Trận Nam Định (27 tháng 3 năm 1883), là một cuộc chạm trán giữa quân Pháp và quân Việt Nam, trong giai đoạn đầu của Chiến dịch Bắc Kỳ thuộc chiến tranh Pháp-Việt (1858-1884). Trong một chiến dịch ngắn ngủi vào tuần cuối cùng của tháng 3 năm 1883, Chỉ huy Henri Rivière đánh hạ thành Nam Định, thành phố lớn thứ nhì ở Bắc Kỳ, với một hạm đội pháo thuyền nhỏ và một tiểu đoàn thủy quân đánh bộ.
Việc Rivière đánh chiếm Nam Định đánh dấu một bước leo thang quan trọng thể hiện tham vọng của người Pháp tại Bắc Kỳ, và có hệ quả nghiêm trọng. Nhà Thanh (Trung Quốc) bắt đầu ngầm hỗ trợ chính quyền nhà Nguyễn chống lại sự xâm lược của thực dân Pháp. Sự can thiệp của quân Thanh tại Bắc Kỳ cuối cùng dẫn đến cuộc chiến tranh Pháp-Thanh kéo dài 9 tháng (8 năm 1884 tới 4 năm 1885).
Bối cảnh
nhỏ|trái|Henri Rivière (1827–1883)
Nguyên do người Pháp mở rộng tầm can thiệp quân sự vào Bắc Kỳ là vì quyết đoán thiển cận của Henri Rivière, vốn được cử ra Hà Nội chỉ huy một toán quân nhỏ vào cuối năm 1881 để xét các khiếu nại của triều đình Huế về thương nhân Pháp hoạt động trên sông Hồng. Rivière tự ý tiếm quyền, bác bỏ chỉ thị của chính thượng cấp và mở cuộc tấn công chiếm thành Hà Nội ngày 25 tháng 4 năm 1882. Rivière sau đó qua thương lượng trả thành Hà Nội cho quan Việt nhưng việc động binh gây chấn động ở cả Huế và Bắc Kinh.
Khi thành Hà Nội thất thủ, vua Tự Đức liền ra lệnh cho 2 quan kinh lược chính và phó sứ, Nguyễn Chính và Bùi Ân Niên rút binh về Mỹ Đức để cùng Hoàng Tá Viêm, một mặt tổ chức việc phòng thủ, mặt kia triệu Lưu Vĩnh Phúc với đạo quân cờ đen thiện chiến về chống chọi với quân Pháp. Tại Huế, khâm sứ Rheinart yêu cầu triều đình cử tổng đốc mới ra Bắc Kỳ để tiếp thu lại tỉnh thành Hà Nội. Triều đình điều cựu Tổng đốc Hà-Ninh là Trần Đình Túc, trước đã về hưu trí, nay sung khâm sai đại thần hội cùng với Tịnh biên phó sứ Nguyễn Hữu Độ làm phó khâm sai ra Hà Nội thương thuyết với Rivière nhận lại tỉnh thành. Trong khi Rivière và Trần Đình Túc đang thương lượng để quân Pháp triệt thoái ra ngoài thành Hà Nội thì Hoàng Tá Viêm, Nguyễn Chánh, Bùi Ân Niên dâng sớ xin đánh nhưng vua Tự Đức không chấp thuận.
Phía Việt Nam cũng cầu viện nhà Thanh. Bắc Kinh vốn coi nhà Nguyễn là chư hầu bèn tiếp viện quân Cờ đen; về mặt ngoại giao nhà Thanh cũng báo với Paris rằng Trung Hoa không chấp nhận người Pháp chiếm đất phên giậu Bắc Kỳ. Mùa hè năm 1882, Tổng Đốc Vân Nam là Tạ Kính Bưu điều quân Thanh từ Vân Nam và Quảng Tây vượt biên giới tiến vào Bắc Kỳ, chiếm đóng một dải từ thượng du Lạng Sơn, Hưng Hóa xuống tận trung du Bắc Ninh. Đại binh nhà Thanh ở dọc biên giới Quảng Đông, Quảng Tây cũng động binh. Bộ trưởng Pháp đặc trách Trung Hoa, Frédéric Bourée, trước nguy cơ chiến tranh với Trung Quốc tìm cách thỏa thuận với đại diện Thanh triều là Tổng lý nha môn Lý Hồng Chương vào cuối năm 1882 để chia đất Bắc Kỳ, phân định thành hai vùng ảnh hưởng của nhà Thanh và Pháp. Tuy nhiên việc không thành. Nhà Thanh không chấp nhận vì cho là Lý Hồng Chương nhượng bộ quá nhiều. Về mặt Pháp thì chính phủ mới của Jules Ferry bác bỏ thỏa thuận này vào tháng 3 năm 1883, và triệu hồi Bourée về nước.
