✨Sư đoàn 1 Bộ binh Quân lực Việt Nam Cộng hòa

Sư đoàn 1 Bộ binh Quân lực Việt Nam Cộng hòa

Sư đoàn 1 Bộ Binh, là một trong 3 đơn vị chủ lực thuộc Quân đoàn I và Quân khu 1 của Quân Lực Việt Nam Cộng hòa, được thành lập năm 1955 và tan rã vào tháng 3 năm 1975. Đây là một đơn vị quân đội lớn, từng tham dự nhiều trận đánh quan trọng trong Chiến tranh Việt Nam, cũng là Sư đoàn bộ binh hàng đầu trong Quân Lực Việt Nam Cộng hòa. Ngoài ra Đại đội Hắc Báo (với chức năng Trinh sát và Viễn thám) nổi tiếng thiện chiến với quân số 260 tay súng cũng trực thuộc Sư đoàn. Do lập được nhiều thành tích nên đây là Sư đoàn Bộ binh đầu tiên mà tất cả quân nhân được mang dây biểu chương ba màu Tam Hợp Bảo quốc Huân chương. Đặc biệt, Tiểu đoàn 2 Trung đoàn 1 của Sư đoàn là đơn vị duy nhất của Quân Lực Việt Nam Cộng hòa nhận Presdential Unit Citation của Hoa Kỳ vì thành tích chiến đấu dũng cảm. Trong Chiến tranh Việt Nam sư đoàn đã nhiều lần mở các cuộc hành quân, giao chiến ác liệt ở vùng hỏa tuyến vĩ tuyến 17 dọc theo sông Bến Hải với những địa danh như Quốc lộ 9, Cồn Tiên, Khe Sanh, Tchépone, Lao Bảo, Cam Lộ, Ba Lòng, Tà Bạt, Làng Vây, A Shầu, A Lưới, Đông Hà.

Bộ Tư lệnh Sư đoàn đặt tại Căn cứ Giạ Lê. Bộ Tư lệnh Tiền phương đặt tại Mang Cá. *Bài ca chính thức: Sư đoàn 1 Bộ binh hành khúc.

Lịch sử hình thành

Sư đoàn 1 Bộ Binh được thành lập vào ngày 1 tháng 1 năm 1955 tại Huế, với danh xưng ban đầu là Sư đoàn 21 Bộ binh (Nghị định số 012-QP/NĐ ngày 17 tháng 1 năm 1955 và Sự vụ văn thư số 474/TTM/1/1/SC ngày 27 tháng 1 năm 1955) do Trung tá Lê Văn Nghiêm làm Tư lệnh đầu tiên.

Ngày 1 tháng 8 năm 1955, Sư đoàn 21 Bộ binh đổi tên là Sư đoàn 21 Dã Chiến, ngày 1 tháng 10 năm 1955 lại đổi thành Sư đoàn 1 Dã chiến ''(Sự vụ văn thư số 3975/TTM/1/1/SC ngày 17 tháng 9 năm 1955)

Cuối năm 1958, Bộ Tổng tham mưu Quân Lực Việt Nam Cộng hòa tái tổ chức các Sư đoàn Dã chiến 1, 2, 3, 4 và 6, các Sư đoàn Khinh chiến 11, 12, 13, 14, 15, 16 thuộc Quân đội Quốc gia thành 7 Sư đoàn Bộ binh, gồm Sư đoàn 1, Sư đoàn 2, Sư đoàn 5, Sư đoàn 7, Sư đoàn 21, Sư đoàn 22 và Sư đoàn 23. Mỗi sư đoàn với quân số 10.500 quân nhân.

Ngày 1/12/1958, Sư đoàn 1 Dã chiến chính thức với tên gọi Sư đoàn 1 Bộ binh gồm các Trung đoàn trực thuộc: 1, 2 và 3.

