✨Trận Tuyên Quang (1884)

Trận Tuyên Quang (1884)

Trận Tuyên Quang hay Pháp đánh thành Tuyên Quang là một phần của cuộc chiến tranh Pháp-Việt 1858-1884 diễn ra từ khoảng cuối tháng 5 năm 1884 và kết thúc vào ngày 3 tháng 3 năm 1885. Theo nhận định của Pháp, tính đến thời điểm đó, đây là "một trận đánh gay go nhất xưa nay ở Bắc Kỳ (Việt Nam)"; còn theo lời tướng Lưu Vĩnh Phúc, thì "đã vào trăm trận, chưa có trận nào thắng lớn như trận này."

Đánh chiếm thành Tuyên

Tuyên Quang, khi ấy còn có tên Tam Kỳ, là một tỉnh lớn và quan trọng trên sông Lô. Khi thành Hưng Hóa thất thủ, tướng Hoàng Tá Viêm tuân mạng về Huế, thì Đề đốc Lưu Vĩnh Phúc và đoàn quân Cờ Đen của ông (gọi chung là Lưu đoàn), không còn ai chỉ huy nữa. Cho nên, Lưu đoàn quyết định rút quân lên mạn ngược, lấy thành Tuyên Quang (gọi tắt là thành Tuyên) làm căn cứ, và rồi được nhà Thanh phong tướng.

Nhưng ngay khi đến nơi ở mới, Lãnh binh của Lưu đoàn là Hoàng Thư Trung với khoảng 2.000 quân của mình, đã xông vào thành Tuyên, bắt Tuần phủ Hoàng Trương Hiệp đem đi an trí ở Long Châu, rồi thu hết kho tàng, sổ sách đem đi... Hoảng sợ, Án sát Nghiêm Niệm giả bệnh, còn Bố chính Lê Văn Duyên thì lẻn trốn về Hà Nội, báo với Pháp mọi việc, cốt nhờ thế lực này đưa mình trở lại chức vị cũ. Nắm lấy cơ hội, Pháp đã dùng ngay ông này làm người chỉ lối để đem binh lên đánh lấy thành Tuyên.

Cuối tháng 5 năm Giáp Thân (1884), Thống tướng Charles Millot cho tàu đi thăm dò sông Lô, để biết tàu thủy lên được đến đâu. Sau đó, ông sai Trung tá Duchesne đang đóng ở Việt Trì dẫn 5 pháo hạm lên đánh Tuyên Quang. Đến nơi, quân Pháp chỉ đánh độ một giờ đồng hồ thì quân Cờ Đen bỏ thành Tuyên tháo chạy, rồi sau đó tranh nhau đi cướp phá các làng mạc của dân Việt.

Hôm ấy là ngày 31 tháng 5 năm 1884. Lấy xong thành Tuyên, thực dân Pháp cho Lê Văn Duyên và Nghiêm Niệm về phục chức.

Bị vây trong thành Tuyên

Bộ tham mưu tướng Charles Millot. Chiếm được thành Tuyên, nhưng chẳng bao lâu sau, khi Pháp vừa rút bớt quân, thì quân Cờ Đen của tướng Lưu Vĩnh Phúc (khi ấy đã về ở Bảo Thắng, Lào Cai) và Quân Thanh ở mạn sông Hồng và sông Lô do tướng Sầm Dục Anh chỉ huy, quay trở lại công hãm, nhốt mấy trăm quân Pháp ở trong thành Tuyên suốt nhiều tháng dài.

