✨Bình Định (tỉnh)

Bình Định (tỉnh)

Bình Định là một tỉnh cũ ven biển nằm ở phía bắc vùng Duyên hải Nam Trung Bộ, miền Trung, Việt Nam. Ngày 12 tháng 6 năm 2025, Quốc hội thông qua Nghị quyết số 202/2025/QH15 về việc sắp xếp đơn vị hành chính cấp tỉnh năm 2025, theo đó tỉnh được giải thể để sáp nhập vào tỉnh Gia Lai.

Địa lý

Vị trí địa lý

Bình Định là tỉnh duyên hải miền Trung Việt Nam. Lãnh thổ của tỉnh trải dài 110 km theo hướng Bắc – Nam, có chiều ngang với độ hẹp trung bình là 55 km (chỗ hẹp nhất 50 km, chỗ rộng nhất 60 km), có vị trí địa lý: Phía đông giáp Biển Đông Phía tây giáp tỉnh Gia Lai Phía nam giáp tỉnh Phú Yên Phía bắc giáp tỉnh Quảng Ngãi.

Tỉnh lỵ của Bình Định là thành phố cảng Quy Nhơn, cách Thủ đô Hà Nội 1.070 km về phía nam, cách thành phố Đà Nẵng 323 km về phía nam và cách Thành phố Hồ Chí Minh 652 km về phía bắc theo đường Quốc lộ 1. Điểm cực Đông là xã Nhơn Châu (Cù Lao Xanh) thuộc thành phố Quy Nhơn (có tọa độ: 13°36'33 Bắc, 109°21' Đông). Bình Định được xem là một trong những cửa ngõ ra biển của các tỉnh Tây Nguyên và vùng nam Lào.

Địa hình

[[Đầm Thị Nại (TP Quy Nhơn, Tuy Phước, Phù Cát)]] Địa hình của tỉnh tương đối phức tạp, thấp dần từ tây sang đông. Phía tây của tỉnh là vùng núi rìa phía đông của dãy Trường Sơn Nam, kế tiếp là vùng trung du và tiếp theo là vùng ven biển. Các dạng địa hình phổ biến là các dãy núi cao, đồi thấp xen lẫn thung lũng hẹp độ cao trên dưới 100 mét, hướng vuông góc với dãy Trường Sơn, các đồng bằng lòng chảo, các đồng bằng duyên hải bị chia nhỏ do các nhánh núi đâm ra biển. Ngoài cùng là cồn cát ven biển có độ dốc không đối xứng giữa 2 hướng sườn đông và tây. Các dạng địa hình chủ yếu của tỉnh là:

Vùng núi: Nằm về phía tây bắc và phía tây của tỉnh. Đại bộ phận sườn dốc hơn 20°. Có diện tích khoảng 249.866 ha, phân bố ở các huyện An Lão (63.367 ha), Vĩnh Thạnh (78.249 ha), Vân Canh (75.932 ha), Tây Sơn và Hoài Ân (31.000 ha). Bốn huyện An Lão, Vân Canh, Vĩnh Thạnh, Tây Sơn được xem là thuộc khu vực Tây Sơn theo một văn bản quy phạm pháp luật của Việt Nam. Địa hình khu vực này phân cắt mạnh, sông suối có độ dốc lớn, là nơi phát nguồn của các sông trong tỉnh. Chiếm 70% diện tích toàn tỉnh thường có độ cao trung bình 500-1.000 m, trong đó có 11 đỉnh cao trên 1.000 m. Hai đỉnh cao trên 1.150 m, tại tọa độ: (14.573366, 108.709717) và (14.589110, 108.711478), ở phía Bắc xã An Toàn (huyện An Lão) được xem là cao nhất Bình Định. Còn lại có 13 đỉnh cao 700–1000 m. Các dãy núi chạy theo hướng Bắc - Nam, có sườn dốc đứng. Nhiều khu vực núi ăn ra sát biển tạo thành các mỏm núi đá dọc theo bờ, vách núi dốc đứng và dưới chân là các dải cát hẹp. Đặc tính này đã làm cho địa hình ven biển trở thành một hệ thống các dãy núi thấp xen lẫn với các cồn cát và đầm phá. Vùng đồi: tiếp giáp giữa miền núi phía tây và đồng bằng phía đông, có diện tích khoảng 159.276 ha (chiếm khoảng 10% diện tích), có độ cao dưới 100 m, độ dốc tương đối lớn từ 10° đến 15°. Phân bố ở các thị xã Hoài Nhơn (15.089 ha), An Lão (5.058 ha) và Vân Canh (7.924 ha). Vùng đồng bằng: Bình Định không có dạng đồng bằng châu thổ mà phần lớn là các đồng bằng nhỏ được tạo thành do các yếu tố địa hình và khí hậu, các đồng bằng này thường nằm trên lưu vực của các con sông hoặc ven biển và được ngăn cách với biển bởi các đầm phá, các đồi cát hay các dãy núi. Độ cao trung bình của dạng địa hình đồng bằng lòng chảo này khoảng 25–50 m và chiếm diện tích khoảng 1.000 km². Đồng bằng lớn nhất của tỉnh là đồng bằng thuộc hạ lưu sông Côn, còn lại là các đồng bằng nhỏ thường phân bố dọc theo các nhánh sông hay dọc theo các chân núi và ven biển. Vùng ven biển: Bao gồm các cồn cát, đụn cát tạo thành một dãy hẹp chạy dọc ven biển với chiều rộng trung bình khoảng 2 km, hình dạng và quy mô biến đổi theo thời gian. Trong tỉnh có các dãi cát lớn là: dãi cát từ Hà Ra đến Tân Phụng, dãi cát từ Tân Phụng đến vĩnh Lợi, dãi cát từ Đề Gi đến Tân Thắng, dãi cát từ Trung Lương đến Lý Hưng. Ven biển còn có nhiều đầm như đầm Trà Ổ, đầm Nước Ngọt, đầm Mỹ Khánh, đầm Thị Nại; các vịnh như vịnh Làng Mai, vịnh Quy Nhơn, vịnh Vũng Mới...; các cửa biển như Cửa Tam Quan, cửa An Dũ, cửa Hà Ra, cửa Đề Gi và cửa Quy Nhơn. Các cửa trên là cửa trao đổi nước giữa sông và biển. Hiện tại ngoại trừ cửa Quy Nhơn và cửa Tam Quan khá ổn định, còn các cửa An Dũ, Hà Ra, Đề Gi luôn có sự bồi lấp và biến động.

Hải đảo

Ven bờ biển tỉnh Bình Định gồm có 33 đảo lớn nhỏ được chia thành 10 cụm đảo hoặc đảo đơn lẻ. Tại khu vực biển thuộc thành phố Quy Nhơn gồm cụm đảo Cù Lao Xanh là cụm đảo lớn gồm 3 đảo nhỏ; cụm Đảo Hòn Đất gồm các đảo nhỏ như Hòn Ngang, Hòn Đất, Hòn Rớ; cụm Đảo Hòn Khô còn gọi là cù lao Hòn Khô gồm 2 đảo nhỏ; cụm Đảo Nghiêm Kinh Chiểu gồm 10 đảo nhỏ (lớn nhất là Hòn Sẹo); cụm Đảo Hòn Cân gồm 5 đảo nhỏ trong đó có Hòn ông Căn là điểm A9 trong 12 điểm để xác định đường cơ sở của Việt Nam; Đảo đơn Hòn Ông Cơ. Tại khu vực biển thuộc huyện Phù Mỹ gồm cụm Đảo Hòn Trâu hay Hòn Trâu Nằm gồm 4 đảo nhỏ; Đảo Hòn Khô còn gọi là Hòn Rùa. Ven biển xã Mỹ Thọ có 3 đảo nhỏ gồm: Đảo Hòn Đụn còn gọi là Hòn Nước hay Đảo Đồn; Đảo Hòn Tranh còn gọi là Đảo Quy vì có hình dáng giống như con rùa, đảo này nằm rất gần bờ có thể đi bộ ra đảo khi thủy triều xuống; Đảo Hòn Nhàn nằm cạnh Hòn Đụn. Trong các đảo nói trên thì chỉ đảo Cù Lao Xanh là có dân cư sinh sống, các đảo còn lại là những đảo nhỏ một số đảo còn không có thực vật sinh sống chỉ toàn đá và cát. Dọc bờ biển của tỉnh, ngoài các đèn hiệu hướng dẫn tàu thuyền ra vào cảng Quy Nhơn, thì Bình Định còn có 3 ngọn hải đăng: một ngọn được xây dựng trên mạng bắc của núi Gò Dưa thuộc thôn Tân Phụng xã Mỹ Thọ huyện Phù Mỹ, ngọn này có tên gọi là Hải đăng Vũng Mới (hay Hải đăng Hòn Nước); ngọn thứ hai là Hải đăng Cù Lao Xanh được xây dựng trên đảo Cù Lao Xanh thuộc xã Nhơn Châu thành phố Quy Nhơn; ngon thứ ba là Hải đăng Phước Mai tọa lạc ở chóp mũi bán đảo Phương Mai, làng chài Hải Minh (khu vực 9, P.Hải Cảng, TP.Quy Nhơn).

