đoàn bộ binh số 72, 109, 125) và số 110 (bao gồm các sư đoàn bộ binh số 56, 85, 86) ở hai cánh thì ít thành công hơn.
Trong những ngày sau đó, các Tập đoàn quân số 42 và Tập đoàn quân xung kích số 2 tiếp tục tiến theo hướng Rospha và Krasnoye Selo. Quân Đức tại đây chống trả kịch liệt và luôn tìm cách phản kích. Một phần của Tập đoàn quân xung kích số 2 đến cuối ngày 16 tháng 1 đã đột phá được 10 cây số và hoàn tất việc chọc thủng khu vực phòng thủ chính của quân địch tại mặt trận đến 23 cây số.
Trước tình thế nguy hiểm này, bộ chỉ huy Cụm Tập đoàn quân Bắc không còn cách nào khác là phải xin Adolf Hitler cho phép rút các quân đoàn số 26 và Tập đoàn quân số 18 ra khỏi Mginskogo (???) để giải phóng bớt một vài sư đoàn nhằm tăng cường cho phòng tuyến ở Tây Nam Leningrad. Không nhận được câu trả lời rõ ràng tư lệnh Cụm Tập đoàn quân Bắc Geogr von Küchler quyết định tung một nhóm tác chiến (bao gồm các sư đoàn bộ binh số 21, 11, 225 và vài đơn vị khác) vào khu vực Krasoye Selo nhằm cứu vãn tình thế nhưng không thành công mấy. Cuối cùng, quân Đức buộc phải rút về khu vực phía Nam của Strelna, Volodarsky (???) và Gorelovo.
Đến ngày 18 tháng 1, quân đội Liên Xô quyết định tung một đòn đánh mạnh vào quân Đức nhằm đảm bảo chiến cục chuyển sang phía có lợi cho họ. Quân đoàn bộ binh số 122 của Tập đoàn quân xung kích số 2, với sự hỗ trợ của xe tăng đã giải phóng Rospha sau một trận đánh dữ dội và cùng với quân đoàn bộ binh số 108 tiếp tục phát triển tấn công sang phía Tây. Cùng ngày hôm đó, Tập đoàn quân số 42 công kích Krasnoye Selo và Voroniyey Gory (???), còn các đơn vị thiết giáp tiếp tục tiến về phía Tập đoàn quân xung kích số 2. Chiến sự diễn biến ác liệt trong nhiều ngày tại các vị trí then chốt của mặt trận. Đến sáng ngày 19 tháng 1, một đợt tấn công đồng loạt từ hai phía của sư đoàn bộ binh cận vệ số 63 đã hạ gục cứ điểm "Đồi quạ", còn các sư đoàn bộ binh số 291 và sư đoàn bộ binh cận vệ số 64 đã giải phóng Krasnoye Selo. Để thực hiện được điều này, Hội đồng quân sự của Phương diện quân Leningrad quyết định mở rộng hướng tấn công từ Tây Nam sang Đông Nam. Tập đoàn quân số 42 được giao nhiệm vụ mới là giải phóng Krasnogvardeisk, Pushkin và Tosno, sau đó đánh vào cạnh sườn và sau lưng của quân Đức - vốn vẫn đang đóng giữ các vị trí Ulyanovka, Mga và Tosno. Hoạt động tấn công của Tập đoàn quân số 42 sẽ phối hợp chặt chẽ với đòn đánh của Tập đoàn quân số 67 (thuộc Phương diện quân Volkhov) để trong thời gian ngắn của thể tiêu diệt được các quân đoàn số 26 và 28 của Đức, hoàn tất việc phá giải vòng vây của Đức tại Leningrad. Cùng lúc đó, Tập đoàn quân xung kích số 2 phải tấn công ở phía Tây Nam theo hướng Voyskovitsy - Vysokoklyuchevoy, vòng qua Krasnogvardeisk ở phía Tây Nam, phối hợp và bảo vệ sườn phải của Tập đoàn quân số 42.
