✨Chiến dịch Bắc Kỳ

Chiến dịch Bắc Kỳ

Chiến dịch Bắc Kỳ () là một chiến dịch diễn ra từ tháng 6 năm 1883 đến tháng 4 năm 1886 do Pháp tổ chức, nhằm chống lại các đội quân của người Việt, quân cờ đen của Lưu Vĩnh Phúc và đội quân Quảng Tây và Vân Nam của nhà Thanh, với mục tiêu chiếm đóng Bắc Kỳ và giữ vững sự bảo hộ của Pháp tại đó. Với những diễn biến phức tạp của chiến dịch xảy ra vào tháng 8 năm 1884 do bùng phát Chiến tranh Pháp - Thanh và vào tháng 7 năm 1885 do phong trào Cần Vương tại An Nam, chiến dịch cần đến sự tham gia của rất nhiều quân Pháp, dưới cái tên Quân đoàn viễn chinh Bắc Kỳ và sự hỗ trợ từ Đội tàu chiến Bắc Kỳ. Chiến dịch chính thức kết thúc vào tháng 4 năm 1886, khi lực lượng viễn chinh giảm số lượng quân đội chiếm đóng, nhưng tình hình Bắc Kỳ vẫn không ổn định cho đến tận năm 1896.

Trong khoảng thời gian từ năm 1881 cho tới 1885, người Pháp đã tiêu tốn vào xứ Đông Dương 334 triệu franc, trong khi tổng mậu dịch của xứ này chỉ là 350 triệu franc trong năm 1879.

Hà Nội và Nam Định (tháng 6-7 năm 1883)

thumb|left|Bản đồ Bắc Kỳ 10 năm sau thất bại của Francis Garnier trong việc xâm chiếm Bắc Kỳ, quân đội Pháp và Việt Nam lại đụng độ ở Bắc Kỳ vào ngày 25 tháng 4 năm 1882, khi sĩ quan chỉ huy Henri Rivière chiếm được thành Hà Nội chỉ với một lực lượng nhỏ lính thủy đánh bộ.

Sau vài tháng tạm lắng, quân tiếp viện từ Pháp đã đến vào tháng 2 năm 1883 cho phép Rivière leo thang chiến tranh bằng việc chiếm đánh thành Nam Định (27/03/1883). Chiếm đóng được Nam Định là chiến lược quan trọng của người Pháp nhằm đảm bảo thông tin liên lạc của họ ra biển.

Phần lớn lực lượng của Rivière đóng tại Nam Định trong khoảng thời gian ông ta vắng mặt. Tiểu đoàn trưởng Berthe de Villers đã đánh bại một cuộc tấn công của người Việt ở các vị trí người Pháp chiếm đóng tại Hà Nội, do phò mã Hoàng Kế Viêm chỉ huy tại trận Gia Quất (27-28/02/1883).

Thuật ngữ Chiến dịch Bắc Kỳ trong bài này quy ước cuộc chiến bắt đầu từ tháng 6/1883, tuy những xung đột trước đó tại Bắc Kỳ đóng vai trò quan trọng trong chiến dịch. Chiến dịch này được đánh dấu bằng sự quyết định gửi quân tiếp viện đến Bắc Kỳ của chính phủ Pháp, để trả thù cho thất bại và cái chết của Rivière trong cuộc chiến với quân Cờ Đen tại trận Cầu Giấy (19/05/1883). Quân tiếp viện đã được tổ chức thành Quân đoàn viễn chinh Bắc Kỳ, đặt dưới quyền chỉ huy của tướng Alexandre-Eugène Bouët (1833-1887), các sĩ quan cao cấp lính thủy đánh bộ đã có mặt sẵn ở thuộc địa Nam Kỳ.

thumb|left|Trận chiến tại Nam Định, 19/07/1883.

Tình cảnh của lính Pháp trước cuộc đổ bộ của Bouet đầu tháng 6 năm 1883 vô cùng bấp bênh. Người pháp lúc đó chỉ có các trại lính nhỏ tại Hà Nội, Hải Phòng, Nam Định và các điểm bị cô lập tại Hòn Gai và Quy Nhơn tại Nam Kỳ. Bouet ngay lập tức thấy cần phải tấn công đội quân cờ đen và quân người Việt của Hoàng Kế Viêm. Bước đầu, Bouet cho rút các căn cứ bị cô lập tại Hòn Gai và Quy Nhơn. Ông ta cũng cho phép từ bỏ Nam Định khi thấy cần thiết, những cố gắng bảo vệ 3 cứ điểm chính. Tháng 6, ông ta cũng dập tắt các cuộc biểu tình nửa vời của người Việt tại Hà Nội và Nam Định.