Sông ngòi

Các sông trong tỉnh đều bắt nguồn từ những vùng núi cao của sườn phía đông dãy Trường Sơn. Các sông ngòi không lớn, độ dốc cao, ngắn, hàm lượng phù sa thấp, tổng trữ lượng nước 5,2 tỷ m³, tiềm năng thủy điện 182,4 triệu kw. Ở thượng lưu có nhiều dãy núi bám sát bờ sông nên độ dốc rất lớn, lũ lên xuống rất nhanh, thời gian truyền lũ ngắn. Ở đoạn đồng bằng lòng sông rộng và nông có nhiều luồng lạch, mùa kiệt nguồn nước rất nghèo nàn; nhưng khi lũ lớn nước tràn ngập mênh mông vùng hạ lưu gây ngập úng dài ngày vì các cửa sông nhỏ và các công trình che chắn nên thoát lũ kém. Trong tỉnh có bốn con sông lớn là Côn, Lại Giang, La Tinh và Hà Thanh cùng các sông nhỏ như Châu Trúc hay Tam Quan. Ngoài các sông đáng kể nói trên còn lại là hệ thống các suối nhỏ chằng chịt thường chỉ có nước chảy về mùa lũ và mạng lưới các sông suối ở miền núi tạo điều kiện cho phát triển thủy lợi và thủy điện. Độ che phủ của rừng đến nay chỉ còn khoảng trên 40% nên hàng năm các sông này gây lũ lụt, sa bồi, thủy phá nghiêm trọng. Ngược lại, mùa khô nước các sông cạn kiệt, thiếu nước tưới.

Hồ đầm

Toàn tỉnh Bình Định có nhiều hồ nhân tạo được xây dựng để phục vụ mục đích tưới tiêu trong mùa khô. Trong đó có thể kể tên một số hồ lớn tại các huyện trong tỉnh như: hồ Hưng Long (An Lão); hồ Vạn Hội, Mỹ Đức và Thạch Khê (Hoài Ân); hồ Mỹ Bình (Hoài Nhơn); hồ Hội Sơn và Mỹ Thuận (Phù Cát); hồ Diêm Tiêu, Hóc Nhạn và Phú Hà (Phù Mỹ); hồ Định Bình, Thuận Ninh (Tây Sơn); hồ Núi Một (Vân Canh - An Nhơn); hồ Vĩnh Sơn, hồ Định Bình (Vĩnh Thạnh). Ngoài ra Bình Định còn có một đầm nước ngọt khá rộng là đầm Trà Ổ (Phù Mỹ) và hai đầm nước lợ là Đề Gi (Phù Mỹ - Phù Cát) và Thị Nại (Tuy Phước - Quy Nhơn). Hệ thống hồ đầm này tạo điều kiện thuận lợi cho việc phát triển nông nghiệp và nuôi trồng thủy hải sản. Đặc biệt đầm Thị Nại là đầm lớn rất thuận lợi cho việc phát triển cảng biển tầm cỡ quốc gia và góp phần phát triển khu kinh tế Nhơn Hội, đầm còn được biết đến với cây cầu vượt biển dài thứ hai Việt Nam hiện nay sau cầu Đình Vũ (Hải Phòng).

Khí hậu

Khí hậu Bình Định có tính chất nhiệt đới ẩm, gió mùa. Do sự phức tạp của địa hình nên gió mùa khi vào đất liền đã thay đổi hướng và cường độ khá nhiều. Nhiệt độ không khí trung bình năm: ở khu vực miền núi biến đổi 20,1 - 26,1 °C, cao nhất là 31,7 °C và thấp nhất là 16,5 °C. Tại vùng duyên hải, nhiệt độ không khí trung bình năm là 27,0 °C, cao nhất 39,9 °C và thấp nhất 15,8 °C. Độ ẩm tuyệt đối trung bình tháng trong năm: tại khu vực miền núi là 22,5 - 27,9% và độ ẩm tương đối 79-92%; tại vùng duyên hải độ ẩm tuyệt đối trung bình là 27,9% và độ ẩm tương đối trung bình là 79%. Chế độ mưa: mùa mưa bắt đầu từ tháng 9 đến tháng 12. Riêng đối với khu vực miền núi có thêm một mùa mưa phụ tháng 5 - 8 do ảnh hưởng của mùa mưa Tây Nguyên. Mùa khô kéo dài tháng 1 - 8. Đối với các huyện miền núi tổng lượng mưa trung bình năm 2.000 - 2.400 mm. Đối với vùng duyên hải tổng lượng mưa trung bình năm là 1.751 mm. Tổng lượng mưa trung bình có xu thế giảm dần từ miền núi xuống duyên hải và có xu thế giảm dần từ Tây Bắc xuống Đông Nam. Về bão: Bình Định nằm ở miền Duyên hải Nam Trung Bộ, đây là miền thường có bão đổ bộ vào đất liền. Hàng năm trong đoạn bờ biển từ Quảng Nam - Đà Nẵng đến Khánh Hòa trung bình có 1,04 cơn bão đổ bộ vào. Tần suất xuất hiện bão lớn nhất tháng 9 - 11.

Hành chính

Trước ngày 12 tháng 6 năm 2025, tỉnh Bình Định có 11 đơn vị hành chính cấp huyện bao gồm: 1 thành phố, 2 thị xã và 8 huyện; được phân chia thành 155 đơn vị hành chính cấp xã gồm 28 phường, 12 thị trấn và 115 xã.

|width="50%" valign="top" style="background: #f9f9f9;" |

|valign="top" style="background: #f9f9f9; font-size: 90%" | |}

Lịch sử

phải|nhỏ|Bản đồ tỉnh Bình Định của Nhà Nguyễn trong [[Đại Nam nhất thống chí ]]

Bình Định đời nhà Hán là huyện Tượng Lâm thuộc quận Nhật Nam, năm Vĩnh Hoà 2 (137) người trong quận làm chức Công Tào tên là Khu Liên đã giết viên huyện lệnh chiếm đất và tự phong là Lâm Ấp vương.

Đời nhà Tùy (605) dẹp Lâm Ấp đặt tên là Xung Châu, sau đó lại lấy tên cũ là Lâm Ấp.

Đời nhà Đường, năm 627 đổi tên là Lâm Châu. Năm 803, nhà Đường bỏ đất này và nước Chiêm Thành của người Chăm ra đời, đất này được đổi là Đồ Bàn, Thị Nại.

Di tích Tử cấm Thành của Thành Hoàng Đế ở An Nhơn Đời nhà Lê, tháng 7 năm 1471, vua Lê cho lập phủ Hoài Nhơn gồm 3 huyện là: Bồng Sơn, Phù Ly và Tuy Viễn. Từ đó người Việt bắt đầu tiến vào sinh sống trên vùng đất Bình Định ngày nay. Năm 1490 (chưa đầy 20 năm sau), theo Thiên nam dư hạ tập cho biết: dưới thời Hồng Đức, Phủ Hoài Nhơn có 19 tổng và 100 xã.

Năm 1602, chúa Nguyễn Hoàng cho đổi phủ Hoài Nhơn thành phủ Quy Nhơn thuộc dinh Quảng Nam.