Ngày 16 tháng 7 năm 1966, sau khi xác nhận các đơn vị và quân số của đối phương, Liên quân Việt-Mỹ mở cuộc hành quân Lam Sơn 289 hay chiến dịch Hastings gồm 5 Tiểu đoàn Bộ binh thuộc Sư đoàn 1 Quân Lực Việt Nam Cộng hòa, 5 Tiểu đoàn thuộc Sư đoàn 3 Thủy quân Lục chiến Hoa Kỳ, 1 Tiểu đoàn đổ bộ Đặc biệt thuộc Thủy quân Lục chiến Hoa Kỳ tại khu vực tây nam sông Bến Hải. Tổng lực lượng có quân số lên đến 16.000 quân tham chiến trên mặt đất, cùng hàng trăm trực thăng và máy bay hỗ trợ. Tất cả lực lượng Quân Lực Việt Nam Cộng hòa tham chiến lẫn yểm trợ đều đặt dưới sự điều động của Quân đoàn I Việt Nam Cộng hòa do Thiếu tướng Hoàng Xuân Lãm chỉ huy. Đại tướng Westmoreland chỉ huy quân Mỹ cung cấp toàn bộ hỏa lực pháo binh, hỏa lực hải quân và không quân tại Quảng Trị cho chiến dịch này. Đây là cuộc hành quân quy mô lớn đầu tiên tại chiến trường Quảng Trị.

Ngày 21/7/1966, Quân đội Nhân dân Việt Nam điều động Sư đoàn 324B cùng với Lữ đoàn Giới Tuyến vượt sông Bến Hải tăng viện cho các đơn vị đang tham chiến chống lại cuộc hành quân của QLViệt Nam Cộng hòa và Quân lực Hoa Kỳ đang tấn công các Tiểu đoàn Quân đội Nhân dân Việt Nam cố thủ tại các vị trí. Ngày 30/6/1966, 30 phi tuần B-52 xuất phát từ đảo Guam ném bom dọc khu Phi Quân sự (DMZ), liên tục ném hàng trăm tấn bom vào đội hình phòng ngự của quân đối phương, gây thương vong lớn. Sau 19 ngày chiến đấu từ 16/7 đến 3/8/1966, cuộc hành quân kết thúc. Phía Hoa Kỳ tuyên bố có khoảng 700 quân đối phương tử trận, 17 bị bắt, 142 vũ khí cá nhân và vũ khí cộng đồng bị tịch thu, phía Liên quân Mỹ-Quân Lực Việt Nam Cộng hòa tổn thất 147 tử trận và khoảng 600 bị thương.

Ngày 14/9/1966, TQLC Hoa Kỳ phối hợp với Sư đoàn 1 Bộ binh mở chiến dịch Prairie nhằm thanh tảo toàn bộ khu vực Phi Quân sự, 1 ngày sau, Bộ Tư lệnh Đặc nhiệm số 3 Hoa Kỳ huy động 12.000 lính Thủy quân lục chiến khởi động chiến dịch Deck House Quage phối hợp với 11.000 quân Mỹ-Việt Nam Cộng hòa đang thực hiện chiến dịch Prairie, truy quét các lực lượng đối phương từ Cửa Việt đến tây nam sông Bến Hải, buộc các đơn vị đối phương phải rút qua phía bên kia khu vực vĩ tuyến 17. Phía nam sông Bến Hải, toàn tuyến phòng thủ trước ngày 16/7 được khôi phục hoàn toàn.

Từ tháng 9 đến tháng 11 năm 1967, Trung đoàn 2 Bộ binh cùng với TQLC Hoa Kỳ tham gia một loạt các trận đánh lớn ở vùng Phi Quân sự (DMZ) phản công lại cuộc tiến quân vượt qua vĩ tuyến 17 của Sư đoàn 304 và Sư đoàn 325 của Quân đội Nhân dân Việt Nam được sự yểm trợ của pháo tầm xa đặt ở Vĩnh Linh, phía Bắc vĩ tuyến 17. Tại các khu vực Gio Linh, Cồn Thiện, Cồn Tiên, Trung Lương chứng kiến những trận chiến ác liệt giữa 2 phe tham chiến. Các đơn vị tham chiến đã gây thiệt hại lớn cho quân tấn công nhờ sự yểm trợ hùng hậu của pháo binh mặt đất trong đó có các pháo đội 175 ly đặt ở Cam Lộ và Đông Hà, hải pháo và máy bay ném bom chiến lược B-52 của Mỹ.

