✨Trận Phủ Hoài (1883)

Trận Phủ Hoài (1883)

Trận Phủ Hoài năm 1883 còn gọi là Trận Vọng hay Trận Dịch Vọng, diễn ra trong các ngày 15-16 tháng 8 năm 1883, là trận tấn công của quân Pháp ở Hà Nội vào phòng tuyến vây quanh Hà Nội về phía Tây Bắc của quân nhà Nguyễn và quân Cờ Đen. Trận này nằm trong kế hoạch của Pháp từ tháng 7 năm đó, tấn công lên Sơn Tây-trung tâm kháng chiến mạnh nhất lúc đó của quân đội nhà Nguyễn, nhằm cùng với việc đánh kinh đô Huế, làm cho nhà Nguyễn phải đầu hàng Pháp.

Việc phòng thủ của quân Nam

Từ sau trận Hà Nội thất thủ lần thứ 2, quân nhà Nguyễn đã thiết lập một vòng vây quanh Hà Nội từ 2 hướng Tây và Đông Bắc. Tại phía Tây, cánh quân của Hoàng Kế Viêm và Lưu Vĩnh Phúc đã xây dựng một phòng tuyến nằm hai bên con đường Hà Nội-Sơn Tây (nay là Quốc lộ 32), trong các làng nằm giữa hai sông Tô Lịch, sông Nhuệ và dọc theo hai bờ sông Nhuệ các làng này đều thuộc huyện Từ Liêm phủ Hoài Đức tỉnh Hà Nội lúc đó (trước huyện Từ Liêm thuộc phủ Quốc Oai trấn Sơn Tây, ngày nay là quận Bắc Từ Liêm và quận Nam Từ Liêm). Từ đó quân Cờ Đen và quân nhà Nguyễn đã từng giành được thắng lợi trước quân Pháp trong trận Cầu Giấy lần thứ 2. Phòng tuyến của quân Nam từ sau trận Cầu Giấy gồm 3 lớp: Lớp thứ nhất chạy từ Cầu Giấy qua các làng dọc theo sông Tô Lịch tới làng Yên Thái rồi thẳng lên các làng Vẽ và Chèm (Đông Ngạc và Thụy Phương thuộc quận Bắc Từ Liêm ngày nay). Lớp thứ hai từ lỵ sở của phủ Hoài Đức (nay là ngã tư đường Cầu Giấy giao với đường Nguyễn Phong Sắc) qua làng Cổ Nhuế (còn gọi là làng Noi hay kẻ Noi) lên làng Hoàng Xá (nay là thôn Hoàng Liên xã Liên Mạc, quận Bắc Từ Liêm) nối lên đình làng Chèm (đình thờ Lý Ông Trọng), đây là tuyến trung tâm mà quân Nam bố trí nhiều đại bác và đồn bốt kiên cố. *Lớp thứ 3 trên các làng phía hữu ngạn sông Nhuệ như Kiều Mai, Phú Diễn,... (ngày nay thuộc quận Nam Từ Liêm) dùng sông Nhuệ làm phòng tuyến tự nhiên. Lực lượng phòng ngự ở phòng tuyến này gồm toàn bộ quân Cờ Đen của Lưu Vĩnh Phúc và quân nhà Nguyễn của Hoàng Kế Viêm. Hoàng Kế Viêm lúc này vẫn đóng tại khu vực thành Sơn Tây. Quân Cờ đen có khoảng 3000 người, dù lực lượng này ít hơn quân Pháp, nhưng họ có lợi thế phòng ngự, dựa vào các tuyến phòng thủ được chuẩn bị từ trước.

Kế hoạch và việc chuẩn bị của Pháp

Ngày 30 tháng 7 năm 1883, tại Hải Phòng, Harmand tổ chức một hội nghị quân sự quyết định đánh Huế (trung tâm chính trị) và Sơn Tây (trung tâm kháng chiến), nhằm làm nhụt ý chí và hy vọng của nhà Nguyễn.