Năm 1651, chúa Nguyễn Phúc Tần, đã đổi tên phủ Quy Nhơn thành phủ Quy Ninh.

Năm 1742, chúa Nguyễn Phúc Khoát cho lấy lại tên cũ là Quy Nhơn.

Năm 1744, chúa Nguyễn Phúc Khoát đặt các đạo làm dinh, nhưng cấp phủ vẫn giữ nguyên. Phủ Quy Nhơn vẫn thuộc về dinh Quảng Nam, đặt các chức tuần phủ và khám lý để cai trị. Phủ lỵ dời ra phía Bắc thành Đồ Bàn, đóng tại thôn Châu Thành (nay là phường Nhơn Thành, thị xã An Nhơn).

Năm 1725, ở phủ Quy Nhơn đặt các chức quan trông coi: Chánh hộ, Khám lý, Đề đốc, Đề lãnh, Ký lục, Cai phủ, Thư ký, mỗi chức đặt một người; mỗi huyện đặt cai tri, thư ký, mỗi chức một người và 2 viên lục lại; mỗi tổng có cai tổng.

Giữa thế kỷ 18, có cuộc khởi nghĩa của một chàng trai ở Gò Sặt võ nghệ cao cường, tên là Lía. Chàng chọn Truông Mây làm căn cứ. Ngày nay còn có câu:

Từ 1773 đến 1797, nhà Tây Sơn chiếm cứ đất này, sau khi lấy lại đất này Nguyễn Ánh đổi tên đất này là dinh Bình Định, sai Võ Tánh và Ngô Tùng Châu trấn thủ và đặt quan cai trị gọi là Lưu Thủ, Cai Bộ, Ký Lục.

Từ 1799 đến 1802, thành Quy Nhơn bị quân Nguyễn Ánh chiếm đóng và đổi làm thành Bình Định và suốt chiều dài lịch sử, đây là trung tâm cai trị của triều Nguyễn tại Bình Định trong những năm đầu thế kỷ XIX.

Năm 1808 đổi dinh Bình Định thành trấn Bình Định.

Năm 1814, vua Gia Long cho xây dựng lại thành Bình Định mới, ngày nay ở phường Bình Định thị xã An Nhơn, nằm về phía đông nam và cách thành cũ khoảng 5 km ở phía gần sông Côn. Sau khi xây xong cho chuyển toàn bộ nhà cửa về thành mới này.

Năm 1825 đặt tri phủ Quy Nhơn, năm 1831 lại đổi thành phủ Hoài Nhơn.

phải|nhỏ|Bản đồ tỉnh Bình Định năm 1909 (bấy giờ địa bàn bao gồm cả tỉnh Kon Tum và một phần tỉnh Gia Lai ngày nay) Năm 1832 tách huyện Tuy Viễn thành hai huyện Tuy Viễn và Tuy Phước, tách huyện Phù Ly thành hai huyện Phù Mỹ và Phù Cát đồng thời lập Bình Định và Phú Yên thành liên tỉnh Bình Phú, sau đó bỏ liên tỉnh này.

Năm 1885 Bình Định là một tỉnh lớn ở Trung Kỳ, nhiều vùng đất của Gia Lai - Kon Tum còn thuộc về Bình Định. Cai trị lúc này là Công sứ Quy Nhơn Eugene Navelle (1883 - 1886). Khi Charles Lemire làm Công sứ Quy Nhơn (1886 - 1888), Pháp lập huyện Bình Khê.

Năm 1890, thực dân Pháp sáp nhập thêm Phú Yên vào tỉnh Bình Định thành tỉnh Bình Phú, tỉnh lỵ là Quy Nhơn, do Edmond Guiomar làm Công sứ (1888 - 1890). Nhưng đến năm 1899, Phú Yên tách ra khỏi Bình Phú.

Ngày 4 tháng 7 năm 1905, Toàn quyền Đông Dương ra nghị định thành lập tỉnh tự trị Pleikou Derr, tỉnh lỵ đặt tại làng Pleiku Der của dân tộc Gia Rai. Địa bàn tỉnh Pleikou Derr bao gồm các vùng cư trú của đồng bào thiểu số Xơ Đăng, Ba Na, Gia Rai tách từ tỉnh Bình Định ra.

Ngày 25 tháng 4 năm 1907 xoá bỏ tỉnh Pleikou Derr. Toàn bộ đất đai của tỉnh này chia làm hai phần: một là Đại lý Kontum cho sáp nhập trở lại tỉnh Bình Định và đặt dưới sự cai trị của viên Công sứ Bình Định là Augustin Sandré (1907 - 1910); một gọi là Đại lý Cheo Reo, cho sáp nhập vào tỉnh Phú Yên và đặt dưới sự cai trị của viên Công sứ Phú Yên Benjamin Léhé (1907 - 1910)

Năm 1913, thực dân Pháp lại sáp nhập Phú Yên vào Bình Định thành tỉnh Bình Phú và thành lập tỉnh Kontum làm tỉnh riêng; địa bàn tỉnh Kontum bao gồm Đại lý Kontum tách từ tỉnh Bình Định, Đại lý Cheo Reo tách từ tỉnh Phú Yên và tỉnh Đắk Lắk. Ngày 28 tháng 3 năm 1917 cắt tổng Tân Phong và tổng An Khê thuộc cao nguyên An Khê, tỉnh Bình Định sáp nhập vào tỉnh Kontum.

Năm 1921, thực dân Pháp cắt tỉnh Phú Yên ra khỏi tỉnh Bình Định và kéo dài cho đến năm 1945. Thời Việt Nam Cộng hòa đổi các huyện thành quận, tỉnh Bình Định có 11 quận, 1 thị xã, trong đó có 4 quận miền núi.

Tháng 2 năm 1976, Cộng hòa Miền Nam Việt Nam ra nghị định về việc giải thể khu, hợp nhất tỉnh ở miền Nam Việt Nam. Theo đó hai tỉnh Quảng Ngãi và Bình Định hợp nhất thành tỉnh Nghĩa Bình.

Ngày 24 tháng 8 năm 1981, chia huyện Hoài An thành 2 huyện: Hoài Ân và An Lão; chia huyện Phước Vân thành 2 huyện: Tuy Phước và Vân Canh; chia huyện Tây Sơn thành 2 huyện: Tây Sơn và Vĩnh Thạnh.

Ngày 3 tháng 7 năm 1986, chuyển thị xã Quy Nhơn thành thành phố Quy Nhơn.

Ngày 30 tháng 6 năm 1989, tỉnh Bình Định được tái lập từ tỉnh Nghĩa Bình cũ.

Khi tách ra, tỉnh Bình Định có 11 đơn vị hành chính gồm: thành phố Quy Nhơn (tỉnh lỵ) và 10 huyện: An Lão, An Nhơn, Hoài Ân, Hoài Nhơn, Phù Cát, Phù Mỹ, Tây Sơn, Tuy Phước, Vân Canh, Vĩnh Thạnh.

Ngày 4 tháng 7 năm 1998, thành phố Quy Nhơn được công nhận là đô thị loại II.

Ngày 25 tháng 1 năm 2010, thành phố Quy Nhơn được công nhận là đô thị loại I trực thuộc tỉnh Bình Định.

Ngày 28 tháng 11 năm 2011, chuyển huyện An Nhơn thành thị xã An Nhơn.

Ngày 1 tháng 6 năm 2020, chuyển huyện Hoài Nhơn thành thị xã Hoài Nhơn.

Ngày 2 tháng 3 năm 2021, thị xã An Nhơn được công nhận là đô thị loại III. Tỉnh Bình Định có 1 thành phố, 2 thị xã và 8 huyện.

Ngày 12 tháng 6 năm 2025, Quốc hội ban hành Nghị quyết số 202/2025/QH15 về việc sắp xếp đơn vị hành chính cấp tỉnh (nghị quyết có hiệu lực từ ngày 12 tháng 6 năm 2025). Theo đó, sáp nhập tỉnh Bình Định vào tỉnh Gia Lai.