Sách Việt Nam sử lược chép: :Khi quân Pháp đi đánh mặt Lạng Sơn, thì quân Tàu và quân Cờ Đen ở mạn sông Hồng Hà và sông Lô Giang lại kéo về đánh Tuyên Quang. Bấy giờ quân Pháp ở trong thành cả thảy độ hơn 600 người, thuộc quyền Thiếu tá Dominé... :Lưu Vĩnh Phúc đem quân lên đánh thành Tuyên Quang; đánh mãi đến 15 tháng Chạp (1884) mới vây được thành. Quân Cờ Đen dùng đủ kế để phá thành, mà quân Pháp ở trong thành cũng cố hết sức để chống giữ. :Lúc ấy quân Pháp đã lấy được thành Lạng Sơn rồi, Trung tướng Brière de l'Isle liền để thiếu tướng De Négrier ở lại giữ thành, đến ngày mồng 2 tết (1885) đem quân đi đường đồn Chữ về Hà Nội, rồi lập tức lên cứu Tuyên Quang. Ngày 13 tháng Giêng năm Ất Dậu (1885) thì lên đến Đoan Hùng rồi sang sông Chảy. Quân Tàu và quân Pháp giao chiến từ đó cho đến ngày 16, mới giải được vây. Trận ấy quân hai bên thiệt hại cũng nhiều, nhưng quân Tàu không địch được quân Pháp, phải vội vàng giải vây mà rút lên mạn ngược. Hai lính Cờ Đen bị quân Pháp bắt được tại Tuyên Quang. Nhưng theo Việt sử tân biênTổng Tập (tập I), thì: Thành Tuyên bị vây từ 16 tháng 10 năm 1884, được giải tỏa một lần vào ngày 20 tháng 11 do công của Đại tá Duchesne. Sau đó, thành Tuyên được bàn giao cho Đại tá Dominé cùng khoảng 600 quân trấn giữ. Nhưng ngày 13 tháng 2 năm 1885, thì thành Tuyên lại bị 15.000 quân Cờ Đen và quân Thanh vây hãm. Trước tình thế hết sức nguy ngập, buộc tướng Brière de L’Isle (người vừa thay tướng Millot, coi quản Bắc Kỳ) phải tức tốc biệt phái đạo quân của tướng Giovanninelli từ Lạng Sơn cùng 9 pháo thuyền qua giải cứu.

Phía Pháp nhờ có quân chi viện nên trong đánh ra ngoài đánh vào, khiến đội quân vây hãm, từ thế thắng đổi ra thế bại vào ngày 3 tháng 3 năm 1885.

Tuy quân Pháp của Dominé được giải vây, nhưng theo Tổng tập (tập I), thì số thiệt mạng và bị thương trong 6 tuần kịch chiến đã lên đến con số 300 người. Còn binh đoàn của Giovanninelli, chỉ tính trong trận Hòa Mộc (để phá vòng vây), đã bị chết gần 100 quân, bị thương 787 quân, trong đó có 21 sĩ quan.

Nói đến sự kiện bi thảm này, sách Việt sử tân biên chép: Sau trận chiến này Pháp đã thiệt 1/3 quân số. Nhiều sĩ quan và binh lính Pháp đã ngã gục vì ống phun lửa, vì mìn và vì trái phá của quân Thanh. Về phần quân Tàu, xác chết chất có cả đống...

Bàn luận

Trích Đại cương lịch sử Việt Nam, tập II:

:''Từ đầu năm 1884, chiến sự diễn ra ngày một thêm ác liệt trên chiến trường Bắc Kỳ. Khắp nơi, Pháp bị nghĩa quân tự động nổi dậy chặn đánh quyết liệt, gây nhiều thiệt hại cho Pháp. Nhưng phần vì quân Thanh chỉ lo rút lui để bảo toàn lực lượng, phần vì triều đình Huế sẵn sàng giúp Pháp sớm ổn định tình hình, nên phong trào kháng chiến trên đã gặp không ít khó khăn. :Và bấy giờ, mối lo ngại lớn nữa của Pháp vẫn là đội quân Cờ Đen của tướng Lưu Vĩnh Phúc. Chính đội quân này đã bao vây và công hãm thành Tuyên Quang suốt 9 tháng trời, giam chân một tiểu đoàn Pháp trong thành, mọi đường liên lạc với bên ngoài đều bị cắt đứt...

Và của Tổng tập (tập I): :...Trận địa lôi ở Hòa Mục cũng như trận đánh hầm ở quanh thành Tuyên, đều đã nêu cao tên của Lưu Vĩnh Phúc. Ông chính là một vị tướng tài cao trí cả nhất nhì trong suốt thời kỳ 40 năm kháng Pháp của dân tộc Việt Nam. :...Quân của Sầm Dục Anh tuy đông mà vẫn bất động, chỉ xem Lưu đoàn và nghĩa quân Việt Nam giáp chiến với 5.000 quân Pháp. Rồi sau đó, lại kéo nhau chạy làm nao núng hàng ngũ của Lưu, cộng thêm quân của Lưu cũng đã hết đạn, nên phải lui ra đóng ở ngòi Thanh Thủy. :...Pháp ở thành Tuyên tuy được giải vây, nhưng khắp vùng sông Thao, sông Đà, sông Lô; cuộc kháng chiến của nhân dân Việt Nam càng lên mạnh. Ngoài những cứ điểm thưa thớt, Pháp không cai trị được dân...