Trong khi mặt ngoại giao còn bế tắc thì H Rivière vẫn đóng binh trong thành. Nội các Jules Ferry sau đó quyết định tăng viện cho Nam Kỳ thêm 700 binh sĩ và phái tàu Corrèze chở sang. Tàu cập bến Sài Gòn ngày 13 tháng 2 năm 1883. Thống đốc Nam Kỳ lúc bấy giờ là Charles Le Myre de Vilers lại điều tàu Corrèze ra Bắc Kỳ vào ngày 15 tháng 2 1883 giúp Rivière. Bộ trưởng Hải quân và Thuộc địa khi biết tin liền gởi công điện cấp sang Sài Gòn ngày 10 tháng 11 năm 1882, cách chức Le Myre de Vilers vì cho là đương sự vượt quá quyền hạn; Charles Thomson được phái sang, nhậm chức ngày 12 tháng 1 1883 để tìm cách giải quyết xung đột nhưng tình hình ngày càng phức tạp.
Tại Pháp, Nội các chính phủ vẫn không nhất trí về chính sách thuộc địa; một phe muốn rút khỏi Bắc Kỳ. Phe kia đòi xúc tiến quyết liệt hơn. Vì bất đồng mà nội các Pháp trong vài tháng đã phải thay đổi nhân sự mấy lần; bộ trưởng Hải ngoại và Thuộc Địa Jauréguiberry phải rút lui nhường cho Charles Brun.
Ở Hà Nội thì Rivière được tin trều đình Huế có ý định nhượng quyền khai thác mỏ than Hòn Gai cho một công ty người Hoa ở Quảng Đông. Qua trung gian công ty này, người Anh hoặc người Đức có thể nhảy vào Bắc Kỳ, gây trở ngại cho người Pháp. Lấy cớ đó Rivière liền xuất quân chiếm lấy mỏ than Hòn Gai vào ngày 12 tháng 3, 1883 rồi lập một đồn, đóng 25 lính canh giữ.
Diễn biến
thumb|Thành Nam Định, tháng 3 năm 1883
Rivière thông báo cho Thống đốc Nam Kỳ là Thomson cho biết rằng tổng đốc Nam Định đã tuyển mộ từ 10 đến 20 ngàn dân phu để đắp các chướng ngại vật trên các sông ngòi nhằm chặn đường thông thương và tiếp vận của quân Pháp cửa biển vào. Nhân lúc có thêm quân lính vừa được Sài Gòn gởi ra tăng viện, Rivière quyết định đánh chiếm lấy thành Nam Định.
Ngày 23 tháng 3 năm 1883, Henri Rivière giao cho Berthe de Villers ở lại Hà Nội với 400 lính; số còn lại Rivière tự chỉ huy kéo xuống đánh Nam Định. Lực lượng quân Pháp lúc bấy giờ gồm có hơn 4 đại đội thủy quân đánh bộ; chiến thuyền thì có tuần thám hạm Pluvier, các pháo thuyền Fanfare, Hache, Yalagan, Carabine, Surprise, tàu nhỏ hơi nước Haiphong cùng các tàu chuyển vận loại nhỏ Kiang Nam, Tonkin, Whampoa và 4 ghe mành. Ngày 25, đoàn thuyền chiến của Rivière tới trước thành Nam Định. Sau khi cho binh sĩ đổ bộ, Rivière gởi tối hậu thư đòi tổng đốc Nam Định phải giao nộp thành. Một lần nữa kịch bản chiếm thành Hà Nội được lặp lại khi tổng đốc Nam Định không chấp nhận yêu sách của Rivière mà cũng không chịu tiếp kiến; lập tức quân Pháp tổ chức đánh thành Nam Định. Ngày 26 tháng 3 quân Pháp kết thúc cuộc tuần thám quanh thành. Lúc 7 giờ sáng, tàu chiến của Pháp từ sông Vị Hoàng khai hỏa, bắn đại bác vào thành. Đến 11 giờ thì quân Pháp tung quân đoạt thành.
