✨Quân đoàn bộ binh Bắc Kỳ

Quân đoàn bộ binh Bắc Kỳ

Quân đoàn bộ binh Bắc Kỳ (tirailleurs tonkinois) là một Quân đoàn bộ binh nhẹ Bắc Kỳ, được thành lập năm 1884 để hỗ trợ cho các hoạt động của Quân đoàn viễn chinh Bắc Kỳ. Họ được chỉ huy bởi sĩ quan Pháp, và tham chiến trong một số trận giao chiến với quân Trung Hoa trong cuộc Chiến tranh Pháp-Thanh, và cũng tham gia tiễu phạt các cuộc nổi dậy của người Việt chống lại Pháp trong Cuộc bình định Bắc Kỳ.

Nguồn gốc

Trong cuộc biến cố Bắc kỳ 1873, Francis Garnier cho tuyển mộ các đơn vị dân quân Bắc Kỳ, phần nhiều là các tín đồ Công giáo, là những người không có thiện cảm và thiếu trung thành với triều đình Tự Đức, vốn vẫn đối xử không nương tay với họ. Các toán quân này chỉ tồn tại trong vài tuần, và bị giải tán khi người Pháp rút khỏi Bắc Kỳ vào mùa xuân năm 1874. Tuy nhiên, thí nghiệm này cũng chứng tỏ cho người Pháp thấy tiềm năng của việc tuyển mộ binh lính phụ trợ ngay tại Bắc kỳ.

Việc triển khai các đơn vị quân hỗ trợ người Việt được tiến hành trước hết tại Nam Kỳ, với việc người Pháp thành lập một trung đoàn bộ binh An Nam năm 1879 (thường được gọi là lính tập An Nam, lính tập Sài Gòn hay là lính tập Nam Kỳ - hay lính khố đỏ).

Trong khoảng những năm 1883 và 1885, quân Pháp hết sức bận rộn đánh dẹp quân cờ đen tại Bắc Kỳ, cũng như chống lại các lực lượng quân Việt và Trung Hoa. Các chỉ huy Quân đoàn viễn chinh Bắc Kỳ nối tiếp nhau sử dụng các lực lượng hỗ trợ Bắc Kỳ bằng cách này hay cách khác. Việc thiết lập các trung đoàn chính quy lính tập Bắc kỳ (hay lính khố đỏ Bắc kỳ) năm 1884 đã có tiền lệ là việc thí nghiệm lập ra các đội lính tập do tướng Bouët và Đô đốc Courbet tiến hành từ nửa cuối năm 1883. Quân Pháp sử dụng vài trăm quân cờ vàng như một toán quân hỗ trợ, trong các cuộc giao tranh chống lại quân cờ đen trong các trận đánh xảy ra vào tháng 8 năm 1883. Quân cờ vàng, dưới sự chỉ huy của một viên chỉ huy người Hy Lạp, là một tay phiêu lưu mạo hiểm, tên là Georges Vlavianos, vốn từng tham gia trong cuộc viễn chinh do Garnier tiến hành đánh Bắc kỳ năm 1873, đánh khá tốt trong vai trò quân xung kích tiền phương trong Trận Phủ Hoài (15 tháng 8 năm 1883) và Trận Palan (1 tháng 9 năm 1883), nhưng bị giải tán nhanh chóng sau cuộc giao tranh, vì chúng rất vô kỷ luật.

Quân Pháp tiến chiếm thành Hưng Hóa Lực lượng viễn chinh Pháp do Đô đốc Amédée Courbet chỉ huy trong trận Sơn Tây bao gồm bốn tiểu đoàn bộ binh lính mộ người An Nam từ Nam kỳ. Lực lượng này cũng có một đơn vị riêng biệt gồm 800 lính mộ Bắc kỳ, gọi là tirailleurs tonkinois, tức lính khố đỏ (hay lính tập) Bắc kỳ, dưới quyền chỉ huy của chỉ huy tiểu đoàn Bertaux-Levillain. Rất nhiều người trong số lính mộ Bắc kỳ đó là những kẻ đã phục vụ dưới trướng Vlavianos trong các trận giao chiến hồi mùa thu, và tái nhập ngũ phục vụ người Pháp sau khi tiểu đoàn Cờ vàng bị giải tán. Đô đốc Courbet không kiếm được các đại úy Pháp để chỉ huy các đại đội này, và họ chỉ đóng vai trò không đáng kể trong trận chiến tại chiến lũy Phù Sa trong trận Sơn Tây ngày 14 và 16 tháng 12. Số lính khố đỏ Nam kỳ, ngược lại, chiến đấu dưới sự chỉ huy của sĩ quan Pháp, giành được nhiều chiến công trong trận chiếm chiến lũy Phù Sa.