Đầu tháng 8, viện binh của Pháp được đưa từ Pháp, Tân Đảo đã tới Hà Nội, kết hợp với lực lượng bổ sung từ Sài Gòn ra, làm lực lượng của Pháp ở đây lên tới 4500 quân. Theo kế hoạch tháng 7, tướng Bouet sẽ chỉ huy quân Pháp ở Hà Nội đánh lên Sơn Tây. Harmand muốn tiến đánh Sơn Tây bằng đường thủy sông Hồng ngay, nhưng Bouet lại chủ ý trước hết tấn công mở rộng vòng vây ở Hà Nội trên hướng Sơn Tây, phá vỡ phòng tuyến phủ Hoài trước, và ông ta đã thực hiện theo hướng này.

Ngày 15 tháng 8, tướng Bouet muốn giành lại thế chủ động đã bị mất sau trận Cầu Giấy, đã chỉ huy 2000 quân với 14 đại bác , cùng với 450 quân Cờ Vàng tạo thành một lực lượng khoảng 2500 quân, chia làm 3 đạo bộ binh, phối hợp với hạm đội tàu thủy (Hạm đội Bắc Kỳ) trên sông Hồng tấn công vào phòng tuyến Phủ Hoài. Đạo cánh phải do đại tá Bichot chỉ huy, được 6 hạm tàu (Pluvier, Leopard, Fanfare, Éclair, MousquetonTrombe) yểm hộ trực tiếp, tiến dọc theo bờ đê sông Hồng, đánh lên Chèm Đạo trung tâm do Paul Coronnat chỉ huy, từ thành Hà Nội qua làng Yên Thái, đánh tới làng Nội (làng Noi tức Cổ Nhuế). *Đạo cánh trái do Révillon chỉ huy, từ Cầu Giấy tiến theo đường Hà Nội-Sơn Tây (theo đường Henri Rivière đã hành quân trong trận Cầu Giấy), tấn công lỵ sở phủ Hoài Đức và làng Vòng (Dịch Vọng Hậu phía sau phủ Hoài) nơi có đại bản doanh của Lưu Vĩnh Phúc. Đạo này xa bờ sông Hồng, các pháo hạm không yểm hộ được nên phải kéo theo nhiều đại bác.

Diễn biến

Cánh trái của Révillon đánh vào cánh phải của quân Cờ đen nhưng không thắng, rồi lại bị đại bộ phận quân Cờ đen phản kích. Khi đạn dược dần cạn, quân Pháp phải rút về hướng Cầu Giấy. Cuộc rút lui suýt chuyển thành cuộc tháo chạy, vì dân phu người Việt trong đoàn hoảng loạn, ào ào bỏ chạy về phía sau, làm nghẽn cả con đê dùng để tiếp tế đạn dược. May mắn cho quân Pháp là tiểu đoàn hải quân đánh bộ của Chevallier bắn chặn từ phía làng Vọng để yểm trợ cho quân Pháp rút lui, đồng thời gây tổn thất nặng cho quân Cờ đen xông ra từ vị trí phòng thủ để đuổi theo. Khi trời xẩm tối, Bouet đưa quân dự bị tham chiến, tạo điều kiện cho Révillon củng cố lại đội hình. Do không nhận được tin gì từ hai cánh quân kia, nên Bouet hạ lệnh cho cánh quân của Révillon rút về Hà Nội trong đêm đó.