Bên Việt thì có 6.200 binh lính phòng thủ thành Nam Định, do Tổng đốc Võ Trọng Bình và Bố chánh Đồng Sĩ Vịnh thúc quân trong thành chống trả. Khoảng 600 quân Tàu từ Bắc Ninh, do một tướng Cờ Đen chỉ huy tham chiến cùng quân triều đình. Đề đốc Lê Văn Điếm và Án sát Hồ Bá Ôn kéo quân từ trong thành ra giao chiến; Lê văn Điếm tử trận, Hồ Bá Ôn bị thương nặng, không chữa được rồi cũng chết. Quân Pháp tràn vào thành; quân triều đình tháo chạy. Phía quân Pháp chỉ có 3 binh sĩ bị thương và một sĩ quan là Trung tá Carreau bị thương nặng, sáu tuần sau thì chết. Phía quân triều đình giữ thành thì 200 binh sĩ bị thương vong. Tuy chiến thắng nhưng bên Pháp chính phủ không muốn mở rộng chiến sự nên lại ra lệnh cho quân Pháp chỉ được can thiệp khi trong nhưng trường hợp tối cần thiết vì dư luận ở Pháp không ủng hộ việc động binh và chính phủ thì lưỡng lự trước nguy cơ chiến tranh toàn diện với Đại Nam.
Trong lúc Rivière ở Nam Định thì tại Hà Nội, lực lượng của de Villers bị 4.000 quân Việt tấn công trong đêm ngày 26 và 27 tháng 3.
Kết quả
Sau khi hạ thành, quân Pháp chiếm được 98 cỗ đại bác, trong đó có cả năm khẩu pháo 30mm mà Pháp trao cho phía Việt Nam sau hòa ước 1874. Vì thành Nam Định chỉ nhỏ hơn thành Hà Nội ở Bắc Kỳ thời đó, và dù bị một số hư hại trong cuộc pháo kích, vẫn có giá trị phòng thủ, nên Rivière quyết định đóng giữ thành này. Viên chỉ huy tiểu đoàn Badens được cử làm quan trấn thủ thành Nam Định với 440 lính và hai pháo thuyền. Badens nhanh chóng tái lập trật tự, tổ chức lại hội đồng hành chính, phân bổ quan lại theo gợi ý của đoàn truyền giáo Công giáo địa phương. Tới ngày 31 tháng 3, khi Rivière trở lại Hà Nội, quán xá tại Nam Định đã mở cửa trở lại và dân chúng tản cư trở về thành.