Lực lượng tăng cường từ Pháp và quần đảo Nouvelle-Calédonie, lực tuyển mộ ở Nam Kỳ, và lực lượng người Bắc Kỳ theo Pháp đến nhanh chóng đã cho phép Bouët phản công. Ngày 19/07, tiểu đoàn trưởng Pierre de Badens, chỉ huy cao cấp người Pháp tại Nam Định đã tấn công và đánh bại lực lượng quân vây hãm của Hoàng Kế Viêm, làm giảm áp lực của quân Việt lên Nam Định

Thiết lập chế độ bảo hộ của Pháp (tháng 8 năm 1883)

thumb|[[Amédée Courbet|Courbet và Harmand tại Huế, tháng 8 năm 1883]]

Sự xuất hiện của đô đốc Amédée Courbet vào tháng 7 năm 1883 cùng với lực lượng hải quân tiếp viện lớn càng củng cố thêm sức mạnh của quân Pháp tại Bắc Kỳ. Quân Pháp ở hoàn cảnh bắt buộc phải tấn công quân Cờ đen Lưu Vĩnh Phúc và họ nhận ra rằng hành động quân sự đương đầu với quân Cờ đen phải đi kèm một giải pháp với triều đình Việt Nam tại Huế. Nếu cần thiết, phải dùng vũ lực để có được sự công nhận bảo hộ của Pháp với Bắc Kỳ.

Ngày 30 tháng 7 năm 1883, Đô đốc Courbet, tướng Bouët và François- Jules Harmand, được bổ nhiệm là Tổng Ủy viên Hội đồng Dân Sự Bắc Kỳ gần đây đã bổ nhiệm ủy viên dân sự Pháp - chung của Bắc Bộ, nắm giữ một hội đồng chiến tranh tại Hải Phòng. Cả ba đều thống nhất rằng nên khởi động sớm nhất có thể cuộc chiến chống lực lượng Quân Cờ Đen đang đóng ở Phủ Hoài bên bờ sông Đáy và lực lượng của Hoàng Kế Viêm đối kháng với quân Pháp tại Nam Định. Vì vậy họ đã đi đến quyết định, chủ yếu là sự thúc giục của Harmand, đề nghị chính phủ Pháp cho phép thực hiện một cuộc tấn công vào hệ thống phòng thủ tại trung ương Huế, sau đó gửi một tối hậu thư yêu cầu Việt Nam phải chấp nhận sự bảo hộ của Pháp trên toàn Bắc Kỳ hoặc phải đối mặt với cuộc tấn công ngay lập tức.

Đề xuất này được Bộ chấp thuận vào ngày 11 tháng 8, và ngày 18 tháng 8, một số tàu chiến thuộc nhóm lực lượng hải quân duyên hải tại Bắc Kỳ của Courbet đã bắn phá các cửa phòng thủ Thuận An, lối vào của sông Huế. Ngày 20 tháng 8, tại trận Cửa Thuận An, 2 nhóm lính thủy đánh bộ Pháp và các nhóm lính trong 3 tàu chiến Pháp đã cập vào bờ và nã pháo vào các công sự phòng thủ. Trong suốt buổi chiều, pháo hạm Lynx và Vipère đã chọc thủng hàng rào phòng ngự tại cửa sông Hương, tạo điều kiện cho quân Pháp tấn công trực tiếp Huế nếu họ họ muốn.

thumb|Ký kết [[Hòa ước Quý Mùi, 1883|Hòa ước Quý Mùi, 25/08/1883]] Triều đình Việt Nam đã yêu cầu một hiệp ước đình chiến, ngày 25 tháng 8, Harmand tự thảo cho triều đình hèn nhát Huế một hiệp ước có tên là Hòa ước Quý Mùi. Việt Nam công nhận tính hợp pháp của sự chiếm đóng của Pháp tại Nam Kỳ, chấp nhận sự bảo hộ của Pháp đối với cả Trung Kỳ và Bắc Nam Kỳ và hứa sẽ rút quân khỏi Bắc Kỳ. Việt Nam, gia đình hoàng gia, triều đình vẫn tồn tại nhưng phải nằm dưới sự chỉ đạo của Pháp. Pháp có đặc quyền đóng quân đồn trú tại Huế. Để đảm bảo không có biến cố, một đơn vị lính đồn trú Pháp sẽ chiếm giữ lâu dài tại cửa phòng thủ Thuận An. Một dải lãnh thổ lớn thuộc Trung Kì được chuyển sang Bắc Kì và Nam Kì, nơi chịu sự quản lý trực tiếp của người Pháp. Các tỉnh Nghệ An, Thanh Hóa, Hà Tĩnh được nhập vào Bắc Kì và các tỉnh phía nam Bình Thuận vào Nam Kì. Người Pháp hủy bỏ mọi khoản nợ quốc gia. Người Pháp tiến hành loại bỏ quân Cờ Đen tại Bắc Kì và kiểm soát thương mại trên sông Hồng.