Tướng Charles-Théodore Millot, người lên thay Đô đốc Courbet làm chỉ huy lực lượng viễn chinh Bắc kỳ tháng 2 năm 1884, rất tin tưởng vào hiệu quả việc sử dụng các lực lượng phụ trợ người bản xứ. Millot cho rằng nếu các đội quân người bản xứ được chỉ huy bởi sĩ quan và hạ sĩ quan Pháp, họ sẽ chiến đấu hiệu quả hơn nhiều, và còn không có vấn đề kỷ luật, như quân Cờ vàng. Để kiểm nghiệm lý thuyết của mình, ông ta tổ chức các toán quân phụ trợ Bắc kỳ dưới quyền Bertaux-Levillain thành các đại đội quân chính quy, mỗi đại đội được đặt dưới quyền chỉ huy của một đại úy thủy quân đánh bộ. Một số đại đội này tham gia trận Bắc Ninh (tháng 3 năm 1884) và trận Hưng Hóa (tháng 4 năm 1884). Tới tháng 5 năm 1884, trong thành phần lực lượng viễn chinh Pháp đã có đến 1.500 quân phụ trợ người bản xứ Bắc kỳ

Thiết lập và tổ chức

[[Quân Cờ Đen|Quân cờ đen, khoảng năm 1873]] Hài lòng trước những chiến tích thu được của đội lính mộ Bắc kỳ trong các trận giao tranh hồi tháng 3 và 4 năm 1884, tướng Millot quyết định chính thức hóa các đơn vị này bằng cách thành lập hai trung đoàn lính mộ Bắc kỳ tirailleurs (tức bộ binh, hay còn gọi là lính khố đỏ, mỗi trung đoàn gồm 3.000 quân, tổ chức thành ba tiểu đoàn, mỗi tiểu đoàn gồm 4 đại đội, mỗi đại đội có 250 lính, chỉ huy bởi các sĩ quan hải quân đánh bộ giàu kinh nghiệm. Mô hình này được sử dụng mấy năm trước tại Nam kỳ, nay được áp dụng cho các trung đoàn lính mộ Bắc kỳ. Theo sắc lệnh ngày 12 tháng 5 năm 1884, tướng Millot thành lập các trung đoàn bộ binh Bắc kỳ số 1 và 2. Các trung đoàn này được chỉ huy bởi Trung tá de Maussion và Trung tá Berger, là hai sĩ quan kỳ cựu, có nhiều chiến công trong các chiến dịch mà các tướng Bouët và Courbet chỉ huy. Các tiểu đoàn trưởng dưới quyền họ là Tonnot, Jorna de Lacale, Lafont, Merlaud, Pelletier và Pizon.

Một phương thức được tướng Millot thực hiện để đẩy nhanh việc tuyển quân là sử dụng lính đào ngũ từ quân cờ đen. Có khoảng vài trăm quân cờ đen đầu hàng Pháp tháng 7 năm 1884, sau khi quân Pháp hạ thành Hưng Hóa và Tuyên Quang, và xin được phục vụ quân Pháp. Tướng Millot cho phép họ nhập vào các trung đoàn lính mộ Bắc kỳ như một đại đội độc lập, và họ được phái đến một đồn lẻ của Pháp trên sông Đáy dưới quyền chỉ huy của một sĩ quan Pháp có thiện cảm với họ, Thiếu úy Bohin. Nhiều sĩ quan Pháp khác tỏ ra hoảng sợ trước việc tướng Millot sẵn lòng tin tưởng quân cờ đen, và Bohin được mệnh danh là le condamné à mort - tức coi như đã chết. Trên thực tế, quân cờ đen đáp lại sự tử tế của thiếu úy, và trong vòng vài tháng, phục vụ tốt dưới trướng ông này, tham gia một số cuộc càn quét quân nổi dậy người Việt và giặc cướp. Tuy nhiên, trong đêm ngày 25 tháng 12 năm 1884, họ đào ngũ hàng loạt, mang theo vũ khí, quân trang quân dụng và bỏ chạy về phía sông Đà. Họ cũng giết một trung sỹ người Bắc kỳ khi người này định báo động, nhưng không đụng đến thiếu úy Bohin đang ngủ say. Có lẽ là họ bị chấn động trước ưu thế của quân Thanh trên chiến trường Bắc kỳ, và mất lòng tin vào khả năng chiến thắng của quân Pháp, nên quyết định gia nhập trở lại vào hàng ngũ quân Cờ đen, rồi tham gia trong trận Tuyên Quang. Thí nghiệm thất bại của tướng Millot không được người kế nhiệm ông là tướng Brière de l'Isle lặp lại, và người Pháp từ đó về sau không tìm cách sáp nhập quân Cờ đen vào thành phần các trung đoàn bộ binh Bắc kỳ nữa.