Việc quân Đức tổ chức lui binh khỏi Mga đã buộc phương diện quân Leningrad phải thay đổi kế hoạch tấn công. Kế hoạch mới được trình lên Đại bản doanh vào ngày 22 tháng 1 và ngay lập tức được chuẩn y. Nội dung kế hoạch mới yêu cầu phải nhanh chóng giải phóng Krasnogvardeisk - một đầu mối giao thông đường sắt và đường bộ quan trọng. Tiếp đó, lực lượng chủ công là các Tập đoàn quân số 42 và Tập đoàn quân xung kích số 2 sẽ tổ chức đánh mạnh theo hướng Narva và Kingisepp; cùng lúc đó lực lượng phụ công là Tập đoàn quân số 67 sẽ tiến tới tuyến Ulyanovka - Tosno và phối hợp với Phương diện quân Volkhov cùng giải phóng toàn bộ tuyến Đường sắt Tháng Mười. Sau đó nữa, tập đoàn quân dự kiến sẽ tấn công tới Vyritsa, Siversky, содействовать главному удару фронта. Như vậy, theo kế hoạch, Phương diện quân Leningrad hy vọng sẽ cắt đứt đường rút lui của chủ lực Tập đoàn quân số 18 trên hướng Narva và buộc quân Đức lui vào Luga, nơi Tập đoàn quân số 59 của Phương diện quân Volkhov đã chờ sẵn.
Nhận ra tình thế nguy hiểm, Cụm Tập đoàn quân Bắc vội vã điều những đơn vị mà nó có được sang tăng cường cho cụm phòng thủ ở Krasnogvardeisk. Nhằm củng cố khu vực phòng ngự của các sư đoàn bộ binh số 11, 61, 170, 126, 215 (Đức), các sư đoàn bộ binh số 225 và 227 từ Mga đã được điều đến. Một lần nữa, Geogr von Küchler đã đánh điện thỉnh cầu Hitler cho phép rút quân khỏi tuyến đường sắt Tháng Mười cùng với các khu vực Pushkin và Slutsk; tuy nhiên Hitler vẫn cố chấp yêu cầu ông ta có thủ Krasnogvardeisk bằng bất cứ giá nào. Dù vậy, để giúp quân Đức trụ vững ở Krasnogvardeisk, Bộ Tư lệnh tối cao lục quân Đức (OKH) đã điều các sư đoàn thiết giáp số 12 và tiểu đoàn xe tăng hạng nặng số 502 đến tăng cường cho Tập đoàn quân số 18.
Việc để mất Krasnogvardeisk đồng nghĩa với việc tuyến phòng thủ liền mạch của quân Đức tại đây đã hoàn toàn sụp đổ. Tập đoàn quân số 18 (Đức) bị xé làm đôi với một mảnh lớn (gồm 14 sư đoàn) rút chạy về phía Đông, Đông Bắc và phía Bắc theo hướng Luga, còn mảnh nhỏ hơn (5 - 6 sư đoàn), được chia thành những nhóm tác chiến nhỏ độc lập với nhau và chạy về hướng Tây của Narva . Vì vậy, các lực lượng của Tập đoàn quân xung kích số 2 và Tập đoàn quân số 42 - vốn đang tấn công về phía Tây và Tây Nam - đã đẩy mạnh tốc độ tiến quân. Tư lệnh Phương diện quân Leningrad L. A. Govorov quyết định rằng đòn đánh chủ yếu sẽ được thực thi theo hướng này vì nếu thành công nó sẽ lập tức mở đường cho quân đội Liên Xô tiến vào giải phóng Estonia. Cùng lúc đó, nếu có thể, hướng tiến công của Phương diện quân có thể mở rộng sang khúc cong của sông Luga trên đoạn Pskov và Gdov. Cùng lúc đó, Tập đoàn quân số 42 đánh xuống hướng Tây Nam và sau 3 ngày đã đột phá sâu 50 cây số. Đến ngày 30 tháng 1, Tập đoàn quân số 42 đã tiếp cận sông Luga và thiết lập một đầu cầu vượt sông tại Bolshoy Sabsk.