thumb|Đại tá Bichot thu được khẩu đại bác quân Cờ đen bỏ lại Quatre Colonnes Lưu Vĩnh Phúc sở dĩ có thể phản công áp đảo cánh quân của Révillon vì hai cánh quân kia của Pháp không tạo được áp lực đáng kể lên quân Cờ đen. Cánh quân trung tâm của Coronnat không tìm được quân Cờ đen, còn cánh phải của Bichot chiếm được làng Chèm, nhưng sau đó bị chặn lại trước chiến lũy phòng thủ của quân Cờ đen tại Quatre Colonnes. Tới ngày 16 tháng 8, Bichot cho tiến quân đánh lên Quatre Colonnes, thì mới biết quân Cờ đen đã bỏ chiến lũy buổi đêm trước. Cuộc giao tranh diễn ra trong lúc trời mưa tầm tã, và trong ngày 15, đê sông Hồng vỡ, gây ngập lụt khắp vùng giữa Hà Nội và Phủ Hoài. Trận lụt này như vậy đánh dấu chấm hết cho trận đánh. Cả hai cánh quân của Coronnat và Bichot đều không tiến lên được, cánh quân của Coronnat rút về Hà Nội, còn cánh quân của Bichot chiếm đóng Quatre Colonnes, rồi cho chở về Hà Nội một số khẩu đại bác mà quân Cờ đen bỏ lại khi rút lui. Quân Pháp tuyên bố rằng trận lụt khiến cho họ không thể giáng một đòn nặng vào quân Cờ Đen. Tuy nhiên trên thực tế, trận lụt này gây thiệt hại nặng nề cho quân Cờ đen, Lưu Vĩnh Phúc phải rời các chiến lũy trước sông Đáy để rút về phía bên kia bờ sông, bỏ lại hết vật tư chiến tranh và thương binh của mình.

Về phía quân Pháp có 17 người chết (trong đó có 2 sĩ quan) và 62 người bị thương. Quân Pháp ước tính quân Cờ Đen có 300 người chết và 800 người bị thương.

Ý nghĩa

Mặc dù trong trận này quân Pháp gây nhiều thiệt hại cho quân Cờ Đen, trong khi họ chỉ thiệt hại không đáng kể, nhưng rõ ràng là quân Pháp không đánh thắng quân Cờ đen. Cánh quân của Bouet thất bại chủ yếu do thời tiết xấu, nhưng cũng phải kể đến quyết định sai lầm của chỉ huy quân Pháp và sức chống trả quyết liệt của quân Cờ đen. Do quân Pháp không giành được thắng lợi nên người Bắc Kỳ cũng do dự không quyết liệu có nên theo Pháp và chống lại quân Cờ Đen, và như vậy cũng đồng nghĩa với việc quân Pháp thất bại, trong con mắt quan sát viên quốc tế.