Trung đoàn bộ binh Bắc kỳ thứ ba được Tướng de Courcy thành lập bởi sắc lệnh ra ngày 28 tháng 7 năm 1885. Trung đoàn thứ tư được Tướng Warnet thành lập với sắc lệnh ngày 19 tháng 2 năm 1886.

Hoạt động trong Chiến tranh Pháp-Thanh

Đại đội 8, trung đoàn số 1 Bắc kỳ (Đại úy Dia, trung úy Goullet) là một bộ phận trong đoàn quân Pháp đánh hạ thành Tuyên Quang ngày 2 tháng 6 năm 1884. Đại đội này cũng tham gia trong cuộc hành binh dưới quyền tướng Duchesne để giải vây cho thành Tuyên Quang tháng 11 năm 1884, tham chiến trong trận Yu Oc. Tiếp đó, với tư cách là một bộ phận của lực lượng đồn trú Tuyên Quang, đơn vị này chiến đấu rất anh dũng cùng hai đại đội Lê Dương Pháp trong trận vây hãm Tuyên Quang (tháng 11 năm 1884 tới tháng 3 năm 1885).

Đại đội 12, trung đoàn 1 Bắc kỳ (Đại úy Bouchet, trung úy Delmotte và Bataille) tham chiến trong trận Bắc Lệ (23-24 tháng 6 năm 1884) và trận Lam (6 tháng 10 năm 1884) trong chiến dịch Kép. Trung úy Bataille bị thương nặng trong cuộc giao chiến tại Lam và binh lính của ông do không có chỉ huy, tháo lui trước quân Thanh. Việc họ tháo lui đã tạo ra một lỗ hổng nguy hiểm tại trung tâm đội hình quân Pháp, và chỉ nhờ sự có mặt tình cờ của một tiểu đoàn bộ binh mà lỗ hổng này được bịt lại. Về cuối trận đánh, quân Pháp phản công, và quân bộ binh Bắc kỳ của Bataille giao chiến trong cuộc tấn công cuối cùng.

Đại đội 1, trung đoàn 1 Bắc kỳ (Đại tá de Beauquesne) tham chiến trong trận Núi Bóp (4 tháng 1 năm 1885).

Tiểu đoàn 1, trung đoàn 1 Bắc kỳ (chỉ huy tiểu đoàn Jorna de Lacale) và tiểu đoàn 1, trung đoàn 2 (chỉ huy tiểu đoàn Tonnot) tham gia trong trận Lạng Sơn (tháng 2 năm 1885). Tiểu đoàn của Tonnot cũng tham chiến kịch liệt trong trận Bắc Vie (Bắc Vi?) (12 tháng 2 năm 1885).

Đại đội 1, trung đoàn 2 Bắc kỳ (Đại úy Geil) giao chiến trong trận Đồng Đăng (23 tháng 2 năm 1885).

Đại đội 7, trung đoàn 1 Bắc kỳ (Đại úy Granier, trung úy Donnat) trinh sát chiến lũy của quân Thanh trước khi trận Hóa Mộc (2 tháng 3 năm 1885) và bị tổn thất nặng trong loạt súng đầu tiên từ phía quân Thanh. Trung úy Donnat cũng bị thương trong cuộc giao tranh này.

Trung đội của trung úy Fayn thuộc đại đội 1 của đại úy Dufoulon, trung đoàn 1 Bắc kỳ, gồm 50 binh sĩ, đánh đuổi một cánh quân Thanh, Việt và Mường tại Thai That (Thạch Thất) gần Sơn Tây trong ngày 18 tháng 4 năm 1885. Cuộc chạm trán diễn ra chỉ 4 ngày sau khi cuộc ngưng bắn giữa quân Pháp và quân Thanh tại Bắc kỳ có hiệu lực. Sự hùng dũng của quân bộ binh Bắc kỳ trong trận chiến này được tuyên dương rộng rãi bởi các chỉ huy Pháp, và được ghi nhớ trong bản nhật lệnh của Tướng Brière de l'Isle ra ngày 26 tháng 4.