👁️ 3 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Trận Tuyên Quang** hay **Pháp đánh thành Tuyên Quang** là một phần của cuộc chiến tranh Pháp-Việt 1858-1884 diễn ra từ khoảng cuối tháng 5 năm 1884 và kết thúc vào ngày 3 tháng 3
**Tuyên Quang** là thành phố tỉnh lỵ cũ của tỉnh Tuyên Quang, Việt Nam. ## Địa lý Thành phố Tuyên Quang nằm ở phía nam tỉnh Tuyên Quang, cách Hà Nội khoảng 165 km theo quốc
**Trận Bắc Ninh** hay **Trận Pháp đánh thành Bắc Ninh** là một phần của cuộc chiến tranh Pháp-Việt 1858-1884 diễn ra từ ngày 7 tháng 3 năm 1884 và kết thúc vào ngày 12 tháng
**Trận Hưng Hóa** hay **Pháp đánh thành Hưng Hóa** là một phần của Chiến tranh Pháp–Đại Nam diễn ra từ ngày 11 tháng 4 năm 1884 và kết thúc vào ngày 12 tháng 4 cùng
Đây là danh sách các trận đánh, chiến dịch, cuộc vây hãm, hành quân, các cuộc giao tranh trong lịch sử Việt Nam, diễn ra trên lãnh thổ Việt Nam, qua các triều đại và
**Trận Hòa Mộc** ngày 2 tháng 3 năm 1885 là một trận giao tranh quyết liệt trong cuộc chiến Pháp-Thanh (8/ 1884 đến 4/1885). Trong trận này lữ đoàn I do Đại tá Giovanninelli chỉ
**Trận Sơn Tây (1883)**, là trận đánh mà quân đội viễn chinh Pháp tấn công vào thành cổ Sơn Tây, diễn ra từ ngày 13 tháng 12 năm 1883, kết thúc vào tối ngày 16
**Trận Lạng Sơn (1885)** hay **Pháp đánh Lạng Sơn** là một chiến dịch gồm vài trận giao tranh lớn nhỏ giữa quân Pháp và quân Thanh, đã diễn ra từ đầu tháng 2 năm 1885
nhỏ|Chân dung Đỗ Quang**Đỗ Quang** (Chữ Nho: 杜光; 1807-1866), trước có tên là **Đỗ Tông Quang**, sau bỏ chữ _Tông_ vì kị húy vua Thiệu Trị. Ông làm quan trải ba triều vua: Minh Mạng,
**Quân đoàn bộ binh Bắc Kỳ** (_tirailleurs tonkinois_) là một Quân đoàn bộ binh nhẹ Bắc Kỳ, được thành lập năm 1884 để hỗ trợ cho các hoạt động của Quân đoàn viễn chinh Bắc
**Trận kinh thành Huế năm 1885** là một sự kiện chính trị, một trận tập kích của quân triều đình nhà Nguyễn do Tôn Thất Thuyết chỉ huy đánh vào lực lượng Pháp. Sự kiện
thumb|Ảnh chụp Đinh Xuân Quảng (1909-1971) **Đinh Xuân Quảng** (9 tháng 10 năm 1909 - 17 tháng 2 năm 1971), là một thẩm phán, luật gia và một chính trị gia Việt Nam. Ông từng
Đây là danh sách danh nhân sinh ra ở tỉnh Quảng Bình, Việt Nam theo từng lĩnh vực. ### Chính trị gia #### Nhà Hồ * Hoàng Hối Khanh (1362-1407), Lệ Thủy #### Nhà Mạc
**Nghĩa hội Quảng Nam** là tổ chức của những người chống Pháp tại tỉnh Quảng Nam theo chiếu Cần vương của vua Hàm Nghi (ở ngôi 1884-1885). Nghĩa hội là một bộ phận quan trọng
**Trận Nam Định** (27 tháng 3 năm 1883), là một cuộc chạm trán giữa quân Pháp và quân Việt Nam, trong giai đoạn đầu của Chiến dịch Bắc Kỳ thuộc chiến tranh Pháp-Việt (1858-1884). Trong
**Tân Ninh** là một xã thuộc huyện Quảng Ninh, tỉnh Quảng Bình, Việt Nam. ## Địa lý Xã Tân Ninh nằm ở cực nam huyện Quảng Ninh, cách trung tâm huyện lỵ khoảng 12 km về
**Trần Ngọc Diện** (1884 - 1944), tục gọi là cô **Ba Diện**, là một giáo viên, một nghệ sĩ nhiều tài năng. Bà là người thành lập _Đồng Nữ Ban_, gánh cải lương duy nhất
là một tuyến đường sắt chính của Nhật Bản thuộc mạng lưới của Tập đoàn Đường sắt Nhật Bản (JR Group), nối các ga và . Nó dài , không kể nhiều tuyến trung chuyển