👁️
0 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Trận Nam Định** (27 tháng 3 năm 1883), là một cuộc chạm trán giữa quân Pháp và quân Việt Nam, trong giai đoạn đầu của Chiến dịch Bắc Kỳ thuộc chiến tranh Pháp-Việt (1858-1884). Trong
**Trận Sơn Tây (1883)**, là trận đánh mà quân đội viễn chinh Pháp tấn công vào thành cổ Sơn Tây, diễn ra từ ngày 13 tháng 12 năm 1883, kết thúc vào tối ngày 16
Đây là danh sách các trận đánh, chiến dịch, cuộc vây hãm, hành quân, các cuộc giao tranh trong lịch sử Việt Nam, diễn ra trên lãnh thổ Việt Nam, qua các triều đại và
**Chiến tranh Pháp – Đại Nam** hoặc **chiến tranh Pháp – Việt**, hay còn được gọi là **Pháp xâm lược Đại Nam** là cuộc xung đột quân sự giữa nhà Nguyễn của Đại Nam và
**Trận Phủ Hoài năm 1883** còn gọi là **Trận Vọng** hay **Trận Dịch Vọng**, diễn ra trong các ngày 15-16 tháng 8 năm 1883, là trận tấn công của quân Pháp ở Hà Nội vào
**Trận Cầu Giấy** diễn ra ngày 19 tháng 5 năm 1883, là một cuộc chạm trán giữa quân Pháp và quân Cờ Đen, trong giai đoạn đầu của Chiến dịch Bắc Kỳ tại Cầu Giấy
**Trần Văn Gia** (1836-1892), tự _Hanh Chi_, hiệu _Hòe Phù_; là nhà giáo, nhà thơ, và là một vị quan yêu nước trong lịch sử Việt Nam thế kỷ 19. ## Tiểu sử **Trần Văn
**Trần Tiễn Thành** (chữ Hán: 陳踐誠, 1813-1883), trước có tên là **Dưỡng Độn**, sau kỵ quốc úy đổi là **Thời Mẫn**, sau nữa được vua Tự Đức ban tên là **Tiễn Thành**, hiệu là **Tốn
**Trận Gia Quất-Gia Lâm** là một trận đánh trong chiến dịch Bắc Kỳ 1883, giữa quân đội Viễn chinh Pháp và quân đội nhà Nguyễn diễn ra vào các ngày 27-28 tháng 3 năm 1883
**Đại Nam thực lục** () là bộ biên niên sử Việt Nam viết về triều đại các chúa Nguyễn và các vua nhà Nguyễn. Đại Nam thực lục gồm 584 quyển, viết bằng chữ Hán
**Phan Đình Phùng** (chữ Hán: 潘廷逢; 18471896), hiệu **Châu Phong** (珠峰), tự **Tôn Cát**, là một nhà cách mạng Việt Nam, lãnh đạo của cuộc khởi nghĩa Hương Khê chống lại thực dân Pháp trong
**Trần Thúc Nhẫn** (? -1883), trước có tên là Trần Thúc Bình (theo Lô Giang Tiểu sử của Thượng Thư Nguyễn Văn Mại- cháu gọi Trần Thúc Nhẫn bằng cậu trong họ), sau được vua
**Trần Trọng Kim** (chữ Hán: 陳仲金; 1883 – 1953) là một học giả, nhà giáo dục, nhà nghiên cứu sử học, văn học, tôn giáo Việt Nam, bút hiệu **Lệ Thần**, từng làm thủ tướng
**Quốc kỳ nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam** (còn gọi là _"Cờ đỏ sao vàng"_ hay _"Cờ Tổ quốc"_), nguyên gốc là quốc kỳ của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, được
**Hành chính Việt Nam thời Nguyễn** phản ánh bộ máy cai trị từ trung ương tới địa phương của chính quyền nhà Nguyễn trong thời kỳ độc lập (1802-1884). Bộ máy cai trị của nhà
**Hành chính Việt Nam thời Pháp thuộc** là hệ thống hành chính từ trung ương tới địa phương của người Pháp tại Bắc Kỳ, Trung Kỳ và Nam Kỳ từ năm 1884 đến năm 1945.