👁️ 0 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Quân đoàn bộ binh Bắc Kỳ** (_tirailleurs tonkinois_) là một Quân đoàn bộ binh nhẹ Bắc Kỳ, được thành lập năm 1884 để hỗ trợ cho các hoạt động của Quân đoàn viễn chinh Bắc
**Quân đoàn viễn chinh Bắc Kỳ** (tiếng Pháp: _corps expéditionnaire du Tonkin_) là một bộ chỉ huy quân sự quan trọng của Pháp ở miền Bắc Việt Nam (Bắc Kỳ) từ tháng 6 năm 1883
**Sư đoàn Bộ binh 7** là một sư đoàn của quân đội Hàn Quốc, được thành lập vào ngày 6 tháng 10 năm 1949, hiện đang đồn trú xung quanh huyện Hwacheon, tỉnh Gangwon. Sau
**Trung đoàn số 1 Thống chế Bá tước Lacy, Chỉ huy Trung đoàn bộ binh Neva của Hellenes** (tiếng Nga: 1-й пехотный Невский генерал-фельдмаршала графа Ласси, ныне Его Величества Короля Эллинов полк) là một đơn
**Chiến dịch Bắc Kỳ** () là một chiến dịch diễn ra từ tháng 6 năm 1883 đến tháng 4 năm 1886 do Pháp tổ chức, nhằm chống lại các đội quân của người Việt, quân
**Trung đoàn Bộ binh 1** hay **Trung đoàn Gia Định** là một đơn vị quân sự cấp Trung đoàn trực thuộc Bộ Tư lệnh Thành phố Hồ Chí Minh, Quân đội nhân dân Việt Nam.
nhỏ|phải|Phủ Khâm sai năm 1945, tức Dinh Thống sứ Bắc Kỳ (1917-1945) **Thống sứ Bắc Kỳ** (tiếng Pháp: **_Résident supérieur du Tonkin_**) là viên chức người Pháp đứng đầu xứ bảo hộ Bắc Kỳ dưới
Bản đồ 4 Quân khu [[Việt Nam Cộng hòa]] **Quân đoàn I** là một đơn vị cấp Quân đoàn, được tổ chức hỗn hợp gồm cả Hải quân - Lục quân - Không quân. Đây
Bảo tàng quân đoàn 1 [[thành phố Tam Điệp, Ninh Bình]] **Quân đoàn 1**, còn có tên hiệu là **Binh đoàn Quyết thắng**, từng là một quân đoàn của Quân đội nhân dân Việt Nam
**Quân đoàn 3**, còn gọi là **Binh đoàn Tây Nguyên** là một trong các quân đoàn chủ lực cơ động của Quân đội nhân dân Việt Nam, được thành lập ngày 26 tháng 3 năm
**Quân đoàn 2**, còn gọi là **"Binh đoàn Hương Giang"**, là một quân đoàn của Quân đội nhân dân Việt Nam, tồn tại từ tháng 5 năm 1974 đến tháng 12 năm 2023. Quân đoàn
Bản đồ 4 Quân khu [[Việt Nam Cộng hòa]] **Quân đoàn IV** là một đơn vị cấp Quân đoàn, được tổ chức hỗn hợp gồm cả Hải quân – Lục quân – Không quân, là
Bản đồ 4 Quân khu [[Việt Nam Cộng hòa]] **Quân đoàn II** là một đơn vị cấp Quân đoàn, được tổ chức hỗn hợp gồm cả Hải quân - Lục quân - Không quân. Đây
**Quân đoàn** trong Quân đội nhân dân Việt Nam là một đơn vị có quy mô lớn trong Quân đội nhân dân Việt Nam trên cấp Sư đoàn, bao gồm các quân binh chủng hợp
**Đài tưởng niệm Sư đoàn bộ binh Kościuszko** (Pomnik Kościuszkowców) để tưởng nhớ sự nỗ lực hỗ trợ trong cuộc nổi dậy Warsaw của các binh sĩ thuộc Sư đoàn bộ binh Tadeusz Kościuszko do
**Đài tưởng niệm Sư đoàn bộ binh số 27 của Volhynia** nằm ở Skwerze Wołyńskim (Quảng trường Volyn) bên cạnh đại lộ chính Trasa Armii Krajowej ở phía bắc Warsaw. Nó kỷ niệm sự đóng
**Sư đoàn 23 