**Chiến tranh Pháp – Thanh** là cuộc chiến giữa Đệ tam Cộng hòa Pháp và Đế quốc Đại Thanh, diễn ra từ tháng 9 năm 1884 tới tháng 6 năm 1885. Cuộc chiến nổ ra
**Quân Cờ Đen** () là một nhóm đảng cướp có quân số đa số xuất thân từ quân đội người Tráng, di chuyển từ vùng Quảng Tây của Trung Quốc băng qua biên giới vào
**Trận Đà Nẵng (1858 – 1859)** hay **Liên quân Pháp – Tây Ban Nha tấn công Đà Nẵng lần thứ nhất** là trận đánh mở đầu cho cuộc chiến tranh Pháp – Việt (1858 –
**Ông Ích Khiêm** (翁益謙, 1829 - 1884) tự **Mục Chi**, là danh tướng nhà Nguyễn trong lịch sử Việt Nam. ## Thân thế và sự nghiệp **Ông Ích Khiêm** sinh ngày 21 tháng 12 năm
**Phân cấp hành chính thời quân chủ Việt Nam** được tính từ khi Việt Nam giành được độc lập sau thời kỳ bắc thuộc đến khi người Pháp xâm lược và chiếm đóng hoàn toàn
**Quân đoàn viễn chinh Bắc Kỳ** (tiếng Pháp: _corps expéditionnaire du Tonkin_) là một bộ chỉ huy quân sự quan trọng của Pháp ở miền Bắc Việt Nam (Bắc Kỳ) từ tháng 6 năm 1883
**Lãnh thổ Việt Nam qua từng thời kỳ** là sự biến đổi không gian sinh tồn của người Việt. Sự biến đổi này mang tính chất phức tạp, lúc bị mất lãnh thổ về các
**Kỷ niệm chương Viễn chinh Bắc Kỳ** () được trao cho tất cả binh lính và thủy thủ Pháp đã tham gia các trận đánh trong chiến dịch Bắc Kỳ và chiến tranh Pháp–Thanh từ
**Đường Cảnh Tùng** (, tiếng Anh: _Tang Jingsong_, 1841–1903) là một viên tướng nhà Thanh. Ông đã chỉ huy quân Vân Nam trong chiến tranh Pháp-Thanh (tháng 8, 1884 - tháng 4, 1885) và đã
**Trận Đà Nẵng (1859–1860)** hay **Liên quân Pháp – Tây Ban Nha tấn công Đà Nẵng lần thứ hai** là một trong những trận đánh mở đầu cho cuộc chiến tranh Pháp-Việt 1858-1884 trong lịch
**Thanh Đức Tông** (chữ Hán: 清德宗; 14 tháng 8 năm 1871 – 14 tháng 11 năm 1908), Tây Tạng tôn vị **Văn Thù Hoàng đế** (文殊皇帝) là vị Hoàng đế thứ 11 của nhà Thanh
Mộ Hoàng Kế Viêm tại làng Văn La,huyện Quảng Ninh, Quảng Bình **Hoàng Kế Viêm** (1820 - 1909) là phò mã và là một danh tướng nhà Nguyễn trong lịch sử Việt Nam. ## Tiểu
**Nguyễn Quang Bích** (chữ Hán: 阮光碧, 1832 – 1890), còn có tên là **Ngô Quang Bích**, tự **Hàm Huy**, hiệu **Ngư Phong**; là quan nhà Nguyễn, nhà thơ và là lãnh tụ cuộc khởi nghĩa
**Trang Thuận Hoàng quý phi** (chữ Hán: 莊順皇貴妃; 29 tháng 11 năm 1822 - 13 tháng 12 năm 1866), Ô Nhã thị (烏雅氏), Mãn Châu Chính Hoàng kỳ, là một phi tần của Thanh Tuyên
**Trần Thiếu Bạch** (20 tháng 7 năm 1869 - 23 tháng 12 năm 1934) sinh Chan Siu-man, bính âm **Thiếu Bạch**, tên hiệu Kwai-shek, trước thường được gọi là **Trần Văn Thiếu**, khi hoạt động
**Nở hoa trong lòng địch** (**tâm trung khai hoa**) là một chiến thuật bộ binh