Tết Mậu Thân năm 1968, Trung đoàn 3 cùng với các Tiểu đoàn 1/1, 2/1, 2/2, 4/2, Đại đội Hắc Báo và các Chi đoàn 2 và 3 của Thiết đoàn 7 Thiết giáp trực thuộc Sư đoàn và Chiến đoàn 1 Nhảy Dù gồm các Tiểu đoàn 2, 7 và 9 giữ vững Bộ Tư lệnh Sư đoàn 1 Bộ binh tại đồn Mang Cá và các khu vực lân cận xung quanh. Sau đó Trung đoàn 3 cùng với Chiến đoàn A Thủy quân Lục chiến Việt Nam Cộng hòa, 2 Tiểu đoàn Biệt động quân 21 và 39, Thủy quân Lục chiến Hoa Kỳ giải tỏa thành công Cố đô Huế và truy quét quân của đối phương. Tháng 4/1968, Sư đoàn cùng với Sư đoàn 101 Không vận Hoa Kỳ mở một loạt chiến dịch truy quét phía tây Thừa Thiên, vùng thung lũng A Shầu.

Ngày 7/2/1969, Tiểu đoàn 2 phối hợp với Tiểu đoàn 3 của Trung đoàn 3 chạm súng nặng với một Trung đoàn chủ lực của Quân đội Nhân dân Việt Nam không rõ phiên hiệu tại tây bắc Thừa Thiên. Trung đoàn 3 tuyên bố đã gây tổn thất nặng cho trung đoàn đối phương với 247 tử trận và 11 tù binh, tịch thu được 109 vũ khí trong đó có 18 vũ khí cộng đồng, phía Việt Nam Cộng hòa thương vong 57 tử trận và khoảng 200 bị thương.

Ngày 6/4/1969, Tiểu đoàn 1 thuộc Trung đoàn 2 phục kích một Tiểu đoàn thuộc Sư đoàn 304 Quân đội Nhân dân Việt Nam đang tìm cách xâm nhập vào Gio Linh, gây thiệt hại cho đơn vị này với 55 chết và 7 tù binh, tịch thu 23 vũ khí cá nhân. Phía QLViệt Nam Cộng hòa có 18 tử trận và 41 bị thương.

Tháng 5 năm 1969, Trung đoàn 3 cùng với Tiểu đoàn 2 và 4 của Trung đoàn 1 tham gia chiến dịch Apache Snow nằm trong 1 loạt các trận đánh ở các Cao điểm 900, 916, 935, 937, 991, đỉnh núi A Bia tại vùng thung lũng mắt xích A Shầu cùng với Sư đoàn 101 Không vận Hoa Kỳ. Tiểu đoàn 2 và 4 tham gia hỗ trợ bảo vệ 2 căn cứ hỏa lực yểm trợ trực tiếp cho chiến dịch của Lữ đoàn 3 Nhảy dù Hoa Kỳ, còn Tiểu đoàn 2 của Trung đoàn 3 Bộ binh Việt Nam Cộng hòa tham gia cuộc đột kích cuối cùng để chiếm ở Cao điểm 937 hay còn gọi là "Đồi thịt băm". Tiểu đoàn đã cùng lính dù Mỹ chiếm thành công đỉnh đồi 937 và cắm cờ lúc 10 giờ sáng ngày 20 tháng 5 năm 1969 trước khi bàn giao cho Tiểu đoàn 3 của Lữ đoàn 3 Nhảy dù Hoa Kỳ lúc 17 giờ chiều cùng ngày sau khi đánh bật đối phương khỏi ngọn đồi này.

Ngày 11/10/1969, Tiểu đoàn 4 thuộc Trung đoàn 3 Bộ binh Việt Nam Cộng hòa tham gia giải vây 1 trại Lực lượng Đặc biệt tại tây bắc Thừa Thiên.

Ngày 24/11/1969, Tiểu đoàn 3 của Trung đoàn 1 mở cuộc đột kích binh trạm 92, tuy nhiên lại chạm súng nặng nề với lực lượng bảo vệ binh trạm này, buộc phải rút lui mà không đạt được mục tiêu là phá hủy binh trạm này. Tuy nhiên tiểu đoàn 3 tuyên bố đã gây thương vong cho đối phương là 38 chết và 18 bị thương còn phía Việt Nam Cộng hòa thương vong 8 chết và 11 bị thương.

