Trận Hưng Hóa hay Pháp đánh thành Hưng Hóa là một phần của Chiến tranh Pháp–Đại Nam diễn ra từ ngày 11 tháng 4 năm 1884 và kết thúc vào ngày 12 tháng 4 cùng năm. Đây là một trong số ít trận đánh lớn do quân đội Pháp tổ chức tấn công, để hoàn thành gấp việc đánh chiếm Bắc Kỳ, nhằm thực hiện công cuộc cai trị và bảo hộ nước Đại Nam của Đế quốc thực dân Pháp.
Trước khi khai cuộc
Mở rộng phạm vi chiếm đóng
Đánh chiếm xong thành Bắc Ninh, hai Thiếu tướng Pháp là Brière de l'Isle và François de Négrier, liền chia quân ra truy kích quân Thanh và mở rộng phạm vi chiếm đóng.
Tướng Brière de l'Isle dẫn quân tiến lên hướng Lạng Sơn, chiếm đồn Phủ Lạng Thương, Kép. Đến khi gặp phải đường Chi Lăng hiểm yếu, viên tướng này không dám đuổi theo, mới dẫn quân trở về lại Bắc Ninh.
Tướng François de Négrier dẫn quân đi ngả Thái Nguyên, đến ngày 16 tháng 3 năm 1884, thì phá tan các đồn trại ở Nhã Nam (Yên Thế), thu được 21 khẩu đại bác, nhiều tiền kẽm, gạo và dầu lạc.
Trên đường đi đến Thái Nguyên, quân dân Việt đã chặn đánh quân Pháp ở Đức Tân, Phú Bình, nhưng không cầm chân được đối phương.
Đánh chiếm Thái Nguyên
Lúc bấy giờ, ở Thái Nguyên có khoảng một ngàn quân Việt do Thủ úy Nguyễn Quang Khoang cai quản và 5 doanh (khoảng 5.000 quân) quân Thanh do tướng nhà Thanh là Trần Đức Triều chỉ huy.
Cuộc giao tranh đã diễn ra ở đây khá kịch liệt, cho đến khi Thủ úy Nguyễn Quang Khoang bị đạn chết, quân Việt mới vội tháo chạy. Trong cảnh khói lửa ấy, các quan tỉnh chạy ra khỏi thành ẩn nấp trong các nhà dân; còn mấy ngàn quân Thanh cũng chẳng khác hơn, lớp thì chạy về Tuyên Quang, lớp thì chạy lên Cao Bằng. Dọc đường họ còn tranh đi cướp phá và hãm hiếp, khiến dân Việt thêm nhiều khốn khổ.
Ngày 19 tháng 3 năm 1884, quân Pháp tràn vào thành Thái Nguyên tịch thu 31 khẩu đại bác cùng nhiều đạn dược, vàng bạc và quý vật khác. Xong, họ còn phá tan ba cửa thành và đốt hết các văn thư.
Tình cảnh loạn quân, loạn quan này mãi đến tháng 5 năm 1884 mới tạm ổn, sau khi quân Pháp cho tái lập các đồn, ải và triều đình Huế thân Pháp đã cử nguyên Án sát Hà Tĩnh là Dương Danh Lập làm quyền Tuần phủ Thái Nguyên để chiêu an, và đòi Tuần phủ cũ là Trương Quang Huấn đang lánh thân ở Thanh Hóa về kinh đợi lệnh.
Tấn công thành Hưng Hóa
Quân Pháp tràn vào thành Hưng Hóa.
Thành Hưng Hóa là thủ phủ của đạo thừa tuyên Hưng Hóa, sau này là trấn Hưng Hóa, rồi tỉnh Hưng Hóa. Thành nằm ở ven bờ đầm Dị Nậu thuộc huyện Tam Nông, tỉnh Phú Thọ ngày nay, về phía Tây Nam của thành phố Việt Trì và Tây Bắc của thị xã Sơn Tây.
Sau khi hạ được thành Thái Nguyên, quân Pháp quay về mạn sông Hồng để chuẩn bị đánh lấy Hưng Hóa.