👁️ 1 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Trận Phủ Hoài năm 1883** còn gọi là **Trận Vọng** hay **Trận Dịch Vọng**, diễn ra trong các ngày 15-16 tháng 8 năm 1883, là trận tấn công của quân Pháp ở Hà Nội vào
**Trận Cầu Giấy** diễn ra ngày 19 tháng 5 năm 1883, là một cuộc chạm trán giữa quân Pháp và quân Cờ Đen, trong giai đoạn đầu của Chiến dịch Bắc Kỳ tại Cầu Giấy
Đây là danh sách các trận đánh, chiến dịch, cuộc vây hãm, hành quân, các cuộc giao tranh trong lịch sử Việt Nam, diễn ra trên lãnh thổ Việt Nam, qua các triều đại và
**Hoài Đức** là một huyện ngoại thành cũ thuộc thành phố Hà Nội, Việt Nam. ## Địa lý Huyện Hoài Đức nằm ở ngoại thành Hà Nội, cách trung tâm thành phố khoảng 16 km, có
**Chiến tranh Pháp – Thanh** là cuộc chiến giữa Đệ tam Cộng hòa Pháp và Đế quốc Đại Thanh, diễn ra từ tháng 9 năm 1884 tới tháng 6 năm 1885. Cuộc chiến nổ ra
**Anatole-Amédée-Prosper Courbet** (26 tháng 6 năm 1827 - 11 tháng 6 năm 1885) là một đô đốc Pháp, chỉ huy quân viễn chính Pháp ở Đông Á, tham chiến trong chiến dịch Bắc Kỳ (1883–86)
**Chiến dịch Bắc Kỳ** () là một chiến dịch diễn ra từ tháng 6 năm 1883 đến tháng 4 năm 1886 do Pháp tổ chức, nhằm chống lại các đội quân của người Việt, quân
**Quân Cờ Đen** () là một nhóm đảng cướp có quân số đa số xuất thân từ quân đội người Tráng, di chuyển từ vùng Quảng Tây của Trung Quốc băng qua biên giới vào
**Quân đoàn viễn chinh Bắc Kỳ** (tiếng Pháp: _corps expéditionnaire du Tonkin_) là một bộ chỉ huy quân sự quan trọng của Pháp ở miền Bắc Việt Nam (Bắc Kỳ) từ tháng 6 năm 1883
**Quân đoàn bộ binh Bắc Kỳ** (_tirailleurs tonkinois_) là một Quân đoàn bộ binh nhẹ Bắc Kỳ, được thành lập năm 1884 để hỗ trợ cho các hoạt động của Quân đoàn viễn chinh Bắc
nhỏ|Trung tá Bichot vào năm 1883. **Justin Bichot** (29 tháng 10, 1835 - 1908) là một tướng lĩnh người người Pháp. Ông chỉ huy quân đội Pháp trong chiến tranh Pháp - Đại Nam. ##
**Trần Đại Nghĩa** (13 tháng 9 năm 1913 – 9 tháng 8 năm 1997) là một Giáo sư, Viện sĩ, kỹ sư quân sự, nhà bác học, Tướng lĩnh Quân đội nhân dân Việt Nam,
**Chiến tranh Pháp – Đại Nam** hoặc **chiến tranh Pháp – Việt**, hay còn được gọi là **Pháp xâm lược Đại Nam** là cuộc xung đột quân sự giữa nhà Nguyễn của Đại Nam và
nhỏ|Chân dung tướng Bouët khi ông đảm nhận quyền chỉ huy quân đoàn viễn chinh Bắc Kỳ, tháng 6 năm 1883 **Alexandre-Eugène Bouët** (sinh ra Ngày 6 tháng 12 năm 1833 ở Bayonne và chết
**Hà Nội** là thủ đô, là thành phố trực thuộc trung ương và cũng là một đô thị loại đặc biệt của nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Hà Nội nằm về
**Bình Định** là một tỉnh cũ ven biển nằm ở phía bắc vùng Duyên hải Nam Trung Bộ, miền Trung, Việt Nam. Ngày 12 tháng 6 năm 2025, Quốc hội thông qua Nghị quyết số
**Lưu Vĩnh Phúc** (tiếng Trung: 劉永福/刘永福) (1837—1917), tự **Uyên Đình** (淵亭/渊亭), người Khâm Châu, Quảng Đông (nay thuộc Quảng Tây), quê ở Bác Bạch, Ngọc