Năm 1970, Sư đoàn tiếp nhận thêm Trung đoàn 54 Bộ binh biệt lập và trở thành trung đoàn thứ tư của Sư đoàn.

Năm 1971, Sư đoàn tham gia chiến dịch Lam Sơn 719 với 3 Trung đoàn 1, 2 và 3 (Trung đoàn 54 không tham gia trận này mà ở lại bảo vệ vùng hậu cứ Thừa Thiên) với mục tiêu là phá hủy đường mòn Hồ Chí Minh nhằm triệt tiêu con đường tiếp vận khổng lồ của Quân đội Nhân dân Việt Nam vào chiến trường miền Nam với nhiều vũ khí tối tân đủ loại. Cùng tham gia chiến dịch còn có các Sư đoàn Nhảy dù, Thủy Quân Lục Chiến và Liên đoàn 1 Biệt động quân thuộc Quân đoàn I. Tiểu đoàn 2/2 do Trung tá Trần Ngọc Huế, sỹ quan có nhiều thành tích trong Tết Mậu Thân 1968 cùng với tiểu đoàn 4/2 được 120 trực thăng UH-1 Huey mang 1.200 quân không vận nhảy vào thị xã Tchépone để phá hủy các kho tàng chứa lương thực và vũ khí đủ loại của đối phương. Sau đó Sư đoàn chạm súng nặng nề với các Sư đoàn 2, 304, 308, 324B và các đơn vị tăng cường của đối phương với quân số lên đến hơn 40.000 quân đang tiến hành bao vây Sư đoàn. Trung đoàn 1 Bộ binh do Đại tá Nguyễn Văn Điềm chỉ huy bị vây khốn ở bãi đáp Lolo. Sau 10 ngày chiến đấu ác liệt trong điều kiện bị vây hãm và dưới dàn hỏa lực pháo binh khủng khiếp của phía quân đối phương, Trung đoàn 1 được di tản khẩn cấp bằng trực thăng UH-1 Huey và CH-47 Chinook. Tiểu đoàn 4/1 do Trung tá Lê Huấn chỉ huy nhận lãnh trách nhiệm đoạn hậu cho Trung đoàn rút lui, Tiểu đoàn 4/1 chịu tổn thất nặng nề khi chỉ còn 63/600 tay súng về tới Việt Nam, nhiều trực thăng của Lục quân Hoa Kỳ cũng bị bắn hạ do lưới lửa từ các dàn pháo phòng không đủ tầm bao vây xung quanh khu vực. Cũng trong trận chiến này, Trung tá Huấn, viên tiểu đoàn trưởng của Trung đoàn 1 Bộ binh đã tử trận bên cạnh Tiểu đoàn phó và các sĩ quan, binh sĩ dưới quyền khác.

Sau khi về Việt Nam, Sư đoàn đã tham gia ngay hai cuộc hành quân Lam Sơn 720 và 810 cùng với Thủy quân Lục chiến Việt Nam giải tỏa Động A Tây do Trung đoàn 6 Quân đội Nhân dân Việt Nam chiếm đóng trước đó. Cuộc tái chiếm diễn ra ác liệt, sau 5 ngày chiến đấu, Động A Tây hoàn toàn được giải tỏa, phía Việt Nam Cộng hòa thu hồi được hơn 100 thi hài quân đồng đội, tổn thất 116 tử trận và khoảng 300 bị thương, và tuyên bố phía đối phương có 402 tử trận (đếm xác) và 22 bị bắt làm tù binh, tịch thu 293 vũ khí cá nhân và 47 vũ khí cộng đồng. Ngày 26/6/1971, Đại đội Hắc Báo trực thuộc Sư đoàn tiến hành tấn công chớp nhoáng Binh trạm 106 tại thung lũng A Shầu, phá hủy các kho tàng chứa vũ khí và lương thực, tiêu diệt nhóm bảo vệ binh trạm này và rút ra thành công mà không phải chịu tổn thất nào. Cũng trong năm này, các đơn vị thuộc Sư đoàn 1 Bộ binh liên tiếp thực hiện các cuộc tấn công khác ở vùng hỏa tuyến.