Thừa lệnh của Thống tướng Charles-Théodore, Thiếu tướng Brière de l'Isle đem đoàn quân thứ nhất theo con đường Sơn Tây lên Hưng Hóa, rồi dàn trận ở bên này sông Đà.
Hai bên khởi sự đánh nhau từ sáng ngày 11 tháng 4 năm 1884 đến 2 giờ chiều thì quân Pháp qua được sông ở chỗ gần địa hạt huyện Bất Bạt (Sơn Tây). Chín giờ sáng ngày hôm sau (12 tháng 4), thiếu tướng François de Négrier đem đoàn quân thứ nhì, vượt sông Đà đến hợp lực. Tuy bị quân Việt đón đánh ở Hạ Bì, La Thượng, nhưng tất cả 7.000 quân Pháp vẫn tiến lên được.
Tướng nhà Thanh là Sầm Dục Anh liệu thế không thể chống giữ, nên đã cho các tướng là Đình Hòe, Mã Trụ rút quân về Yên Bái. Thấy quân Thanh tháo lui, tướng nhà Nguyễn là Hoàng Tá Viêm cũng bỏ đồn Dao Phương, về lại Thục Luyện (nay là xã Thục Luyện, huyện Thanh Sơn, tỉnh Phú Thọ).
Vì thế thành Hưng Hóa chỉ còn lại một số quân Cờ Đen chừng 3500 quân của tướng Lưu Vĩnh Phúc và một số quân Việt của Tuần phủ Nguyễn Quang Bích. Nhưng sau đó, Lưu Vĩnh Phúc thấy hai đại binh trên dời đi hết thì lo ngại, nên dẫn quân ra đóng ngoài thành.
Nhờ khí cầu chở người bay lên cao để quan sát và chỉ điểm, nên khi đại quân Việt và Thanh vừa rút, thì các đại bác của Pháp cũng bắt đầu nả đạn dữ dội vào trong thành. Hai bên giao tranh, nhưng trong lúc quân ít thế nguy, may có đọi quân của Đốc Dị và Đốc Ngũ bố trí đóng ngoài thành ứng cứu kịp thời.
Ở Thục Luyện (Thanh Sơn, Phú Thọ), quan quân của tướng Hoàng Kế Viêm men theo đường núi rút hết về Huế. Chỉ có Tuần phủ Nguyễn Quang Bích là không chịu về kinh theo lệnh vua, mà tiếp tục chống Pháp. Trận chiến diễn ra ác liệt cho đến chiều tối thì thành bị vỡ. Nguyễn Quang Bích trèo lên kính thiên đài trên cột cờ Hưng Hoa định tuẫn tiết. Các tướng sĩ đã vực ông lên ngựa chạy về đình làng Tu My. (Sau đó Nguyễn Quang Bích lập căn cứ tiếp tục kháng chiến tại Tiên Động, Cẩm Khê Phú Thọ. Nơi đây ông dựng cờ khởi nghĩa với tuyên ngôn: Việt quốc thiên thu nguyên bất dịch - Lạc hồng tiên chủng phục hoàn tô nghĩa là " nước Việt ngàn năm không đổi và sẽ phục dụng lại Giang sơn Lạc Hồng và lá cờ thêu bốn chữ "bình Tây báo quốc". Cuộc khởi nghĩa Tiên Động được nhiều thân hào nghĩa sĩ nhiều vùng cả nước đến tụ nghĩa sau này, trở thành một trung tâm kháng pháp o Bắc Kỳ)
Sau trận chiến
Sau trận chiến, bên quân Pháp một số bị chết và thường vong. Quân Thanh và quân Cờ Đen số người chết và thương vong, quân khí và quý vật, chắc chắn bị tổn thất nhiều, nhưng vì sử sách không biên chép rõ nên không thống kê được.