Kinh tế - xã hội

Bình Định có vị trí địa kinh tế đặc biệt quan trọng trong việc giao lưu với các quốc gia ở khu vực và quốc tế; nằm ở trung điểm của trục giao thông đường sắt và đường bộ Bắc - Nam Việt Nam, đồng thời là cửa ngõ ra biển Đông gần nhất và thuận lợi nhất của Tây Nguyên, Nam Lào, Đông Bắc Campuchia và Đông Bắc Thái Lan thông qua Quốc lộ 19 và cảng biển quốc tế Quy Nhơn. Ngoài lợi thế này, Bình Định còn có nguồn tài nguyên tự nhiên, tài nguyên nhân văn phong phú và nguồn nhân lực khá dồi dào. Trong Quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội tỉnh Bình Định đến năm 2020 đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt (theo Quyết định số 54/2009/QĐ-TTg ngày 14/4/2009), Bình Định được xác định sẽ phấn đấu trở thành tỉnh có nền công nghiệp hiện đại và là một trong những trung tâm phát triển về kinh tế - xã hội, đóng góp tích cực vào sự phát triển của Vùng kinh tế trọng điểm miền Trung và cả nước, đời sống nhân dân được cải thiện và nâng cao, môi trường sinh thái được bảo vệ, an ninh và quốc phòng luôn bảo đảm.

Các chỉ tiêu đạt được năm 2018: Về các chỉ tiêu kinh tế, Tổng sản phẩm trên địa bàn (GRDP) tăng 7,32% (kế hoạch 7-7,2%). Trong đó, giá trị tăng thêm của các ngành: Nông, lâm, thủy sản tăng 4,99% (kế hoạch 3%). Công nghiệp, xây dựng tăng 9,03% (kế hoạch 10-10,2%). Dịch vụ tăng 7,38% (kế hoạch 7,2-7,5%). Thuế trừ trợ cấp sản phẩm 8,43% (kế hoạch 6,5%).

Chỉ số sản xuất công nghiệp tăng 8,71% (kế hoạch 9%), tổng kim ngạch xuất khẩu đạt 800 triệu USD (kế hoạch 800 triệu USD), tổng nguồn vốn đầu tư phát triển toàn xã hội trên địa bàn tỉnh ước tăng 9,7% so cùng kỳ (kế hoạch 9,22%). Tổng thu ngân sách trên địa bàn tỉnh đạt 8.466,4 tỷ đồng (dự toán năm 2018 là 6.775,5 tỷ đồng), vượt 25% dự toán năm và tăng 11,7% so với cùng kỳ. Trong đó, thu nội địa 7.791 tỷ đồng, tăng 25,9% dự toán năm và tăng 11,9% so với cùng kỳ. Tỷ lệ che phủ rừng đạt 54% (kế hoạch 53%).

Các chỉ tiêu xã hội: Mức giảm tỷ suất sinh  0,1‰ (kế hoạch giảm 0,1‰). Tạo việc làm mới cho 29.917 lao động (kế hoạch 29.850 lao động). Tỷ lệ lao động qua đào tạo nghề, bồi dưỡng nghề đạt 52% (kế hoạch trên 52%). Tỷ lệ hộ nghèo còn 7,05%, giảm 1,73% so với năm 2017 (kế hoạch giảm còn 7,45% theo tiêu chí mới). Tỷ lệ dân số tham gia bảo hiểm y tế đạt 89,7% (kế hoạch giao 88,5%). Tỷ lệ trạm y tế có bác sĩ đạt 100% (kế hoạch 100%). Tỷ lệ xã đạt chuẩn quốc gia về y tế 97,5% (kế hoạch 97,5%). Số giường bệnh trên 1 vạn dân 30,2 giường (kế hoạch 30 giường). Tỷ lệ trẻ em dưới 5 tuổi suy dinh dưỡng 9,7% (kế hoạch dưới 10%).

Các chỉ tiêu môi trường: *Tỷ lệ dân cư đô thị sử dụng nước sạch 79% (kế hoạch 79%). Tỷ lệ dân cư nông thôn sử dụng nước sạch và hợp vệ sinh 98% (kế hoạch 98%). Tỷ lệ chất thải rắn ở đô thị được thu gom 85% (kế hoạch 80%)., GRDP đạt 219.409 tỉ Đồng (tương ứng với 7,42 tỉ USD), GRDP bình quân đầu người đạt 82,772 triệu đồng (tương ứng với 3.510 USD), tốc độ tăng trưởng GRDP đạt 7,32%.

Dân cư

Bình Định có diện tích tự nhiên 6022,6  km², dân số 1.487.009 (năm 2021) người, mật độ dân số 389 người/km² (số liệu năm 8/2021 của World Population Review). Tỷ lệ đô thị hóa tính đến năm 2023 đạt 46,3%.

Tính đến ngày 1 tháng 4 năm 2019, toàn tỉnh có 9 tôn giáo khác nhau đạt 124.348 người, nhiều nhất là Công giáo có 36.299 người, tiếp theo là Phật giáo có 23.460 người, đạo Cao Đài có 13.118 người, đạo Tin Lành có 1.321 người. Còn lại các tôn giáo khác như Phật giáo Hòa Hảo có 94 người, Baha'i giáo có 26 người, Hồi giáo có 19 người, Bà La Môn có 10 người, 1 người theo Minh Lý đạo.

Văn hóa

Bình Định là mảnh đất có bề dày lịch sử với nền văn hoá Sa Huỳnh, từng là cố đô của vương quốc Chămpa mà di sản còn lưu giữ là thành Đồ Bàn và các tháp Chàm với nghệ thuật kiến trúc độc đáo. Đây là nơi phát danh của Đào Duy Từ (1572-1634), quân sư của Chúa Sãi Nguyễn Phúc Nguyên. Chỉ vỏn vẹn tám năm (1627-1634) phò Chúa Sãi mà Đào Duy Từ đã khắc họa hình ảnh đặc dị một người thầy của Chúa Sãi, một kiệt tướng, một chính trị gia, một chiến lược gia, một kiến trúc gia, một kỹ thuật gia, một nghệ sư tài hoa, một học giả, là người góp phần quan trọng định hình nhà nước, địa lý và bản sắc Đàng Trong.

Đây cũng là nơi xuất phát phong trào nông dân khởi nghĩa vào thế kỷ 18 với tên tuổi của anh hùng áo vải Nguyễn Huệ; là quê hương của các danh nhân Trần Đức Hòa, Trần Quang Diệu, Bùi Thị Xuân,Nguyễn Đăng Lâm, Bác sĩ Phạm Ngọc Thạch, Ngô Mây, Tăng Bạt Hổ, Diệp Trường Phát..., và các văn thi nhân Nguyễn Diêu, Đào Tấn, Hàn Mặc Tử, Xuân Diệu, Chế Lan Viên, Yến Lan,Quách Tấn, Nguyễn Thành Long, Phạm Hổ, Phạm Văn Ký, nhạc sĩ Nguyễn Văn Hiên, ca sĩ Quang Dũng... Bình Định còn được biết đến với truyền thống thượng võ và có nền văn hoá đa dạng phong phú với các loại hình nghệ thuật như bài chòi, hát bội, nhạc võ Tây Sơn, hò bá trạo của cư dân vùng biển... cùng với các lễ hội như: lễ hội Đống Đa Tây Sơn, lễ hội cầu ngư, lễ hội của các dân tộc miền núi...

Thành phố Quy Nhơn có trường Đại học Quy Nhơn, Đại học Quang Trung (tư thục), Cao đẳng Bình Định (trước kia là Cao đẳng sư phạm Bình Định), Cao đẳng Nghề Quy Nhơn, Cao đẳng Nghề cơ điện nông lâm Trung bộ, Cao đẳng Y tế Bình Định hàng năm đào tạo hàng chục ngàn sinh viên khoa học kỹ thuật cho tỉnh và khu vực miền trung Tây Nguyên.

Lễ hội cầu ngư

Hằng năm, người dân vùng biển tổ chức lễ cầu ngư, cúng "Ông Nam Hải" hay cá voi để cầu xin cho trời yên biển lặng, tàu thuyền ra khơi vào lộng được nhiều tôm cá. Ở Bình Định, lễ hội cầu ngư có ở hầu hết các vùng ven biển các huyện Hoài Nhơn, Phù Mỹ, Phù Cát, Tuy Phước và TP. Quy Nhơn và thường được tổ chức từ tháng 2 đến tháng 6 âm lịch.