Ngày 1/10/1971, Sư đoàn 3 Bộ Binh Việt Nam Cộng hòa được thành lập, nhận lãnh trách nhiệm trấn đóng vùng địa đầu giới tuyến Quảng Trị thay thế cho Sư đoàn 1 Bộ binh lui về phòng thủ tiểu khu Thừa Thiên, Sư đoàn 1 nhận lệnh chuyển Trung đoàn 2 Bộ Binh đang trấn đóng ở giới tuyến làm nòng cốt của Sư đoàn 3 Bộ Binh.

Năm 1972, Sư đoàn tham gia Chiến dịch Mùa Hè Đỏ Lửa, lúc này Trung đoàn 51 Bộ binh biệt lập đang hoạt động ở vùng Quảng Đà (Quảng Nam-Đà Nẵng) được lệnh sáp nhập vào Sư đoàn, Sư đoàn chính thức có 4 trung đoàn trực thuộc gồm trung đoàn 1, 3, 51, 54 cho đến khi tan hàng năm 1975. Sư đoàn tham gia các chiến dịch tái chiếm một loạt cứ điểm, các điểm cao và thung lũng có thể quan sát toàn bộ tuyến chuyển vận huyết mạch của Quân đội Nhân dân Việt Nam vào miền Nam, những trận đánh đẫm máu không kém hai Sư đoàn đang hoạt động ở phía bắc là Nhảy dù và Thủy quân Lục chiến đang tiến lên tái chiếm Cổ thành Quảng Trị.

Đơn vị trực thuộc và phối thuộc

Bộ Tư lệnh Sư đoàn và Chỉ huy Trung đoàn tháng 3/1975

Pháo binh

Tư lệnh Sư đoàn qua các thời kỳ

Các trận đánh tiêu biểu

Chiến dịch Pegasus (1968) Trận chiến bảo vệ Cố Đô Huế trong Tết Mậu Thân tại Huế và Quảng Trị (1968) Cuộc hành quân Lam Sơn 719 (1971) Các trận chiến lớn tại Tây Thừa Thiên trong Mùa Hè Đỏ Lửa (1972) *Chiến dịch Huế-Đà Nẵng (1975)

Năm 1975

Tháng 3 năm 1975, Sư đoàn 1 Bộ binh cùng Liên đoàn 15 Biệt động quân, chịu trách nhiệm bảo vệ hướng Tây và hướng nam tỉnh Thừa Thiên. Trong lúc hành quân, Sư đoàn được lệnh rút về cửa Tư Hiền để thực hiện lệnh tái phối trí Quân đoàn I. Theo kế hoạch rút quân, Sư đoàn 1 Bộ binh cùng các đơn vị trực thuộc tăng phái sẽ tập hợp tại cửa Tư Hiền, vượt đầm Cầu Hai, qua đèo Hải Vân rồi theo Quốc lộ 1 về Đà Nẵng. Kế hoạch này không tiến hành như dự kiến, vì ngày 21 tháng 3 năm 1975, Sư đoàn 324B và Sư đoàn 325 cùng Trung đoàn Trị Thiên của Quân Giải phóng miền Nam đồng loạt tấn công dọc theo tuyến phòng thủ sông Bồ kéo dài đến Phú Lộc. Tại các trận tuyến Mõ Tàu, núi Bông và các cao điểm nơi có mặt Trung đoàn 1, 51, 54 thuộc Sư đoàn 1 Bộ binh, giao tranh xảy ra quyết liệt và Sư đoàn 1 đã gây nhiều thiệt hại cho các đơn vị tấn công. Khi các đơn vị Sư đoàn 1 Bộ binh về đến cửa Tư Hiền, Duyên đoàn 13 Hải quân Việt Nam Cộng hòa chịu trách nhiệm đưa quân qua sông gặp khó khăn do biển động mạnh và sóng quá lớn khiến Duyên đoàn không thể làm tròn trọng trách đó. Sư đoàn 1 Bộ binh không thể rút quân và đã tan rã tại đây, và chỉ có khoảng 4.000 quân nhân về được đến Đà Nẵng. Đến ngày 1/4/1975, sau khi đánh 1 loạt trận chiến cuối cùng xung quanh và trong thành phố Đà Nẵng, Sư đoàn 1 Bộ binh đã tan hàng tại Đà Nẵng sau hơn 20 năm chiến đấu tại vùng địa đầu giới tuyến của miền Nam Việt Nam.