Được tin Pháp chiếm đóng Hưng Hóa, triều đình Đồng Khánh liền cử Nguyễn Văn Thi làm Tuần phủ, Bùi Quang Thích làm Bố chính và Lê Ngọc Uẩn làm Án sát, cùng đến đó làm việc dưới quyền kiểm soát của thực dân, nhằm ổn định tình hình và kêu gọi nhân dân thôi kháng Pháp. Nhưng bất chấp lệnh vua, nhân dân miền Tây Bắc đúng lên kháng chiến với cuộc khởi nghĩa Tiên Động ngày 12/5 năm giáp thân (1884) dưới sự lãnh đạo của Nguyễn Quang Bích. Và năm sau 1885 vua Hàm Nghi hạ chiếu Cần Vương đã sắc phong cho ông làm Hiệp biện đại học sĩ, lễ bộ thượng thư sung Hiệp thống Bắc Kỳ Quân vụ Đại Thần được toàn quyền chỉ huy chống Pháp ở Bắc Kỳ. Các ông Tống Duy Tân, Nguyễn Thiện Thuật đều đã đén Tiên Đong nhân sắc phong của vua Hàm Nghi và chiếu Cần Vương. Nguyễn Xuân Ôn, Phan Đình Phùng, Đinh Công Tráng, phạm Bành, Đàm chí Trạch, vũ Hữu Lợi, lãnh Hoan, Nguyễn Tử Ngôn.... từng đến Tiên Động vào các năm 1885,1886. Đầu năm 1887 Nguyễn Quang Bích cùng Tôn Thất Thuyết trù tính đón vua Hàm Nghi ra Bắc, nên đã dời căn cứ kháng chiến lên Nghĩa Lộ. Tại đây ông được các thổ hào hết sức ủng hộ như Lãnh Năm, Lãnh Tế, Đặng Phúc Thành, Đào Chinh Lục, Cầm Bun Hoan, Đèo Văn Toa, Đèo Văn Trì, Sa văn Nội. Nông Văn Quang, Đổng phúc Thịnh, Cầm Tám, Vương Văn Doan... đã làm nên một cuộc kháng chiến Cần Vương vùng Tây Bắc.
Ảnh
Tập tin:French artillery on the Black River.jpg|Pháo binh Pháp, chuẩn bị qua sông Đà.
Tập tin:Quân Pháp.jpg| Quân Pháp nghỉ chân trên đường tiến về Hưng Hóa
Tập tin:Chiến lũy quân Thanh.jpg|Chiến lũy bằng tre của quân Thanh ở Bắc Hưng Hóa.
Tập tin:Hưng Hóa điêu tàn.jpg|Hưng Hóa điêu tàn sau trận chiến.
👁️
0 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Trận Hưng Hóa** hay **Pháp đánh thành Hưng Hóa** là một phần của Chiến tranh Pháp–Đại Nam diễn ra từ ngày 11 tháng 4 năm 1884 và kết thúc vào ngày 12 tháng 4 cùng
:_Bài này nói về một tỉnh cũ ở Việt Nam. Xem các nghĩa khác tại Hưng Hóa (định hướng)_ **Hưng Hóa** (Hán-Việt: 興化省) là một tỉnh cũ của Việt Nam vào nửa cuối thế kỷ
**Trận Bắc Ninh** hay **Trận Pháp đánh thành Bắc Ninh** là một phần của cuộc chiến tranh Pháp-Việt 1858-1884 diễn ra từ ngày 7 tháng 3 năm 1884 và kết thúc vào ngày 12 tháng
**Trận Tuyên Quang** hay **Pháp đánh thành Tuyên Quang** là một phần của cuộc chiến tranh Pháp-Việt 1858-1884 diễn ra từ khoảng cuối tháng 5 năm 1884 và kết thúc vào ngày 3 tháng 3
phải|nhỏ|Bản đồ tỉnh lỵ Hưng Hóa năm 1893 thể hiện vị trí thành Hưng Hóa **Thành Hưng Hóa** xưa là lỵ sở của đạo thừa tuyên Hưng Hóa, sau đổi là trấn Hưng Hóa (thời