Lễ hội Đống Đa - Tây Sơn

Đây là lễ hội lớn để tưởng nhớ các thủ lĩnh của phong trào Tây Sơn, đặc biệt là người anh hùng áo vải Quang Trung – Nguyễn Huệ và kỷ niệm chiến thắng Ngọc Hồi – Đống Đa đánh đuổi 29 vạn quân Thanh ra khỏi bờ cõi (năm 1789). Lễ hội được tổ chức hoành tráng vào ngày mùng 4 và mùng 5 tháng Giêng Âm lịch hàng năm tại thị trấn Phú Phong – huyện Tây Sơn.

Tuồng Bình Định

nhỏ|Bia tiểu sử và góc đền thờ Đào Duy Từ tại thôn Cự Tài, xã Hoài Phú, thị xã Hoài Nhơn, tỉnh Bình Định, chụp trong dịp lễ húy kỵ lần thứ 386 Thái sư Hoằng Quốc Công Đào Duy Từ Bình Định là nơi có nghệ thuật tuồng rất phát triển gắn liền với tên tuổi của Đào Duy Từ (hiện nay đền thờ Đào Duy Từ ở tại thôn Cự Tài, xã Hoài Phú, thị xã Hoài Nhơn; đền thờ này do Chúa Sãi Nguyễn Phúc Nguyên cho xây từ năm 1634, ngay sau Đào Duy Từ mất; đền cách Quốc lộ 1 3 km, tính từ ngã tư Nguyễn Chí Thanh-Trần Phú, phường Tam Quan, thị xã Hoài Nhơn) và Đào Tấn (hiện nay đền thờ Đào Tấn ở huyện Tuy Phước; Đào Tấn là hậu duệ Đào Duy Từ). Các đoàn hát tuồng trong tỉnh được hình thành ở khắp các huyện. Với sự giao lưu của nghệ thuật tuồng và võ Bình Định đã đưa tuồng Bình Định lên một tầm cao mới khác lạ hơn so với các đoàn tuồng của Huế hay Quảng Nam. Tuồng còn gọi là "hát bội" hay hát bộ sở dĩ nó có tên gọi như thế là vì ngoài việc hát thì yếu tố quan trọng góp phần tạo nên một vở tuồng hay và đặc sắc là hành động điệu bộ của các đào kép. Việc kết hợp võ thuật vào các màng nhào lộn, đánh trận ở mỗi đoàn có khác nhau tùy theo trình độ của đào kép. Trước kia khi hát bội còn thịnh hành thì có nhiều đoàn hát nhưng những năm gần đây dưới sự biến động của kinh tế thị trường thì nhiều đoàn dần giải tán, bộ môn văn hóa nghệ thuật dân tộc này có nguy cơ thất truyền. Lúc còn thịnh hành các đoàn hát bội thường được các làng, những gia chủ giàu có hay các lăng, đình ven biển mời về biểu diễn. Sau những màn diễn hay người cầm chầu ném tiền thưởng lên sân khấu. Vì thế mới có câu "Ở đời có bốn cái ngu: Làm mai, lãnh nợ, gác cu, cầm chầu" thường thì sau đêm hát cuối cùng các đoàn hay hát màn "tôn vương" để chúc tụng gia chủ, làng xóm gặp nhiều may mắn và cuối màn "tôn vương" thì thường hát câu: "Rày mừng hải yến Hà Thanh - nhân dân an lạc thái bình âu ca" hay "ngũ sắc tường vân khai Bắc khuyết - nhất bôi thọ tửu chúc Nam san". Năm 2014, hát Bội Bình Định được công nhận là di sản văn hóa phi vật thể cấp quốc gia.

Phương ngữ: Người dân Bình Định mặc dù ở chung cùng một tỉnh nhưng có giọng nói khác biệt rõ rệt ở các huyện phía bắc và phía nam, người dân tại TP. Quy Nhơn và TX. Hoài Nhơn nói giọng khá ngả về giọng nói các tỉnh phía trong nhưng vẫn còn giữ nét đặc trưng của văn hóa Bình Định. Lý do khác biệt là do sự hình thành dân cư và giao lưu văn hóa diễn ra rất thường xuyên tại 2 địa phương này của tỉnh.

Di tích - Danh thắng

  • Tổng số di tích đã được xếp hạng trên toàn tỉnh: 149 di tích.
  • Số di tích phân cấp cho Sở Văn hóa và Thể thao quản lý: 22 di tích (02 di tích quốc gia đặc biệt, 18 di tích quốc gia và 02 di tích cấp tỉnh).
  • Số di tích phân cấp cho UBND các huyện, thị xã, thành phố quản lý: 127 di tích (16 di tích quốc gia và 111 di tích cấp tỉnh).

Du lịch

Đặc sản

Ngoài các đặc sản về lâm, thổ, thủy, hải sản của duyên hải miền Trung nói chung, Bình Định còn có: rượu Bàu Đá (An Nhơn), cá chua nước lợ (Đề Gi - Phù Cát), bánh tráng nước dừa (phường Tam Quan), bún Song Thằn và bánh hỏi, nem chả Chợ Huyện, bánh ít lá gai. Ngày nay ở thị xã Hoài Nhơn có thêm đặc sản cá ngừ đại dương (cá "Bò Gù"), thị xã An Nhơn có thêm Rượu Vang Nếp Belifoods.

Kỳ Co

Bãi biển Kỳ Co cách TP. Quy Nhơn 25 km về phía Đông Bắc (thuộc xã Nhơn Lý) trải dài uốn cong hình lưỡi liềm với ba mặt giáp núi và một mặt giáp biển. Từ xa, du khách có thể chiêm ngưỡng cảnh núi non hùng vĩ cùng những tầng cây xanh rợp mát. Càng lại gần phía biển, không khí thoáng đãng cùng những làn gió mang theo hơi mằn mặn đặc trưng của biển khơi sẽ khiến tâm hồn mỗi người trở nên thư thái.

Ghềnh Ráng Tiên Sa

Nằm ở phường Ghềnh Ráng, TP. Quy Nhơn, Ghềnh Ráng – Tiên Sa nằm cách trung tâm thành phố khoảng 3 km về phía Đông Nam. Điểm đặc biệt của nơi đây chính là quần thể những bãi đá nằm liền kề nhau và những bãi đá tập trung theo đường cong của eo núi Xuân Vân. Nhờ vào vẻ đẹp độc đáo mà Ghềnh Ráng đã được Bộ Văn hóa – Thông tin xếp hạng là di tích quốc gia.

Bảo tàng Quang Trung

Tượng ba anh em [[Nhà Tây Sơn tại Bảo tàng Quang Trung]] Nằm ở thị trấn Phú Phong, huyện Tây Sơn, cách thành phố Quy Nhơn khoảng 40 km theo đường quốc lộ 19, và cách sân bay Phù Cát khoảng 20 km theo đường quốc lộ 19B. Đây là Bảo tàng Quốc gia và là địa điểm tham quan lịch sử đặc trưng ở Bình Định. Bảo tàng có các gian trưng bày rất lớn tập trung vào chủ đề khởi nghĩa Tây Sơn và triều đại Tây Sơn vào thế kỷ XVIII. Trong khuôn viên bảo tàng có đền thờ Tây Sơn Tam Kiệt và các danh tướng của triều đại. Đền thờ được xây trên nền cũ của gia đình anh em Nguyễn Nhạc, Nguyễn Huệ, Nguyễn Lữ, bên cạnh còn có giếng nước và cây đa cổ của gia đình.

Bảo sơn Thiên ấn

Nằm ở huyện Tây Sơn, cách thành phố Quy Nhơn khoảng 48 km theo đường quốc lộ 19. Đây được tương truyền là nơi 3 anh em Tây Sơn phát tích cuộc khởi nghĩa. Năm 2016, Bảo Sơn Thiên Ấn được tỉnh Bình Định đầu tư, phục dựng và trở thành điểm tham quan, du lịch nổi tiếng. Cũng như là điểm tổ chức các sự kiện tâm linh của lãnh đạo, nhân dân địa phương. Cách Bảo sơn Thiên ấn khoảng 2 km có Đập dâng Văn Phong. Đây là một đập tràn piano lớn ở miền Trung, có công năng tích trữ nước cho canh tác nông nghiệp của vùng và cũng là nơi có phong cảnh hữu tình cho khách tham quan từ các nơi tìm về.