👁️ 4 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Sư đoàn 22 Bộ binh Quân lực Việt Nam Cộng hòa** là một đơn vị cấp sư đoàn của Quân lực Việt Nam Cộng hòa, là một trong 2 đơn vị chủ lực thuộc Quân
**Sư đoàn 1 Bộ Binh**, là một trong 3 đơn vị chủ lực thuộc Quân đoàn I và Quân khu 1 của Quân Lực Việt Nam Cộng hòa, được thành lập năm 1955 và tan
**Sư đoàn 25 Bộ binh** (1962-1975), là một trong 3 đơn vị chủ lực trực thuộc Quân đoàn III & Quân khu 3 của Quân lực Việt Nam Cộng hòa. Được thành lập vào giai
**Sư đoàn 23 Bộ binh** là một trong 2 đơn vị chủ lực trực thuộc Quân đoàn II và Quân khu 2 của Quân lực Việt Nam Cộng hòa. Đây là đơn vị đầu tiên
**Sư đoàn 5 Bộ binh**, là một trong 3 đơn vị chủ lực quân trực thuộc Quân đoàn III và Quân khu 3 của Quân lực Việt Nam Cộng hòa. Đây là một đơn vị
**Sư đoàn 3 Bộ binh**, là một trong mười một Sư đoàn Bộ binh và cũng là đơn vị "con út" của Quân lực Việt Nam Cộng hòa. Là một trong ba đơn vị Chủ
**Sư đoàn 21 Bộ binh** là một trong ba đơn vị chủ lực quân thuộc Quân đoàn IV và Quân khu 4 của Quân lực Việt Nam Cộng hòa. Tồn tại từ năm 1955 đến
**Sư đoàn 2 Bộ binh** (tiếng Anh: _2nd Infantry Division_, **2nd ID**) là một trong ba đơn vị chủ lực quân trực thuộc Quân đoàn I và Quân khu 1 của Quân lực Việt Nam
**Sư đoàn 18 Bộ binh**, là một trong ba đơn vị chủ lực quân trực thuộc Quân đoàn III & Quân khu 3 của Quân lực Việt Nam Cộng hòa, tồn tại từ năm 1965
**Sư đoàn 9 Bộ binh**, là một trong 3 đơn vị chủ lực quân trực thuộc Quân đoàn IV và Quân khu 4 của Quân lực Việt Nam Cộng hòa có phạm vi hoạt động
**Sư đoàn 7 Bộ binh**, là một trong 3 đơn vị chủ lực quân trực thuộc Quân đoàn IV và Quân khu 4 của Quân lực Việt Nam Cộng hòa, tồn tại từ năm 1955
**Sư đoàn Thủy quân Lục chiến Việt Nam Cộng hòa** (tiếng Anh: _Republic of Vietnam Marine Division_, **RVNMD**) là Lực lượng tác chiến đổ bộ đường thủy. Đây là một trong số những đơn vị
**Quân lực Việt Nam Cộng hòa** (_Viết tắt_: **QLVNCH**; , _viết tắt_ **RVNAF**) là lực lượng quân đội của Việt Nam Cộng hòa, thành lập vào năm 1955 và giải thể vào năm 1975 cùng
*Dưới đây là danh sách huy hiệu Quân lực Việt Nam Cộng hòa: ## Chức trách và cơ quan cấp cao Tập tin:Flag of the President of the Republic of Vietnam as Supreme
**Nguyễn Văn Minh** (1929-2006) nguyên là một tướng lĩnh Bộ binh của Quân lực Việt Nam Cộng hòa, cấp bậc Trung tướng. Ông xuất thân từ những khóa đầu tại trường Võ bị Liên quân
**Thanh nữ Cộng hòa** Việt Nam Cộng hòa đã hiện diện từ thời còn Quân đội Liên hiệp Pháp. Ban đầu chỉ là một nhân số nhỏ thuộc diện công chức bán quân sự. Sau
**Tổng cục Chiến tranh Chính trị** là cơ quan tuyên truyền, ban đầu trực thuộc Bộ Quốc phòng Việt Nam Cộng hòa. Cơ quan này được thành lập dưới thời Đệ Nhất Cộng hòa với
**Bộ Tổng tham mưu Quân lực