Lâm, Quảng Tây, là một vị tướng vào cuối thời
**Diêm Tích Sơn** () (8 tháng 10, 1883 – 22 tháng 7, 1960) là một quân phiệt Trung Hoa phục vụ trong Chính phủ Trung Hoa Dân Quốc. Diêm Tích Sơn kiểm soát tỉnh Sơn
**Victoria của Liên hiệp Anh** (Alexandrina Victoria; 24 tháng 5 năm 1819 – 22 tháng 1 năm 1901) là Nữ vương Vương quốc Liên hiệp Anh từ ngày 20 tháng 6 năm 1837 cho đến
**Cổ Nhuế** là một địa danh tại quận Bắc Từ Liêm, thành phố Hà Nội. ## Từ nguyên _Khi các triều đại phong kiến Trung Hoa sang xâm lược, để tiện cho việc ghi chép
**Nghi Xuân** là một huyện nằm ở phía bắc tỉnh Hà Tĩnh, vùng Bắc Trung Bộ, Việt Nam. ## Địa lý Huyện Nghi Xuân nằm ở phía bắc tỉnh Hà Tĩnh, nằm cách thành phố
**Phan Đỉnh Tân** (; 1828-1888), tự **Cầm Hiên** (琴轩), là một nhân vật chính trị, quân sự thời nhà Thanh. Phan chính là người chỉ huy quân Thanh đánh bại quân Pháp tại trận Lạng
**Phố Nguyễn Khuyến** (tên thời Pháp thuộc: **Route de Sinh Từ**) là một tuyến phố cổ thuộc phường Văn Miếu, quận Đống Đa, thành phố Hà Nội, Việt Nam. Theo Nguyễn Vinh Phúc và Trần
**Phố Hàng Bạc** nằm trong khu vực phố cổ Hà Nội. Vào thời thuộc Pháp cuối thế kỷ XIX phố có tên tiếng Pháp là _Rue des changeurs_ (phố của những người đổi tiền). Từ
**Nghệ sĩ chèo ở Việt Nam** là những người hoạt động trong lĩnh vực nghệ thuật sân khấu chèo, gồm những nghệ sĩ chuyên nghiệp trong các nhà hát chèo và các nghệ nhân không
**Hòa Thạc An Thân vương** (chữ Hán: 和碩安親王) là một tước vị thế tập của triều đại nhà Thanh trong lịch sử Trung Quốc. ## Khái quát Thủy tổ của An vương phủ là A
**Nguyễn Xuân Ôn** (1825 – 1889), hiệu **Ngọc Đường**, **Hiến Đình**, **Lương Giang** nhân dân thường gọi ông là **Nghè Ôn**; là quan nhà Nguyễn và là thủ lĩnh cuộc khởi nghĩa chống Pháp ở
**Nguyễn Thuật** (1842-1911), tự: **Hiếu Sinh**, hiệu: **Hà Đình**; là danh sĩ và là danh thần triều Nguyễn trong lịch sử Việt Nam. ## Thân thế và sự nghiệp **Nguyễn Thuật** sinh ngày 13 tháng
**Đồng Khánh Đế** (chữ Hán: 同慶 19 tháng 2 năm 1864 – 28 tháng 1 năm 1889), tên húy là **Nguyễn Phúc Ưng Thị** (阮福膺豉) và **Nguyễn Phúc Ưng Đường** (阮福膺禟 ), lên ngôi lấy
thumb|Tùng Thiện vương [[Nguyễn Phúc Miên Thẩm.]] Triều đại nhà Nguyễn đã thiết lập quy chế cụ thể về tước hiệu cùng đãi ngộ cho các thành viên thuộc hoàng tộc (họ Nguyễn Phúc cùng
**Nhà Nguyễn** (chữ Nôm: 茹阮, chữ Hán: 阮朝; Hán-Việt: _Nguyễn triều_) là triều đại quân chủ cuối cùng trong lịch sử Việt Nam. Nhà Nguyễn được thành lập sau khi
**Phan Đình Phùng** (chữ Hán: 潘廷逢; 18471896), hiệu **Châu Phong** (珠峰), tự **Tôn Cát**, là một nhà cách mạng Việt Nam, lãnh đạo của cuộc khởi nghĩa Hương Khê chống lại thực dân Pháp trong
**Đại Nam thực lục** () là bộ biên niên sử Việt Nam viết về triều đại các chúa Nguyễn và các vua nhà Nguyễn. Đại Nam thực lục gồm 584 quyển, viết bằng chữ Hán
Tập san _Sử Địa_ số cuối cùng, 1975 **_Tập san Sử Địa_** là một tập san học thuật sưu tầm, khảo cứu chuyên ngành do nhóm giáo sư, sinh viên Trường Đại học Sư phạm