Đợt tấn công của Tập đoàn quân số 67 tại tuyến Tosno - Vyritsa - Siverskiy diễn ra chậm hơn. Sau khi dập tắt sự chống cự quyết liệt của các sư đoàn bộ binh số 212, 126, 11 và sư đoàn thiết giáp số 12 (Đức) - vốn làm nhiệm vụ cản hậu cho các quân đoàn số 54, 26 và 28 của Đức, từ khu vực Pushkin, Slutsk, Tosno, Lyuban và Chudovo Tập đoàn quân số 67 đã giải phóng Vyritsa vào ngày 29 tháng 1 và Siverskiy vào ngày 30 tháng 1. Tuy nhiên, quân Đức vẫn tiếp tục chống giữ quyết liệt tại phía Đông Nam và Nam của Krasnogvardeisk, Siverskiy và chỉ sau 3 ngày chiến đấu quyết liệt thì Hồng quân mới quét sạch được quân địch khỏi khu vực này. Trên thực tế, phải đến ngày 29 tháng 1 quân đội Liên Xô mới hoàn toàn giành được quyền kiểm soát tuyến Đường sắt Tháng Mười, tuy nhiên vào ngày 27 đài phát thanh đã phát đi lời tuyên bố của Hội đồng quân sự Leningrad rằng thành phố này đã hoàn toàn được giải vây. Vào chiều hôm đó, toàn bộ người dân thành phố đổ ra đường ăn mừng và chứng kiến lễ bắn pháo hoa mừng ngày thành phố được giải vây.
Nhà văn P. N. Luknitsky đã kể lại khoảnh khắc này như sau:
Thương vong
Quân đội Liên Xô
Thương vong của quân đội Liên Xô trong chiến dịch Sấm tháng Giêng hiện nay chỉ được ước lượng gần đúng. Theo nghiên cứu thống kê về thương vong của quân đội Nga và Liên Xô trong các cuộc chiến thế kỷ 20, trong toàn bộ chiến dịch Leningrad-Novgorod (14 tháng 1 - 1 tháng 3), phương diện quân Leningrad tổn thất 56.564 người chết và 170.876 người bị thương, bị ốm, còn hạm đội Ban Tích mất 169 người chết và 1.292 người bị thương, bị ốm, tuy nhiên con số này tỏ ra không chính xác vì việc thống kê thương vong của quân Đức từ tháng 1 năm 1944 trở đi chỉ được thực hiện rất sơ sài và không thể biết được trong số thương vong này thì phần nào là do phương diện quân Leningrad gây ra.
Theo các tài liệu Liên Xô, thương vong của phía Đức được xác định dựa trên báo cáo của Cục Thông tin Xô Viết (Sovinform). Như vậy, theo báo cáo, cho đến ngày 19 tháng 1, phương diện quân Leningrad đã đánh bại 6 sư đoàn Đức, giết chết 20.000 người và bắt sống 1.000 tù binh. Từ ngày 14 đến 25 tháng 1, báo cáo cho biết PDQ đã đánh tan 10 sư đoàn địch, đánh thiệt hại nặng 2 sư đoàn và bắt sống nhiều chiến lợi phẩm (619 đại bác trong đó có những khẩu pháo hạng nặng với cỡ nòng 150-406 ly, 116 súng cối, 454 pháo tự hành, 20 xe tăng, 60 xe thiết giáp), phá hủy 450 xe tăng, 445 đại bác và súng cối, 901 ô tô. Tổng thương vong của quân Đức là 40.000 chết 3.000 bị bắt sống.