được sáng tạo và sử dụng bởi Quân đội Nhân dân Việt Nam. Đại tướng Văn Tiến Dũng được xem
**Hồ Sĩ Tạo** (1841-1907) hoặc **Hồ Sỹ Tạo**, tự là **Tiểu Khê**, là một nho sĩ Nghệ An thế kỷ 19. Ông quê làng Lai Nhã, xã Thái Nhã, tổng Võ Liệt, huyện Thanh Chương,
**Nhà Nguyễn** (chữ Nôm: 茹阮, chữ Hán: 阮朝; Hán-Việt: _Nguyễn triều_) là triều đại quân chủ cuối cùng trong lịch sử Việt Nam. Nhà Nguyễn được thành lập sau khi
nhỏ|Tướng Louis Briere de lIsle **Louis Alexandre Espirit Gaston Brière de l'Isle** (4 tháng 6, 1827 - 19 tháng 6, 1897) là một tướng quân đội Pháp. Ông từng làm thống đốc Senegal (1876–81), và
nhỏ|Toàn cảnh thành cổ Sơn Tây nhìn từ trên cao (không ảnh) năm 2022.|303x303px nhỏ|Thành Sơn Tây, tháng 4 năm 1884, một trong 4 thành trong [[Thăng Long tứ trấn|303x303px]] nhỏ|Bản vẽ thành Sơn Tây
**Đài Bắc** (, Hán Việt: Đài Bắc thị; đọc theo _IPA: tʰǎipèi_ trong tiếng Phổ thông) là thủ đô của Trung Hoa Dân Quốc (Đài Loan) và là thành phố trung tâm của một vùng
**Lưu Vĩnh Phúc** (tiếng Trung: 劉永福/刘永福) (1837—1917), tự **Uyên Đình** (淵亭/渊亭), người Khâm Châu, Quảng Đông (nay thuộc Quảng Tây), quê ở Bác Bạch, Ngọc Lâm, Quảng Tây, là một vị tướng vào cuối thời
**Mikhail Markovich Borodin** (tên khai sinh: **Mikhail Markovich Gruzenberg**; 9 tháng 7 năm 1884 – 29 tháng 5 năm 1951) là một nhà cách mạng Bolshevik và đại diện của Quốc tế Cộng sản (Comintern)
Các tiểu vùng địa lý tự nhiên
của miền Bắc Việt Nam
nhỏ|Tây Bắc Bộ (đỏ) trong Việt Nam **Tây Bắc Bộ** là vùng miền núi phía tây của miền Bắc Việt Nam, có chung đường
**Quân đội nhà Nguyễn** (chữ Hán: 軍次 / **Quân thứ**) là tên gọi các lực lượng vũ trang chính quy của triều Nguyễn từ thời điểm lập quốc cho đến đời vua Tự Đức. Sau
**Hành chính Việt Nam thời Nguyễn** phản ánh bộ máy cai trị từ trung ương tới địa phương của chính quyền nhà Nguyễn trong thời kỳ độc lập (1802-1884). Bộ máy cai trị của nhà
**Vinh** là thành phố tỉnh lỵ cũ của tỉnh Nghệ An và là Trung tâm Kinh tế - Văn hóa của vùng Bắc Trung Bộ, Việt Nam. Hiện nay, địa danh "Vinh" không còn tồn
**Đông Triều** là một thành phố cũ nằm ở phía tây tỉnh Quảng Ninh, Việt Nam. ## Địa lý thumb|Ngã 4 Đông Triều|264x264px Thành phố Đông Triều nằm ở phía tây của tỉnh Quảng Ninh,
**Thái Nguyên** là thành phố tỉnh lỵ cũ của tỉnh Thái Nguyên, nằm bên bờ sông Cầu, là một trong những thành phố lớn ở miền Bắc Việt Nam. Thành phố Thái Nguyên là trung
:_Bài này nói về một tỉnh cũ ở Việt Nam. Xem các nghĩa khác tại Hưng Hóa (định hướng)_ **Hưng Hóa** (Hán-Việt: 興化省) là một tỉnh cũ của Việt Nam vào nửa cuối thế kỷ
**Hồ Chí Minh** (chữ Nho: ; 19 tháng 5 năm 1890 – 2 tháng 9 năm 1969), tên khai sinh là **Nguyễn Sinh Cung** (chữ Nho: ), còn được gọi phổ biến tại Việt Nam
**Napoli** (; tiếng Hy Lạp cổ đại: Νεάπολις – _Neapolis_ có nghĩa là "_thành phố mới_", còn phổ biến với tên gọi **Naples** trong tiếng Anh và tiếng Pháp) là thành phố lớn thứ ba