Bộ binh** là một trong 2 đơn vị chủ lực trực thuộc Quân đoàn II và Quân khu 2 của Quân lực Việt Nam Cộng hòa. Đây là đơn vị đầu tiên
**Sư đoàn 1 Bộ Binh**, là một trong 3 đơn vị chủ lực thuộc Quân đoàn I và Quân khu 1 của Quân Lực Việt Nam Cộng hòa, được thành lập năm 1955 và tan
**Sư đoàn 22 Bộ binh Quân lực Việt Nam Cộng hòa** là một đơn vị cấp sư đoàn của Quân lực Việt Nam Cộng hòa, là một trong 2 đơn vị chủ lực thuộc Quân
**Lữ đoàn công binh 550** hay **Đoàn Công binh N50** tiền thân là **Lữ đoàn Công binh 25** là một Lữ đoàn công binh của Quân đội nhân dân Việt Nam. Trụ sở của Lữ
**Sư đoàn 3 Bộ binh**, là một trong mười một Sư đoàn Bộ binh và cũng là đơn vị "con út" của Quân lực Việt Nam Cộng hòa. Là một trong ba đơn vị Chủ
**Sư đoàn 5 Bộ binh**, là một trong 3 đơn vị chủ lực quân trực thuộc Quân đoàn III và Quân khu 3 của Quân lực Việt Nam Cộng hòa. Đây là một đơn vị
**Binh chủng Hải quân Đánh bộ** là một binh chủng thuộc Quân chủng Hải quân Việt Nam có nhiệm vụ đóng quân bảo vệ các đảo, đá hoặc tấn công, đổ bộ bằng đường biển
**Quan hệ Đài Loan – Hoa Kỳ** là chỉ quan hệ song phương giữa Hợp chúng quốc Hoa Kỳ và Trung Hoa Dân Quốc. Trước năm 1979, hai bên có quan hệ ngoại giao chính
**Xứ ủy Bắc Kỳ** hay còn được gọi **Ban Chấp hành Xứ ủy Bắc Kỳ**, từ năm 1945 đổi tên thành **Xứ ủy Bắc Bộ** là cơ quan lãnh đạo cao nhất của Đảng bộ
**Sư đoàn 2 Bộ binh** (tiếng Anh: _2nd Infantry Division_, **2nd ID**) là một trong ba đơn vị chủ lực quân trực thuộc Quân đoàn I và Quân khu 1 của Quân lực Việt Nam
**Kỷ niệm chương Viễn chinh Bắc Kỳ** () được trao cho tất cả binh lính và thủy thủ Pháp đã tham gia các trận đánh trong chiến dịch Bắc Kỳ và chiến tranh Pháp–Thanh từ
Mối **quan hệ ngoại giao Thổ Nhĩ Kỳ - Israel** được thiết lập tháng 3 năm 1949 khi Thổ Nhĩ Kỳ trở thành quốc gia đa số người Hồi giáo đầu tiên (trước Iran vào
**Xe chiến đấu bộ binh** (tiếng Nga: Боевая машина пехоты - BMP; tiếng Anh: _Infantry fighting vehicle_ - IFV), cũng được biết đến với tên gọi **Xe chiến đấu bộ binh cơ giới**, là một
**Đội tàu chiến Bắc Kỳ** (tiếng Pháp: _flotille de Tonkin_) là một đơn vị của Pháp được thành lập vào mùa hè năm 1883 với nhiệm vụ bình định các dòng sông và vùng nước
**Quản lý bộ nhớ** (tiếng Anh: _memory management_) là việc điều hành bộ nhớ máy tính ở cấp bậc hệ thống. Mục đích quan trọng của việc quản lý bộ nhớ là cung cấp những
Nội chiến Hoa Kỳ diễn ra ở nhiều nơi trong hai vùng chiến lược chính, Mặt trận miền Đông và Mặt trận miền Tây. Ngoài ra còn có mặt trận vùng sông Mississippi, bờ biển
**Chiến tranh Thái Bình Dương** là một phần của Chiến tranh thế giới lần thứ hai diễn ra trên Thái Bình Dương, các hòn đảo thuộc Thái Bình Dương và vùng Đông Á, Đông Nam
nhỏ|phải|Quân đội Liên bang Nga đang diễu hành nhân ngày Chiến thắng nhỏ|phải|Quân đội nhân dân Việt Nam đang diễu hành đại lễ **Quân đội** là một tập đoàn người có tổ chức gồm những