Giao thông

Có quốc lộ 1, quốc lộ 1D, quốc lộ 19, quốc lộ 19B, quốc lộ 19C, đường cao tốc Bắc – Nam phía Đông, đường sắt Bắc- Nam đi qua, sân bay Phù Cát, cảng Quy Nhơn...

Chi tiết các tuyến giao thông tại tỉnh Bình Định

Cao tốc

  • CT.01 (Cao tốc Bắc Nam phía Đông) 118.8 km
  • CT.20 (Cao tốc Quy Nhơn - Pleiku GL) 60

Quốc lộ

  • QL.1 (Đèo Bình Đê - Đèo Cù Mông) 118
  • QL.1D (QL1 Quy Nhơn - QL1 Sông Cầu PY) 35
  • QL.19 (Cảng Quy Nhơn - Đèo An Khê) 69.5
  • QL.19B (Cảng Nhơn Hội - QL24 Ba Tơ QNg) 191
  • QL.19C (QL1 Diêu Trì - QL26 M'Đrắk ĐL) 206

Đường tỉnh

  • ĐT.629 (Bồng Sơn - An Lão) 31.2 - (Bồng Sơn - Ranh BĐ/QNg) 44.2
  • ĐT.630 (Hoài Đức - Kim Sơn) 22.8 - (Hoài Đức - ĐT637 Vĩnh Sơn) 60
  • ĐT.631 (Nhơn Hưng - Phước Thắng) 15.2 - (Nhơn Hưng - Đường ven biển Tây đầm Thị Nại) 16.5
  • ĐT.632 (Phù Mỹ - Bình Dương) 18.7
  • ĐT.633 (Chợ Gồm - Đề Gi) 20.7 - (ĐT634 - Đường ven biển ĐT639) 23
  • ĐT.634 (Hòa Hội - Hội Sơn) 17.9
  • ĐT.636 (Gò Bồi - Bình Nghi) 27.6 - (Đường chuyên dùng Tây KTT QH - km35+900 QL19 Bình Nghi) 32
  • ĐT.637 (Vườn Xoài - Vĩnh Sơn) 57.2 - (Vườn Xoài - K'Bang GL) 73
  • ĐT.638 (Chương Hòa - Long Vân) 145 - (Chương Hòa - Phú Mỡ Đồng Xuân PY) 154
  • ĐT.639 (Quy Nhơn - Tam Quan) 130.9 - (Ranh QNg/BĐ - Ranh BĐ/PY) 121
  • ĐT.640 (Ông Đô - Cát Tiến) 19.3

(quy hoạch bổ sung)

  • ĐT.629B (Bồng Sơn - An Hòa) 26
  • ĐT.638B (ĐT638 Hoài Sơn - ĐT630 Vĩnh Kim) 70
  • ĐT.640B (ĐT640 - ĐT633) 36
  • ĐT.632 mới (ĐT638 Hoài Ân - ĐT639 Phù Mỹ) 35
  • ĐT.635 (QL1 An Nhơn - ĐT639 Tuy Phước) 9.4
  • QL.19 mới (Cảng Quy Nhơn - QL1) 15.3
  • Đường trục KKT nối dài (Cát Tiến - Gò Găng) 18.5
  • Tuyến Quy Nhơn - Nhơn Hội (đoạn nút giao cầu Thị Nại - Nhơn Hội) 4.6
  • Đường kết nối từ đường trục KTT đến Chùa Linh Phong 1.7

Đường huyện

  • ĐH.01 (An Lão - An Vinh) 25 (12+13)
  • ĐH.02 (An Hòa - An Hưng) 18.4 (10.8+7.6)
  • ĐH.03 (An Hòa - An Toàn) 31.5 (6+25.5)
  • ĐH.04 (Ba Ghế - An Nghĩa) 7.1
  • ĐH.04B (An Hòa - An Hảo Tây) 3.9
  • ĐH.05 (An Tân - An Hòa) 3.2
  • ĐH.06 (Tài Lương - Ca Công) 6.3
  • ĐH.06B (Thái Lợi - Tam Quan Nam) 5.5
  • ĐH.07 (Ngã ba Hoài Tân - Ngã ba Hoài Đức) 5.1
  • ĐH.08 (Bình Chương - Hoài Hải) 13
  • ĐH.09 (Ngọc An - Lương Thọ) 5
  • ĐH.09B (Phụng Du - Bình Đê) 8.8
  • ĐH.10 (Bồng Sơn - Hoài Hương) 11
  • ĐH.10B (Phụng Du - Tăng Long) 4.3
  • ĐH.11 (Tam Quan - Mỹ Bình) 4.6
  • ĐH.12 (An Thường - Tân Xuân) 21.3
  • ĐH.13 (Phú Hữu - Đak Mang) 10.1
  • ĐH.13B (Kim Sơn - Bok Tới) 15
  • ĐH.14 (Cầu Phong Thạnh - Ngã ba Mỹ Thành) 8.4
  • ĐH.15 (Ngã ba Công An - Diêm Tường) 7
  • ĐH.16 (Phù Mỹ - Truông Gia Vấn) 11.4 (5+6.4) / 6.4 đường miền núi
  • ĐH.17 (Nhà Đá - An Lương) 12.2
  • ĐH.17B (Văn Trường - Mỹ Thắng) 15
  • ĐH.18 (Vạn An - Phú Thứ) 10.5 (2+8.5)
  • ĐH.18B (Đèo Nhông - Mỹ Thọ) 10.7 / đường đèo núi
  • ĐH.19 (Bắc Nam - Đông Tây) 6
  • ĐH.20 (Ngô Mây - Cát Tường) 7.2
  • ĐH.21 (Ngô Mây - Cát Hiệp) 8.2
  • ĐH.22 (Ngô Mây - Cát Lâm) 10.9
  • ĐH.23 (Cát Hưng - Cát Thắng) 3.5
  • ĐH.24 (Phú Phong - Hầm Hô) 6.9
  • ĐH.25 (Quán Á - Đồng Le) 9.4
  • ĐH.26 (Phú Lạc - Hà Nhe) 15.8
  • ĐH.27 (Bình Thành - Bình Thuận) 9.4
  • ĐH.27B (Tây Vinh - Bình Thuận) 10.3 (3+7.3) / 3 đang đầu tư
  • ĐH.28 (Phú Phong - Tây Bình) 8.5 (3+5.5)
  • ĐH.28B (Tây Giang - Bình Tường) 9.2 / đang đầu tư
  • ĐH.29 (Vĩnh Hòa - Vĩnh Hiệp) 17.5
  • ĐH.30 (Vĩnh Thạnh - Vĩnh Hảo) 5.8
  • ĐH.31 (Vĩnh Thịnh - Vĩnh Hiệp) 10.5
  • ĐH.32 (Vĩnh Thạnh - Vĩnh Thuận) 6.1
  • ĐH.33 (Vĩnh Hảo - Vĩnh Sơn) 39.5 / đang đầu tư
  • ĐH.34 (Đập Đá -Tây Vinh) 7.8
  • ĐH.35 (Tân Dân - Bình Thạnh) 14.5
  • ĐH.36 (An Trường - Hồ Núi Một) 6.7 (3.1+3.6)
  • ĐH.37 (Cầu Chữ Y - Cầu Ông Xếp) 3.3
  • ĐH.38 (Tượng đài công viên - Cát Nhơn) 2.6
  • ĐH.39 (Nhơn Thọ - Nhơn Khánh) 6
  • ĐH.40 (Chợ Quán Mới - Cầu Ông Gành) 1.3
  • ĐH.41 (Cảnh Hàng - Phú Đa) 3.2
  • ĐH.42 (Tuy Phước - Văn Quang) 8.1 (5.1+3)
  • ĐH.44 (Canh Thuận - Canh Liên) 25 (10+15) / 15 đường đèo núi

Biển số xe các huyện của tỉnh Bình Định

Biển số xe hay còn gọi là biển đăng ký xe cụ thể các huyện của tỉnh Bình Định như sau:

*_ Biển số xe cấp cho người dân trước ngày 15/08/2023:_**

  • Thành phố Quy Nhơn: 77-L1/L2
  • Thị xã An Nhơn: 77-F1
  • Thị xã Hoài Nhơn: 77-C1
  • Huyện An Lão: 77-M1
  • Huyện Hoài Ân: 77-K1
  • Huyện Phù Mỹ: 77-D1
  • Huyện Phù Cát: 77-E1
  • Huyện Tuy Phước: 77-G1
  • Huyện Tây Sơn: 77-H1
  • Huyện Vân Canh: 77-B1
  • Huyện Vĩnh Thạnh: 77-N1

*_ Biển số xe cấp cho người dân từ ngày 15/08/2023:_**

  • Thành phố Quy Nhơn: 77-AA
  • Thị xã An Nhơn: 77-AE
  • Thị xã Hoài Nhơn: 77-AB
  • Huyện An Lão: 77-AK
  • Huyện Hoài Ân: 77-AH
  • Huyện Phù Mỹ: 77-AC
  • Huyện Phù Cát: 77-AD
  • Huyện Tuy Phước: 77-AF
  • Huyện Tây Sơn: 77-AG
  • Huyện Vân Canh: 77-AM
  • Huyện Vĩnh Thạnh: 77-AN

Biển số xe sẽ có ký hiệu là 77 kèm 2 chữ cái trong các chữ cái A, B, C, D, E, F, G, H, K, L, M, N, P, S, T, U, V, X, Y, Z. Ví dụ 77-AA, 77-AB