**Huế** là một trong sáu thành phố trực thuộc trung ương và là thành phố di sản của Việt Nam. Thành phố là một trong các trung tâm văn hóa, y tế và giáo dục
**Georg Wilhelm Friedrich Hegel** (; Ludwig Fischer và mẹ cậu bé vẫn sống ở Jena. thumb|upright=0.7|[[Friedrich Immanuel Niethammer (1766–1848) rộng lượng hỗ trợ tài chính cho Hegel và giúp ông có được nhiều chức vụ.]]
**Charles Eugène de Foucauld de Pontbriand**, tử tước nhà Foucauld, (15 tháng 9 năm 1858 - 1 tháng 12 năm 1916), là một sĩ quan kỵ binh của quân đội Pháp, nhà thám hiểm và
**Bùi Văn Dị** (裴文禩, 1833 – 1895), còn được gọi là **Bùi Dị**, tự là _Ân Niên_(殷年), các tên hiệu: _Tốn Am(遜庵), Do Hiên(輶軒), Hải Nông(海農), Châu Giang(珠江)_; là danh sĩ, nhà ngoại giao và
**Alexandre Émile John Yersin** (22 tháng 9 năm 1863 – 1 tháng 3 năm 1943) là một bác sĩ, nhà vi khuẩn học và nhà thám hiểm người Pháp gốc Thuỵ Sĩ. Ông nổi tiếng
**Adolf Hitler** (20 tháng 4 năm 188930 tháng 4 năm 1945) là một chính khách người Đức, nhà độc tài của nước Đức từ năm 1933 cho đến khi tự sát vào năm 1945. Tiến
**George III của Liên hiệp Anh** (George William Frederick; 4 tháng 6 năm 1738 – 29 tháng 1 năm 1820) là Quốc vương Đại Anh và Ireland cho đến khi hai vương quốc hợp nhất
Theo chiều kim đồng hồ từ bên trái: **[[Woodstock|Hội chợ Âm nhạc và Nghệ thuật Woodstock** được tổ chức tại Bethel, New York; Tấm bảng tưởng niệm những nạn nhân trong **cuộc bạo loạn tại
**Nhà Thanh** hay **Trung Hoa Đại Thanh quốc**, **Đại Thanh Đế Quốc**, còn được gọi là **Mãn Thanh** (chữ Hán: 满清, ), là triều đại phong kiến cuối cùng trong lịch sử Trung Quốc. Nguồn
**Đặng Văn Thụy** (1858–1936), tên lúc nhỏ là **Đặng Văn Tụy**, tự **Mã Phong**, hiệu **Mộng Long**, tên thường gọi trong dân gian là **cụ Hoàng Nho Lâm**. Ông đậu Đình nguyên Hoàng Giáp khoa
phải|Đất Nam Kỳ vào đầu thời nhà Nguyễn, cho đến trước năm 1841. **Nam Kỳ Lục tỉnh** (南圻六省) hay **Lục tỉnh** (六省), là tên gọi của vùng Nam Bộ vào đầu thời nhà Nguyễn, tức
**Nghi Thiên Chương Hoàng hậu** (chữ Hán: 儀天章皇后; 20 tháng 6 năm 1810 - 22 tháng 5 năm 1901) là thuỵ hiệu (được truy tôn sau khi qua đời) của một mệnh phụ nhà Nguyễn
**Hiếu Khâm Hiển Hoàng hậu**; (chữ Hán: 孝欽顯皇后; ; ; trước đây La Mã hóa là **Từ Hi Thái hậu T'zu-hsi**; 29 tháng 11 năm 1835 – 15 tháng 11 năm 1908), thường được gọi
**Tái Phong** (chữ Hán: 載灃; bính âm: Zài Fēng; ; 12 tháng 2, năm 1883 - 3 tháng 2, năm 1951), Ái Tân Giác La, biểu tự **Bá Hàm** (伯涵), hiệu **Tĩnh Vân** (靜雲), vãn
Một đòn đá thẳng trong võ Tân Khánh Bà Trà đang được các môn sinh luyện tập. **Tân Khánh Bà Trà** hay **Bà Trà - Tân Khánh** hay **Võ Lâm Tân Khánh Bà Trà** (người
**Florence Nightingale** (; 12 tháng 5 năm 182013 tháng 8 năm 1910) là một nhà cải cách xã hội, nhà thống kê học người Anh và là nhà sáng lập của ngành điều dưỡng hiện đại. Nightingale