Việt Nam Cộng hòa** là cơ quan tham mưu quân sự đầu não về lãnh vực chỉ huy và tham mưu của Quân lực Việt Nam Cộng hòa trong
**Tổng cục Quân huấn**, trực thuộc Bộ Tổng Tham mưu, có nhiệm vụ tổ chức, điều hành, phối trí và chuyên về huấn luyện, đào tạo từ cấp Binh sĩ đến Hạ sĩ quan ngạch
**Nha Kỹ thuật** (tiếng Anh: _Strategic Technical Directorate_ – STD) là **Cơ quan Tình báo chiến lược** của Quân lực Việt Nam Cộng hòa, trực thuộc Bộ Tổng tham mưu, đặc trách tổ chức, hoạt
**Tổng Thanh tra Quân lực** trực thuộc Bộ Tổng tham mưu Quân lực Việt Nam Cộng hòa. Có nhiệm vụ thay mặt Bộ Quốc phòng và Bộ Tổng Tham mưu, thường xuyên, đột xuất và
**Tổng cục Tiếp vận** (1964 - 1975), trực thuộc Bộ Tổng tham mưu, là một ngành có nhiệm vụ quản lý tất cả chiến cụ, quân trang, quân dụng, phương tiện vận chuyển, vật tư
**Hội đồng Quân lực** là tổ chức tập hợp một số tướng lãnh của Quân lực Việt Nam Cộng hòa thành lập ngày 18 tháng 11 năm 1964 và tuyên bố tự giải tán vào
**Không lực Việt Nam Cộng hòa** (, **RVNAF**) là lực lượng không quân của Quân lực Việt Nam Cộng hòa. Tiền thân là những phi cơ ném bom nhỏ và cũ do quân đội Liên
**Quân cảnh** (1959 - 1975) là một Binh chủng trực thuộc Bộ Tổng Tham mưu của Quân lực Việt Nam Cộng hòa. Binh chủng này được thành lập để thừa hành và thực thi quân
**Quân vận** (1951-1975), là một đơn vị chuyên ngành trong Quân lực Việt Nam Cộng hòa, ngành này thuộc quyền điều hành trực tiếp của Tổng cục Tiếp vận và trực thuộc Bộ Tổng Tham
**Quân cụ** (1954 - 1975) là một đơn vị chuyên ngành của Quân lực Việt Nam Cộng hòa, dưới sự điều hành hàng dọc của Tổng cục Tiếp vận trực thuộc Bộ Tổng tham mưu.
**Quân y Việt Nam Cộng hòa** là một ngành y tế quân sự của Quân lực Việt Nam Cộng hòa, trực thuộc sự điều hành theo hệ thống hàng dọc của Tổng cục Tiếp vận
**Trường Hạ sĩ quan Quân lực Việt Nam Cộng hòa** (tiếng Anh: _The School of the Non-commissioned officers of the Vietnam Military Forces_, SNCOVNMF), hay **Quân trường Đồng Đế** (tiếng Anh: _Dong De Military School_,
**Quân nhu** (1951 -1975) là một đơn vị chuyên ngành trực thuộc sự điều hành của Tổng cục Tiếp vận và dưới quyền điều động của Bộ Tổng tham mưu trong Quân lực Việt Nam
**Lục quân Việt Nam Cộng hòa** (Tiếng Anh: _Army of the Republic of Vietnam_, **ARVN**) hay **Bộ binh** là lực lượng quân chủ lực chiến đấu trên bộ của Việt Nam Cộng hòa. Lực lượng
nhỏ|**Phù hiệu Binh chủng Pháo binh - Quân lực Việt Nam Cộng Hòa** **Binh chủng Pháo Binh** (tiếng Anh: _Artillery Republic of Vietnam Armed Forces_, **ARVNAF**) là lực lượng hỏa lực trọng yếu của Quân
Vụ **tấn công trụ sở Bộ Tổng tham mưu**, cơ quan đầu não của Quân lực Việt Nam Cộng hòa (QLVNCH), xảy ra vào rạng sáng ngày 31 tháng 1 năm 1968. Trụ sở Bộ