Phủ Hoài, Palan và Hải Dương (tháng 8–11 năm 1883)

Sơn Tây (tháng 12 năm 1883)

Tháng 12 năm 1883 đô đốc Amédée Courbet, người được lựa chọn để thay thế Bouët làm tổng chỉ huy quân đoàn viễn chinh Bắc Kì, đã tập hợp một lực lượng lớn gồm 9000 quân tiến đánh Sơn Tây nhằm tiêu diệt quân cờ đen của Lưu Vĩnh Phúc. Quyết định này còn mang một ý nghĩa chính trị quan trọng, khi tấn công Sơn Tây sẽ đưa quân Pháp giao chiến trực tiếp với quân Trung Quốc lần đầu tiên kể từ khi chiến dịch bắt đầu. Nhà Thanh (Trung Quốc ) về danh nghĩa là thiên triều của Việt Nam, đã hàng tháng trời hỗ trợ quân Cờ đen, và đóng quân ở khắp miền bắc Việt Nam như Sơn Tây, Lạng Sơn, Bắc Ninh,.. để ngăn bước tiến của quân Pháp. Vào ngày 10 tháng 12 năm 1883, sau khi thất bại trong việc thuyết phục quân Thanh rút lui bằng những nỗ lực ngoại giao, chính phủ Pháp ủy quyền cho Courbet tấn công Sơn Tây

Chiến dịch Sơn Tây là một chiến dịch đẫm máu của Pháp ở Bắc Kì. Trong trận đánh này quân Thanh và quân Việt Nam chiến đấu rất ít, nhưng quân cờ đen của Lưu Vĩnh Phúc đã chiến đấu rất quyết liệt để bảo vệ thành phố. Ngày 14 tháng 12, quân Pháp tấn công công sự phòng thủ phía ngoài của Sơn Tây ở Phù Sa, nhưng bị đẩy lui với thương vong lớn. Hi vọng có thể tận dụng sự hoang mang của quân Pháp sau thất bại này, Lưu Vĩnh Phúc tổ chức tấn công quân pháp trong đêm hôm đó, nhưng cũng cũng thất bại vô cùng thảm khốc. Sau khi cho binh sĩ nghỉ ngơi vào ngày 15, Courbet một lần nữa tấn công Sơn Tây vào chiều ngày 16. Lần tấn công nay được quân Pháp chuẩn bị rất kĩ bằng pháo binh, và chỉ tấn công sau khi quân phòng thủ đã mệt mỏi. Vào hồi 5 giờ chiều, một tiểu đoàn lính lê dương và tiểu đoàn thủy quân lục chiến đã chiếm được cổng phía tây thành Sơn Tây và tiếp tục giao tranh trên con đường tiến vào thị xã. Lưu Vĩnh Phúc rút quân vào thành trong, và rời bỏ Sơn tây trong đêm tối vài giờ sau đó. Courbet hoàn thành mục tiêu, nhưng cái giá phải trả là rất đắt. Thương vong của quân Pháp là 83 người chết và 320 người bị thương. Trận đánh này cũng gây tổn thất nặng cho quân cờ đen, và theo như một số quan sát viên, nó đã khiến quân cờ đen không thể phục hồi.

Bắc Ninh và Hưng Hóa (tháng 1-7 năm 1884)

Cuộc chiến Pháp - Thanh (tháng 8 năm 1884- tháng 4 năm 1885)

Sự 'lặng sóng' tại Bắc Kỳ (tháng 4 năm 1885 - tháng 4 năm 1886)

thumb|Chuẩn bị lên tàu ở Algiers để đến Bắc Kỳ, tháng 1 năm 1885 Chiến tranh Trung-Pháp kết thúc với việc quân Trung Quốc bị đẩy lùi ra khỏi Bắc Bộ và hiệp ước hòa bình được ký kết giữa Pháp và Trung Quốc tại Thiên Tân vào ngày 09 tháng 6 năm 1885, buộc Trung Quốc phải từ bỏ ảnh hưởng lịch sử quyền bá chủ của nó với Việt Nam và thừa nhận chế độ bảo hộ của Pháp trên cả Nam Kì và Bắc Kì. Theo lý thuyết, điều này củng cố đòi hỏi của họ đối với Bắc Kì. Nhưng thực tế điều này không dễ dàng như thế. Một chính khách Anh đã nhận xét vào thời điểm đó: :Pháp đã giành chiến thắng trong tuyên bố chủ quyền với Bắc Kỳ; và bây giờ toàn bộ công việc phải làm là chế ngự nó.