Đây là danh sách các trận đánh, chiến dịch, cuộc vây hãm, hành quân, các cuộc giao tranh trong lịch sử Việt Nam, diễn ra trên lãnh thổ Việt Nam, qua các triều đại và
nhỏ|Nhà thờ Sơn Tây (Tòa Giám mục Hưng Hóa) năm 1884.|369x369px **Giáo phận Hưng Hóa** (tiếng Latin: _Dioecesis Hunghoaensis_) là một giáo phận Công giáo Rôma tại Việt Nam. Giáo phận nằm trên vùng Tây
**Trận Sơn Tây (1883)**, là trận đánh mà quân đội viễn chinh Pháp tấn công vào thành cổ Sơn Tây, diễn ra từ ngày 13 tháng 12 năm 1883, kết thúc vào tối ngày 16
Ngày 30 tháng 6 năm 1989, Quốc hội ra Nghị quyết chia tỉnh Phú Khánh thành hai tỉnh Phú Yên và Khánh Hòa. ## Thời tiền sử và Vương quốc Chăm Pa trái|nhỏ|Tháp Po Nagar,
**Trận Nam Định** (27 tháng 3 năm 1883), là một cuộc chạm trán giữa quân Pháp và quân Việt Nam, trong giai đoạn đầu của Chiến dịch Bắc Kỳ thuộc chiến tranh Pháp-Việt (1858-1884). Trong
**Quân đoàn bộ binh Bắc Kỳ** (_tirailleurs tonkinois_) là một Quân đoàn bộ binh nhẹ Bắc Kỳ, được thành lập năm 1884 để hỗ trợ cho các hoạt động của Quân đoàn viễn chinh Bắc
** Đế quốc Áo-Hung**, **Nền quân chủ kép**, hoặc gọi đơn giản là _Áo_, là một chính thể quân chủ lập hiến và cường quốc ở Trung Âu. Đế quốc Áo-Hung được thành lập năm
**Cộng hòa Đại thống chế Lan Phương** (phồn thể: 蘭芳大統制共和國; Hán Việt: _Lan Phương Đại thống chế Cộng hòa quốc_) là một chính thể nhà nước của người Hoa ở Tây Kalimantan ở Indonesia, do
thumb|Kinh Bắc (màu xanh lá) ở phía bắc Thăng Long thumb|Bản đồ tỉnh Bắc Ninh năm 1891 thumb|Bản đồ tỉnh Lục Nam năm 1891 **Kinh Bắc** là một trong bốn Trấn quanh Thăng Long xưa,
nhỏ|Tranh trong hang động về [[bò rừng ở Châu Âu (_Bos primigenius primigenius_), Lascaux, Pháp, nghệ thuật thời tiền sử]] **Lịch sử hội họa** được bắt đầu từ những hiện vật của người tiền sử
**Trận kinh thành Huế năm 1885** là một sự kiện chính trị, một trận tập kích của quân triều đình nhà Nguyễn do Tôn Thất Thuyết chỉ huy đánh vào lực lượng Pháp. Sự kiện
Đề Thám bên các cháu của ông Đề Thám trong bộ tây phục **Hoàng Hoa Thám** (chữ Hán: 黃花探; 1858 – 10 tháng 2 năm 1913), tên thật là **Trương Văn Nghĩa** (張文義), còn gọi
nhỏ|[[Hirohito|Thiên hoàng Chiêu Hòa]] là một giai đoạn trong lịch sử Nhật Bản tương ứng với thời gian tại vị của Thiên hoàng Chiêu Hòa, từ ngày 25 tháng 12 năm 1926 đến 7 tháng