**Nghệ sĩ chèo ở Việt Nam** là những người hoạt động trong lĩnh vực nghệ thuật sân khấu chèo, gồm những nghệ sĩ chuyên nghiệp trong các nhà hát chèo và các nghệ nhân không
**Công giáo tại Việt Nam** là một bộ phận của Giáo hội Công giáo, dưới sự lãnh đạo tinh thần của các giám mục tại Việt Nam, hiệp thông với giáo hoàng. Với số tỉ
**Nguyễn Đình Chiểu** (chữ Hán: 阮廷炤; 1822 - 1888), tục gọi là **cụ đồ Chiểu** (khi dạy học), tự **Mạnh Trạch**, hiệu **Trọng Phủ**, **Hối Trai** (sau khi bị mù), là một nhà thơ lớn
**Bình Định** là một tỉnh cũ ven biển nằm ở phía bắc vùng Duyên hải Nam Trung Bộ, miền Trung, Việt Nam. Ngày 12 tháng 6 năm 2025, Quốc hội thông qua Nghị quyết số
nhỏ|phải|Trần Đình Túc **Trần Đình Túc** (陳廷肅, 1808-1892), quê làng Hà Trung xã Gio Châu huyện Gio Linh tỉnh Quảng Trị, quan đại thần nhà Nguyễn (thời Tự Đức), từng giữ các chức Tổng đốc
phải|Đất Nam Kỳ vào đầu thời nhà Nguyễn, cho đến trước năm 1841. **Nam Kỳ Lục tỉnh** (南圻六省) hay **Lục tỉnh** (六省), là tên gọi của vùng Nam Bộ vào đầu thời nhà Nguyễn, tức
nhỏ|Tháp mộ Trần Bá Lộc nằm trong khu đất Thánh tại thị trấn Cái Bè **Trần Bá Lộc** (, 1839-1899) là một cộng sự đắc lực của thực dân Pháp trong việc đàn áp nhiều
**Trần Đại Nghĩa** (13 tháng 9 năm 1913 – 9 tháng 8 năm 1997) là một Giáo sư, Viện sĩ, kỹ sư quân sự, nhà bác học, Tướng lĩnh Quân đội nhân dân Việt Nam,
**Phan Đỉnh Tân** (; 1828-1888), tự **Cầm Hiên** (琴轩), là một nhân vật chính trị, quân sự thời nhà Thanh. Phan chính là người chỉ huy quân Thanh đánh bại quân Pháp tại trận Lạng
**Nam Kỳ** (chữ Hán: 南圻) là lãnh thổ cực Nam của nước Đại Nam triều Nguyễn, là một trong ba kỳ hợp thành nước Việt Nam. Tên gọi này do vua Minh Mạng đặt ra
**Trần Thị Trâm** (1860 – 1930), là một thành viên trong phong trào Cần Vương và phong trào Đông Du tại Việt Nam. Chính vì những công lao và sự hy sinh của bà, mà
**Danh sách các trận chiến** này được liệt kê mang **tính địa lý, theo từng quốc gia với lãnh thổ hiện tại**. ## Áo * Trận đồng Marchfeld (**Trận Dürnkrut và Jedenspeigen**) - 1278 *
**Án lệ Việt Nam** là những lập luận hoặc phán quyết trong bản án hay quyết định đã có hiệu lực pháp luật của tòa án Việt Nam về một vụ việc cụ thể được
phải|nhỏ|Bản đồ các giáo phận Công giáo Việt Nam **Giáo hội Công giáo tại Việt Nam** hiện tại được tổ chức theo địa giới gồm có 3 giáo tỉnh là Hà Nội, Huế và Sài
nhỏ|phải|Lễ ký kết Hiệp ước Quý Mùi tại Thuận An-Huế, ngày 25 tháng 8 năm 1883, trong đó: [[Trần Đình Túc (ngồi đầu bên trái), François Jules Harmand (thứ 3 bên trái) và Nguyễn Trọng
**Trận Cửa Thuận An** (20 tháng 8 năm 1883) là trận giao tranh giữa quân Pháp và nước Đại Nam một năm trước khi Chiến tranh Pháp-Thanh (tháng 8 năm 1884 tới tháng 4 năm
**Trận Bắc Ninh** hay **Trận Pháp đánh thành Bắc Ninh** là một phần của cuộc chiến tranh Pháp-Việt 1858-1884 diễn ra từ ngày 7 tháng 3 năm 1884 và kết thúc vào ngày 12 tháng
**Trần Điền** (1911 - 1968) là một thượng nghị sĩ trong Quốc hội Việt Nam Cộng hòa. Ông cũng là một trong các trưởng thế hệ sáng lập Hướng đạo Việt Nam. Ông bị phía
**Trần Nghi** (; tự Công Hiệp (公俠) rồi Công Hiệp (khác nghĩa) (公洽), hiệu Thoái Tố (退素); 1883 – 18 tháng 8 năm 1950) là Chủ tịch và Tổng tư lệnh Cảnh vệ (警備總司令) tỉnh
**Thọ Xuân Vương** (chữ Hán: 壽春王; 5 tháng 8 năm 1810 - 5 tháng 11 năm 1886), biểu tự **Minh Tỉnh** (明靜), hiệu **Đông Trì** (東池), là hoàng tử nhà Nguyễn, một hoàng thân có
**Lịch sử Việt Nam** nếu tính từ lúc có mặt con người sinh sống thì đã có hàng vạn năm trước Công Nguyên, còn tính từ khi cơ cấu nhà nước được hình thành thì
**Tú Xương** tên thật là **Trần Tế Xương** (陳濟昌) (5 tháng 9 năm 1870 - 29 tháng 1 năm 1907), tự Mặc Trai, hiệu Mộng Tích, Tử Thịnh là một nhà thơ người Việt Nam.