Bộ binh Auxilia đang vượt sông, có lẽ là [[sông Donau|sông Danube, bằng cầu phao trong Cuộc chiến Chinh phục Dacia của Hoàng đế Trajan (101 - 106 CN). Có thể nhận ra họ từ
**Sư đoàn 308** hay **Đại đoàn Quân Tiên phong** trực thuộc Quân đoàn 12 là Sư đoàn bộ binh chủ lực được thành lập đầu tiên của Quân đội nhân dân Việt Nam. Thành lập
**Nội chiến Hoa Kỳ** (, 12 tháng 4 năm 1861 – 9 tháng 5 năm 1865, còn được biết đến với nhiều tên gọi khác nhau), là một cuộc nội chiến diễn ra ở Hoa
Trong Chiến tranh Việt Nam, quân đội Hoa Kỳ và các lực lượng đồng minh đã gây ra hàng loạt tội ác như giết người, hãm hiếp, đánh đập tù nhân, ném bom vào thường
**Tổng cục Kỹ thuật** trực thuộc Bộ Quốc phòng Việt Nam thành lập ngày 10 tháng 9 năm 1974 là cơ quan quản lý kỹ thuật đầu ngành của Bộ Quốc phòng có chức năng
**Legion Romana** tức **Quân đoàn La Mã**, **Binh đoàn La Mã** là một đơn vị tổ chức của Quân đội La Mã trong giai đoạn từ Cộng hòa La Mã tới Đế quốc La Mã.
**Khu phi quân sự Triều Tiên** (tiếng Anh: _Korean Demilitarized Zone_; tiếng Triều Tiên: 조선반도 비무장지대 (theo cách gọi của phía Triều Tiên) hay 한반도비무장지대 (theo cách gọi của phía Hàn Quốc), Hanja: 朝鮮半島非武裝地帶 _Triều
**Chiến dịch đổ bộ đường không Rzhishchev-Bukrin** là một hoạt động quân sự nằm trong khuôn khổ Trận sông Dniepr. Ban đầu, chiến dịch này được coi là hoạt động tiền đề cho Trận Kiev
Lính khố đỏ do quân đội pháp huấn luyện **Lính tập** (chữ Nôm: ) là các đơn vị quân đội bản xứ do người Pháp tổ chức thành lập nhằm phụ trợ cho quân chính
Sau khi thành Hà Nội thất thủ, triều đình Huế phản kháng mạnh mẽ việc đại úy Garnier bất ngờ đánh thành Hà Nội. Các quan lại và binh lính triều đình cũng nhận được
**Cụm tập đoàn quân Trung tâm** (tiếng Đức: _Heeresgruppe Mitte_) là tên của tổ chức tác chiến chiến lược cấp cụm tập đoàn quân của Đức Quốc xã tại Mặt trận phía Đông trong Thế
**Sư đoàn 21 Bộ binh** là một trong ba đơn vị chủ lực quân thuộc Quân đoàn IV và Quân khu 4 của Quân lực Việt Nam Cộng hòa. Tồn tại từ năm 1955 đến
**Charles Auguste Frédéric Bégin** (ngày 2 tháng 7 năm 1835 – ngày 27 tháng 7 năm 1901) là một vị tướng lĩnh người Pháp từng giữ chức Quyền Thống đốc Nam Kỳ năm 1885–1886, và
**Sư đoàn 320**, còn gọi là **Sư đoàn Đồng Bằng**, là một sư đoàn chủ lực thuộc Quân đoàn 34, Quân đội nhân dân Việt Nam. Ban đầu có tên Đại đoàn, thành lập từ
Trận sông Dniepr là một chuỗi các chiến dịch tấn công chiến lược của Quân đội Liên Xô trong các giai đoạn mở đầu cho thời kỳ thứ ba của cuộc chiến tranh Xô-Đức, đồng
**Lữ đoàn Liên binh Phòng vệ Tổng thống Phủ** (tiếng Anh: _Presidential Guards Unit_, **PGU**) là một đơn vị vũ trang chuyên trách bảo vệ các nguyên thủ Việt Nam Cộng hòa và khu vực