**Biên giới Hoa Kỳ** bao gồm địa lý, lịch sử, văn hóa dân gian và biểu hiện văn hóa của cuộc sống trong làn sóng mở rộng của Mỹ bắt đầu từ các khu định
**Trần Văn Trạch** (tên thật: **Trần Quang Trạch**, 1924 - 1994) là một nhạc sĩ và ca sĩ nổi danh từ trước năm 1975 tại Việt Nam Cộng hòa. Với mái tóc dài cùng giọng
**Trần Ngọc Diện** (1884 - 1944), tục gọi là cô **Ba Diện**, là một giáo viên, một nghệ sĩ nhiều tài năng. Bà là người thành lập _Đồng Nữ Ban_, gánh cải lương duy nhất
**Trận Định Tường** hay **Pháp đánh chiếm Định Tường** là một phần của cuộc chiến tranh Pháp-Việt 1858-1884 trong lịch sử Việt Nam, xảy ra từ ngày 26 tháng 3 năm 1861 và kết thúc
**Đảng Dân chủ** (tiếng Anh: _Democratic Party_), cùng với Đảng Cộng hòa, là một trong hai chính đảng lớn nhất tại Hoa Kỳ. Đảng Dân chủ, truy nguyên nguồn gốc của mình đến thời Thomas
**Lâm Sâm** (tiếng Hoa: 林森; bính âm: Lín Sēn; 1868 – 1 tháng 8 năm 1943), tự Tử Siêu (子超), hiệu **Trường Nhân** (長仁), là Tổng thống Trung Hoa Dân Quốc (Khi đó chức vụ
Tranh tường [[Ai Cập cổ đại về việc cày cấy và bắt chim, khoảng 2700 năm trước Công nguyên, hiện lưu giữ ở bảo tàng Ai Cập, Cairo, Ai Cập.]] **Văn hóa** (chữ Hán: 文化,
**Chiến tranh Pháp – Thanh** là cuộc chiến giữa Đệ tam Cộng hòa Pháp và Đế quốc Đại Thanh, diễn ra từ tháng 9 năm 1884 tới tháng 6 năm 1885. Cuộc chiến nổ ra
Các tiểu vùng địa lý tự nhiên
của miền Bắc Việt Nam nhỏ|Tây Bắc Bộ (đỏ) trong Việt Nam **Tây Bắc Bộ** là vùng miền núi phía tây của miền Bắc Việt Nam, có chung đường **Chiến dịch Bắc Kỳ** () là một chiến dịch diễn ra từ tháng 6 năm 1883 đến tháng 4 năm 1886 do Pháp tổ chức, nhằm chống lại các đội quân của người Việt, quân
Chiêu thức _Đơn tiên_ trong Quyền lộ [[Trần thức Thái cực quyền|Trần gia Thái cực quyền]] **Thái cực quyền** (chữ Hán phồn thể: 太極拳; chữ Hán giản thể: 太极拳; bính âm: Taijiquan; Tiếng Anh: Tai
**Phân cấp hành chính thời quân chủ Việt Nam** được tính từ khi Việt Nam giành được độc lập sau thời kỳ bắc thuộc đến khi người Pháp xâm lược và chiếm đóng hoàn toàn
**Đài Bắc** (, Hán Việt: Đài Bắc thị; đọc theo _IPA: tʰǎipèi_ trong tiếng Phổ thông) là thủ đô của Trung Hoa Dân Quốc (Đài Loan) và là thành phố trung tâm của một vùng
**Lãnh thổ Việt Nam qua từng thời kỳ** là sự biến đổi không gian sinh tồn của người Việt. Sự biến đổi này mang tính chất phức tạp, lúc bị mất lãnh thổ về các
Tượng đài [[Trần Văn Thành ở thị trấn Cái Dầu]] **Khởi nghĩa Bảy Thưa** (1867 - 1873) là một cuộc kháng Pháp do Quản cơ Trần Văn Thành làm thủ lĩnh, đã xảy ra trên