Dân cư sinh sống có tổ chức trên lãnh thổ Việt Nam xuất hiện tương đối sớm so với trên thế giới, tuy nhiên việc hình thành nhà nước chuyên chế lại tương đối muộn
Tại góc đông bắc kinh thành Huế, bên ngoài cửa Trấn Bình có một vòng thành đắp bằng đất có từ năm Gia Long thứ 4 (1805) gọi là **đài Thái Bình**. Đến năm Minh
**Đinh Công Tráng** (1842 - 1887) là lãnh tụ chính của khởi nghĩa Ba Đình (tên cứ điểm ở huyện Nga Sơn, tỉnh Thanh Hóa) trong phong trào Cần Vương chống Pháp ở cuối thế
**Trần Xuân Soạn** (陳春撰, 1849-1923), là tướng nhà Nguyễn trong lịch sử Việt Nam. Đầu tháng 4 năm 1885, thời vua Hàm Nghi, ông cùng tướng Tôn Thất Thuyết đánh Pháp đóng ở đồn Mang
Đông Nam Bộ (màu tím) và Tây Nam Bộ (màu hồng) **Nam Bộ** (hay còn gọi là **miền Nam**) là một trong 3 miền địa lý của Việt Nam (gồm Bắc Bộ, Trung Bộ và
**Đinh Văn Chất** (chữ Hán: 丁文質; 1843–1887), tự **Giả Phu**, hiệu **Trực Hiên**, là một nhà khoa bảng, quan lại nhà Nguyễn và một sĩ phu kháng Pháp dưới triều vua Tự Đức trong lịch
Cuốn sáchTriết học KantcủaTS. Trần Thái Đỉnh được xuất bản lần đầu tiên năm 1969, NXB Nam Chi Tùng Thư, Sài Gòn sau đó sách được Nxb Văn Mới, Sài Gòn, tái bản lần thứ
**Trần Văn Dư** (chữ Hán: 陳文璵; 1839-1885), húy **Tự Dư**, thụy **Hoán Nhược** ; là quan nhà Nguyễn và là thủ lĩnh Nghĩa hội Quảng Nam trong phong trào Cần Vương tại Việt Nam. ##
**Quan hệ Pháp – Việt Nam** (hoặc **Quan hệ Việt–Pháp** hay **Quan hệ Pháp–Việt**) được xem là khởi nguồn từ đầu thế kỷ 17 với công cuộc truyền giáo của các linh mục dòng Tên
**Nguyễn Quang Bích** (chữ Hán: 阮光碧, 1832 – 1890), còn có tên là **Ngô Quang Bích**, tự **Hàm Huy**, hiệu **Ngư Phong**; là quan nhà Nguyễn, nhà thơ và là lãnh tụ cuộc khởi nghĩa
**Trần Viết Thọ** (1836-1899), tự: **Sơn Phủ**, hiệu: **Điềm Tĩnh cư sĩ**; là tu sĩ Tam giáo, và là quan nhà Nguyễn trong lịch sử Việt Nam. ## Tiểu sử **Trần Viết Thọ** là người
**Hoàng Đình Kinh** (1830 – 1888), còn gọi là **Cai Kinh**, ông là một thủ lĩnh người Tày lãnh đạo cuộc khởi nghĩa chống Pháp trong vòng 7 năm(1882 – 1888) ở Lạng Giang vào