**Binh biến tại Việt Nam Cộng hòa tháng 9 năm 1964** là một cuộc binh biến do một số sĩ quan cao cấp của Quân lực Việt Nam Cộng hòa thực hiện trong 2 ngày
Bản đồ 4 Quân khu [[Việt Nam Cộng hòa]] **Quân đoàn I** là một đơn vị cấp Quân đoàn, được tổ chức hỗn hợp gồm cả Hải quân - Lục quân - Không quân. Đây
**Lịch sử quân sự của Việt Nam Cộng hòa** là lịch sử của các lực lượng vũ trang Việt Nam Cộng hòa, bắt đầu từ khi chế độ chính trị này thành lập vào năm
**Binh chủng Nhảy Dù Quân lực Việt Nam Cộng hòa** là lực lượng tác chiến đổ bộ đường không của Quân lực Việt Nam Cộng hòa. Khởi đầu là các đơn vị nhảy dù được
**Hải quân Việt Nam Cộng hòa** (Tiếng Anh: _Republic of Vietnam Navy_, **RVN**) là lực lượng Hải quân trực thuộc Quân lực Việt Nam Cộng hòa, hoạt động trên cả vùng sông nước và lãnh
**Biệt động quân Việt Nam Cộng hòa** (Tiếng Anh: _Vietnamese Rangers Corp_, **VNRC**) là đơn vị bộ binh cơ động của Quân lực Việt Nam Cộng hòa, đồng thời là lực lượng tổng trừ bị
Bản đồ 4 Quân khu [[Việt Nam Cộng hòa]]
Bản đồ các tỉnh thuộc **Quân khu III** **Quân đoàn III** là một đơn vị cấp Quân đoàn, được tổ chức hỗn hợp gồm cả Hải
**Lê Văn Hưng** (1933 - 1975) nguyên là một tướng lĩnh Bộ binh của Quân lực Việt Nam Cộng hòa, cấp bậc Chuẩn tướng. Ông xuất thân từ những khóa đầu tiên tại trường Sĩ
Bản đồ 4 Quân khu [[Việt Nam Cộng hòa]] **Quân đoàn IV** là một đơn vị cấp Quân đoàn, được tổ chức hỗn hợp gồm cả Hải quân – Lục quân – Không quân, là
**Liên đoàn 81 Biệt cách Nhảy dù** (tiếng Anh: _81st Airborne Commando Battalion_, **81st ACB**) - thường được gọi tắt là **Biệt cách Dù** (**BCND** / **BCD**) - là một binh chủng đặc biệt, đồng
Bản đồ 4 Quân khu [[Việt Nam Cộng hòa]] **Quân đoàn II** là một đơn vị cấp Quân đoàn, được tổ chức hỗn hợp gồm cả Hải quân - Lục quân - Không quân. Đây
**Lực lượng đặc biệt** (Tiếng Anh: _Army of the Republic of Vietnam Special Forces_, **ARVNSF**) - viết tắt: **LLDB** - là một đơn vị quân sự tinh nhuệ của Quân lực Việt Nam Cộng hòa.
**Binh chủng Thiết giáp Kỵ binh Việt Nam Cộng hòa** (1955-1975) (, **VNACC**) - còn gọi là **Thiết Kỵ** - trực thuộc Quân lực Việt Nam Cộng hòa, là lực lượng xung kích tác chiến
**Nguyễn Văn Kiểm** (1924 - 1969) nguyên là một tướng lĩnh Bộ binh của Quân lực Việt Nam Cộng hòa, cấp bậc Thiếu tướng. Ông xuất thân từ khóa đầu tiên ở trường Võ bị
**Nguyễn Văn Mạnh** (1921-1994) nguyên là một tướng lĩnh của Quân lực Việt Nam Cộng hòa, cấp bậc Trung tướng. Ông xuất thân từ khóa đầu tiên tại trường Võ bị Quốc gia do Chính
**Trường Quân y Việt Nam Cộng hòa** (1951-1975), là một cơ sở đào tạo, huấn luyện các thành phần Sĩ quan, Hạ sĩ quan và Binh sĩ phục vụ cho ngành Quân y. Từ đó
**Cuộc đảo chính tại Nam Việt Nam năm 1963** là cuộc đảo chính nhằm lật đổ chính thể Đệ nhất Cộng hòa Việt Nam của Tổng thống Ngô Đình Diệm và Đảng Cần lao Nhân