Hình ảnh

Tập tin:Quy-Nhon-morning-city-view-1300px.jpg|Thành phố Quy Nhơn nhìn từ trên cao Tập tin:Cửa Đông-thành Bình Định,.JPG|
Cửa Đông
thành Bình Định Tập tin:QuyNhonBeach1.jpg|
Bán đảo Phương Mai Tập tin:Tháp Đôi, Quy Nhơn, Bình Định.JPG|
Tháp Đôi, Quy Nhơn Tập tin:Đèo Cù Mông, phía nam Bình Định.JPG|
Đèo Cù Mông
phía nam Bình Định Tập tin:Nha tho Quy Nhon.JPG|
Nhà thờ chính tòa
Giáo phận Quy Nhơn Tập tin:Mộ hàn mạc Tử.JPG|
Mộ Hàn Mạc Tử Tập tin:Quy Nhon Beach Promenade.jpg|Bãi biển Quy Nhơn Tập tin:Đường Lê Hồng Phong, Phường Bình Định, thị xã An Nhơn, tỉnh Bình Định.JPG|
Trung tâm thị xã
An Nhơn, Bình Định Tập tin:Quy Nhon Port.jpg|Cảng Quy Nhơn - cảng biển lớn nhất khu vực miền Trung về sản lượng Tập tin:Quy Nhon University, Binh Dinh, Viet Nam.JPG|Trường Đại học Quy Nhơn Tập tin:Sân Quy Nhơn.jpg|Một góc trung tâm và sân vận động Quy Nhơn Tập tin:Tượng đài Quang Trung tại Bảo tàng Quang Trung.JPG|Bảo tàng Quang Trung - Tây Sơn, Bình Định Tập tin:PhuCat terminal1 fromBack.jpg|sân bay Phù Cát Tập tin:VanPhong dam.jpg|Đập dâng Văn Phong Tập tin:QuangTrung museum landscape.jpg|Khuôn viên bảo tàng Quang Trung Tập tin:ThienAn TS.jpg|Quang cảnh nhìn từ Bảo sơn Thiên Ấn Tập tin:PhuPhong downtown.jpg
👁️ 4 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Bình Định** là một tỉnh cũ ven biển nằm ở phía bắc vùng Duyên hải Nam Trung Bộ, miền Trung, Việt Nam. Ngày 12 tháng 6 năm 2025, Quốc hội thông qua Nghị quyết số
**Bình Định** là một tỉnh cũ thuộc duyên hải Nam Trung Bộ. Phía bắc giáp tỉnh Quảng Ngãi, phía nam giáp tỉnh Phú Yên, phía đông giáp Biển Đông, phía tây giáp tỉnh Gia Lai.
nhỏ|phải|Bức tượng một thế võ trong bài roi trực chỉ ở bãi biển Quy Nhơn **Võ thuật Bình Định** bao gồm nhiều môn võ cổ truyền có xuất xứ từ tỉnh Bình Định hoặc đã
Bình Định là quê hương của các loại hình nghệ thuật như tuồng, bài chòi... với bờ biển dài, nhiều vũng vịnh với những bãi tắm đẹp và danh lam thắng cảnh như:Quy Nhơn, Tam
**Câu lạc bộ bóng đá Quy Nhơn Bình Định** () là một câu lạc bộ bóng đá chuyên nghiệp Việt Nam có trụ sở tại thành phố Quy Nhơn, tỉnh Bình Định. Đội bóng hiện
**Nguyễn Thị Thu Thủy** (sinh ngày 7 tháng 8 năm 1976) là nữ Đại biểu Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Bà hiện là Tỉnh ủy viên, Bí thư Đảng
**Bình Định gia** là một môn phái võ thuật cổ truyền Việt Nam thuộc hệ phái võ Bình Định. Sáng tổ của môn phái này là Trần Đại Chí, một võ tướng dưới triều Thanh
**Nguyễn Thanh Tùng** (sinh ngày l15/6/1960) là một chính khách Việt Nam. Ông nguyên là Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam khóa XII, đại biểu Quốc hội Việt Nam
**Tỉnh ủy Bình Định** hay còn được gọi **Ban chấp hành Đảng bộ tỉnh Bình Định** là cơ quan lãnh đạo cao nhất của Đảng bộ tỉnh Bình Định giữa hai kỳ đại hội đại
phải|Cửa Đông thành Bình Định phục chế lại nhỏ|Bản vẽ thành Đồ Bàn **Thành Bình Định** là một tòa thành cổ, được vua Gia Long cho xây dựng vào năm 1814 với vai trò là
**Chùa Hang** là tên thường gọi của Thiên Sanh Thạch tự (hay còn gọi là Thạch Cốc), nằm ở lưng chừng núi Chùa (có tên chữ là Lý Thạch, còn được gọi là La Hơi)
**Nghiên cứu định tính** là một phương pháp điều tra được sử dụng trong nhiều lĩnh vực khoa học khác nhau, không chỉ trong các ngành khoa học truyền thống mà còn trong nghiên cứu
**An Lão** là một huyện miền núi cũ nằm ở phía bắc tỉnh Bình Định, Việt Nam. ## Địa lý Huyện An Lão nằm ở phía bắc của tỉnh Bình Định, cách Quốc lộ 1
Đội ngũ chuyên gia y tế Bệnh viện Bình Định quy tụ đội ngũ chuyên gia, bác sĩ, dược sĩ và điều dưỡng có trình độ chuyên môn cao, tay nghề giỏi, tận tâm và
Bệnh viện Bình Định phấn đấu trở thành một Bệnh viện kiểu mẫu, điển hình theo mô hình Bệnh viện xã hội hóa tại Việt Nam.- Bệnh viện Bình Định phấn đấu trở thành một
thế=|nhỏ|310x310px|Đường chân trời thành phố [[Quy Nhơn năm 2022 nhìn từ bến tàu tại phường Hải Cảng.]] Tính đến năm 2022, tỉnh Bình Định có 33 tòa nhà (bao gồm 8 tòa nhà trọc trời
**Linh Phong Thiền Tự** còn gọi là **chùa Ông Núi**, là một ngôi cổ tự danh tiếng ở Bình Định, Việt Nam. ## Nơi tọa lạc Trên sườn phía Đông Nam núi Bà, cách thành
**Nguyễn Văn Hiếu** (sinh năm 1976) là một chính khách Việt Nam. Ông từng là Ủy viên dự khuyết Trung ương Đảng khóa XIII, Phó Trưởng ban Tuyên giáo và Dân vận Trung ương. ##
Tính đến ngày 1 tháng 12 năm 2024, tỉnh Bình Định có 155 đơn vị hành chính cấp xã, trong đó có 115 xã. Dưới đây là danh các xã thuộc tỉnh Bình Định hiện
Trung tướng **Nguyễn Chánh** (1917–2001) là một tướng lĩnh của Quân đội nhân dân Việt Nam, nguyên Thứ trưởng Bộ Quốc phòng Cộng hòa miền Nam Việt Nam (1969–1976), Chủ nhiệm Tổng cục Hậu cần
**Ga Bình Định** là một nhà ga xe lửa tại phường Bình Định, thị xã An Nhơn tỉnh Bình Định. Nhà ga là một điểm trên tuyến đường sắt Bắc Nam tiếp nối sau ga
Nhà máy **điện Mặt Trời và điện gió Fujiwara Bình Định** là nhà máy điện Mặt Trời kết hợp điện gió xây dựng trên khu kinh tế Nhơn Hội, thành phố Quy Nhơn, tỉnh Bình
**Vũ Cương** (chữ Hán giản thể: 舞钢市, Hán Việt: _Vũ Cương thị_) là một thành phố cấp huyện của địa cấp thị Bình Đỉnh Sơn, tỉnh Hà Nam Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa. Thành
**Lỗ Sơn** (chữ Hán giản thể: 鲁山县, âm Hán Việt: _Lỗ Sơn huyện_) là một huyện thuộc địa cấp thị Bình Đỉnh Sơn, tỉnh Hà Nam, Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa. Huyện Lỗ Sơn
**Giáp** (chữ Hán giản thể: 郏县, âm Hán Việt: _Giáp huyện_) là một huyện thuộc địa cấp thị Bình Đính Sơn, tỉnh Hà Nam, Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa. Huyện Giáp có diện tích
**Diệp** (chữ Hán giản thể: 叶县, âm Hán Việt: _Diệp huyện_) là một huyện thuộc địa cấp thị Bình Đính Sơn, tỉnh Hà Nam, Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa. Huyện Diệp có diện tích
**Tân Hoa** ( là một khu của địa cấp thị Bình Đỉnh Sơn, tỉnh Hà Nam, Trung Quốc. ### Nhai đạo
* Thự Quang Nhai (曙光街街道) * Quang Minh Lộ (光明路街道)
**Thạch Long** () là một khu của địa cấp thị Bình Đỉnh Sơn, tỉnh Hà Nam, Trung Quốc. ### Nhai đạo * Cao Trang (高庄街道) * Long Hưng (龙兴街道) * Nhân Dân Lộ (人民路街道) *
**Nam Định** là một tỉnh cũ nằm ở phía Nam Đồng bằng sông Hồng, Việt Nam. Năm 2023, Nam Định là đơn vị hành chính Việt Nam đứng thứ 13 về số dân, xếp thứ
**Bình Dương** là một tỉnh cũ thuộc vùng Đông Nam Bộ, Việt Nam. Ngày 12 tháng 6 năm 2025, tỉnh Bình Dương được sáp nhập vào Thành phố Hồ Chí Minh. Tỉnh lỵ của tỉnh
**Bình Thuận** là tỉnh cũ ven biển nằm ở cực nam của vùng duyên hải Nam Trung Bộ, Việt Nam. Toàn bộ tỉnh (cùng với Đắk Nông) đã được sáp nhập vào Lâm Đồng. Ngày
**Bình Long** là một tỉnh cũ của Việt Nam Cộng hòa. ## Địa lý Tỉnh Bình Long có vị trí địa lý: *Phía đông giáp tỉnh Phước Long *Phía tây giáp tỉnh Tây Ninh *Phía
**Bình Phước** là một tỉnh cũ thuộc vùng Đông Nam Bộ, Việt Nam. Trước năm 2025, đây từng là tỉnh có diện tích lớn nhất Nam Bộ. Tỉnh lỵ của Bình Phước là thành phố
**Bình Đỉnh Sơn** (), cũng được biết đến là **Ưng Thành** (giản thể: 鹰城, phồn thể: 鷹城, nghĩa đen: thành phố đại bàng), dân số 5.207.700 người (2019) là một địa cấp thị thuộc tỉnh
**Chùa Bồ Đề** nằm ở khu phố Ngọc Sơn Bắc, phường Hoài Nhơn, tỉnh Gia Lai. Chùa ngày trước thuộc xã Bồ Đề, huyện Bồng Sơn, phủ Hoài Nhơn nên mọi người lấy tên địa
**Gia Định** (chữ Hán: 嘉定(省)) là một tỉnh cũ của Việt Nam được thành lập năm 1833 thời nhà Nguyễn (đổi tên từ tỉnh Phiên An thành lập năm 1832) và cuối cùng giải thể
Đền Tứ trụ ở [[Tràng An thờ 4 vị tứ trụ triều Đinh]] **Đinh Điền** (chữ Hán: 丁佃; 924 - 979) quê ở làng Đại Hữu, nay là xã Gia Phương, Gia Viễn, Ninh Bình,
nhỏ|phải|Một con gà chọi choai nòi Bình Định (mã kim) **Gà chọi Bình Định** là một giống gà có nguồn gốc ở Bình Định, chúng được nuôi cho mục đích làm gà chọi. Đây là
Bình định mức thủy tinh nâu nút nhựa 25mlHãng sản xuất: OnelabXuất sứ: Trung QuốcThông tin sản phẩm:- Bình định mức nâu nút nhựa 25ml được sử dụng rộng rãitrong các phòng thí nghiệm, trường
Bình định mức thủy tinh nâu nút nhựa 250mlHãng sản xuất: OnelabXuất sứ: Trung QuốcThông tin sản phẩm:- Bình định mức nâu nút nhựa 250ml được sử dụng rộng rãitrong các phòng thí nghiệm, trường
Bình Ngâm Rượu Thủy Tinh 10Lít Dáng Trụ Hoa Văn Rồng Theo kinh nghiệm 10 năm bán đồ tại cửa hàng ! shop khuyên các b nên chọn bình ko vòi vì bình có vòi
Vào ngày 17-18/12/2024, Hội nữ doanh nhân tỉnh Bình Định đã long trọng tổ chức Đại hội nữ doanh nhân tỉnh Bình Định lần thứ IV, nhiệm kỳ 2025-2030. Đây là sự kiện quan trọng,
**Mặt trận chính Bắc Tây Nguyên và mặt trận phối hợp Bắc Bình Định năm 1972** là một trong các chiến trường chính của Chiến tranh Việt Nam năm 1972. ## Mặt trận chính Bắc
Bình định mức 25ml màu trắng của BomexThông tin sản phẩm:Công dụng:bình định mức được dùng để đo lường chất lỏng một cách chính xác theo thể tích mong muốn và có thể dùng để
Bình định mức thủy tinh 500ml màu trắng của ĐứcThông tin sản phẩm:Bình định mức có các loại thể tích: 5ml, 10ml, 15ml, 20ml, 25ml, 50ml, 100ml, 250ml, 500ml, 1000mlBình định mức được sử dụng
Bình định mức thủy tinh 25ml màu trắng của ĐứcThông tin sản phẩm:Bình định mức có các loại thể tích: 5ml, 10ml, 15ml, 20ml, 25ml, 50ml, 100ml, 250ml, 500ml, 1000mlBình định mức được sử dụng
Bình định mức thủy tinh 100ml màu trắng của ĐứcThông tin sản phẩm:Bình định mức có các loại thể tích: 5ml, 10ml, 15ml, 20ml, 25ml, 50ml, 100ml, 250ml, 500ml, 1000mlBình định mức được sử dụng
Bình định mức thủy tinh 250ml màu trắng của ĐứcThông tin sản phẩm:Bình định mức có các loại thể tích: 5ml, 10ml, 15ml, 20ml, 25ml, 50ml, 100ml, 250ml, 500ml, 1000mlBình định mức được sử dụng
Bình định mức thủy tinh 200ml màu trắng của ĐứcThông tin sản phẩm:Bình định mức có các loại thể tích: 5ml, 10ml, 15ml, 20ml, 25ml, 50ml, 100ml, 250ml, 500ml, 1000mlBình định mức được sử dụng
**Pleiku** là một tỉnh cũ của Việt Nam Cộng hòa thuộc Cao nguyên Trung phần. ## Địa lý Tỉnh Pleiku có vị trí địa lý: *Phía đông giáp tỉnh Bình Định và tỉnh Phú Bổn