**Khánh Hưng** là một xã thuộc tỉnh Cà Mau, Việt Nam. ## Địa lý Xã Khánh Hưng có vị trí địa lý: *Phía đông giáp xã Trần Văn Thời *Phía tây giáp Vịnh Thái Lan
**Trần Trọng Kim** (chữ Hán: 陳仲金; 1883 – 1953) là một học giả, nhà giáo dục, nhà nghiên cứu sử học, văn học, tôn giáo Việt Nam, bút hiệu **Lệ Thần**, từng làm thủ tướng
**Lịch sử quan hệ hai bờ eo biển Đài Loan** giới thiệu thay đổi về lịch sử quan hệ giữa hai bờ eo biển từ xưa đến nay. Các ghi chép sớm nhất trong lịch
**Cố đô Huế**, còn gọi là **Phú Xuân**, là thủ phủ Đàng Trong dưới thời các chúa Nguyễn từ năm 1687 đến 1774, sau đó là thủ đô của triều đại Tây Sơn từ năm
Cuộc **bầu cử tổng thống Hoa Kỳ năm 1880** là cuộc bầu cử tổng thống bốn năm một lần lần thứ 24, được tổ chức vào Thứ Ba, ngày 2 tháng 11 năm 1880. Ứng
nhỏ|Hoằng Trú - thủy tổ Hòa vương phủ **Hòa Thạc Hòa Thân vương** (chữ Hán: 和碩和親王, ) là tước vị Thân vương truyền đời của nhà Thanh trong lịch sử Trung Quốc. ## Khái quát
**Vũ Phạm Hàm** (武范諴, 1864 - 1906) là Nhất giáp Tam nguyên trong ba kỳ thi triều nhà Nguyễn (lúc ông 29 tuổi). Trong lịch sử Việt Nam chỉ có vài Tam nguyên là Đệ
**Trần Thiếu Bạch** (20 tháng 7 năm 1869 - 23 tháng 12 năm 1934) sinh Chan Siu-man, bính âm **Thiếu Bạch**, tên hiệu Kwai-shek, trước thường được gọi là **Trần Văn Thiếu**, khi hoạt động
**Trận Đà Nẵng (1859–1860)** hay **Liên quân Pháp – Tây Ban Nha tấn công Đà Nẵng lần thứ hai** là một trong những trận đánh mở đầu cho cuộc chiến tranh Pháp-Việt 1858-1884 trong lịch
**Da vàng hóa chiến tranh** hay **Vàng hóa chiến tranh** là một chiến lược quân sự mà thực dân Pháp sử dụng trong quá trình xâm chiếm Việt Nam thế kỷ 19 chống lại nhà
**Quân Cờ Đen** () là một nhóm đảng cướp có quân số đa số xuất thân từ quân đội người Tráng, di chuyển từ vùng Quảng Tây của Trung Quốc băng qua biên giới vào
nhỏ|Tướng Louis Briere de lIsle **Louis Alexandre Espirit Gaston Brière de l'Isle** (4 tháng 6, 1827 - 19 tháng 6, 1897) là một tướng quân đội Pháp. Ông từng làm thống đốc Senegal (1876–81), và
**Nhà Nguyễn** (chữ Nôm: 茹阮, chữ Hán: 阮朝; Hán-Việt: _Nguyễn triều_) là triều đại quân chủ cuối cùng trong lịch sử Việt Nam. Nhà Nguyễn được thành lập sau khi
Đây là danh sách **các cuộc chiến tranh liên quan Việt Nam** bao gồm có sự tham gia của Việt Nam hoặc xảy ra trên lãnh thổ Việt Nam. Trong danh sách này, ngoài những
nhỏ|Toàn cảnh thành cổ Sơn Tây nhìn từ trên cao (không ảnh) năm 2022.|303x303px nhỏ|Thành Sơn Tây, tháng 4 năm 1884, một trong 4 thành trong [[Thăng Long tứ trấn|303x303px]] nhỏ|Bản vẽ thành Sơn Tây
**Thành phố Hồ Chí Minh** hiện nay hình thành trên cơ sở sáp nhập nhiều đơn vị hành chính do chính quyền qua các thời kỳ trước đây thành lập. Do đó, tổ chức hành
**Chiến tranh Pháp – Đại Nam** hoặc **chiến tranh Pháp – Việt**, hay còn được gọi là **Pháp xâm lược Đại Nam** là cuộc xung đột quân sự giữa nhà Nguyễn của Đại Nam và