Một lực lượng mạnh quân tiếp viện đã được gửi đến Bắc Kỳ khi xảy ra cuộc nổi dậy Lạng Sơn (tháng 3 năm 1885), nâng tổng số binh sĩ Pháp tại Bắc Kỳ lên đến 35.000 vào mùa hè năm 1885. Trong tháng 5 và tháng 6 năm 1885, thêm hàng ngàn lính Pháp mới đổ vào Bắc Kỳ.

👁️ 1 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Chiến dịch Bắc Kỳ** () là một chiến dịch diễn ra từ tháng 6 năm 1883 đến tháng 4 năm 1886 do Pháp tổ chức, nhằm chống lại các đội quân của người Việt, quân
**Kỷ niệm chương Viễn chinh Bắc Kỳ** () được trao cho tất cả binh lính và thủy thủ Pháp đã tham gia các trận đánh trong chiến dịch Bắc Kỳ và chiến tranh Pháp–Thanh từ
**Quân đoàn viễn chinh Bắc Kỳ** (tiếng Pháp: _corps expéditionnaire du Tonkin_) là một bộ chỉ huy quân sự quan trọng của Pháp ở miền Bắc Việt Nam (Bắc Kỳ) từ tháng 6 năm 1883
**Chiến dịch Nam Kỳ** là chiến dịch Pháp giành quyền bảo hộ toàn bộ miền Nam Kỳ, nhà Nguyễn bắt đầu từ năm 1858. Pháp phát động cuộc chiến tranh đầu tiên tại bán đảo
**Chiến dịch Tây Nguyên** hay **Chiến dịch Bắc Tây Nguyên** là một chiến dịch tiến công của các lực lượng của Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam vào Quân lực Việt Nam Cộng hòa
**Quân đoàn bộ binh Bắc Kỳ** (_tirailleurs tonkinois_) là một Quân đoàn bộ binh nhẹ Bắc Kỳ, được thành lập năm 1884 để hỗ trợ cho các hoạt động của Quân đoàn viễn chinh Bắc
**Chiến dịch Bắc Virginia**, còn có tên **Chiến dịch Bull Run thứ hai** hay **Chiến dịch Manassas thứ hai**, là một chuỗi các trận đánh diễn ra tại Virginia trong tháng 8 và tháng 9
**Các chiến dịch bắc phạt thời Đông Tấn** chỉ loạt trận chiến của nhà Đông Tấn ở phía nam phát động trong khoảng thời gian từ năm 317 đến 419 nhằm thu phục lại miền
Tác giả Bác sĩ Hocquard Dịch giả Trương Quốc Toàn Số trang 532 Kích thước 19x26.5 cm Ngày phát hành 10-2020 Xứ Bắc Kỳ nhiệt đới luôn có sức hấp dẫn kỳ lạ với tính
Xứ Bắc Kỳ nhiệt đới luôn có sức hấp dẫn kỳ lạ với tính cách ưa chinh phục khám phá của người Pháp. Và Charles-Édouard Hocquard không phải ngoại lệ. Ông đã tham gia Chiến
**Chiến dịch Bắc Iraq** (tiếng Thổ: Kuzey Irak Harekâtı) là chiến dịch của Lực lượng Vũ trang Thổ Nhĩ Kỳ vượt qua biên giới vào miền bắc Iraq từ ngày 12 tháng 10 đến ngày
**Chiến dịch Thung lũng 1862**, còn được biết đến với cái tên **Chiến dịch Thung lũng của Jackson**, là một chiến dịch nổi tiếng của thiếu tướng Liên minh miền Nam Thomas J. "Stonewall" Jackson
**Chiến dịch Tunisia** (hay còn gọi là **Trận Tunisia**) là một loạt trận đánh diễn ra tại Tunisia trong Chiến dịch Bắc Phi thời chiến tranh Thế giới thứ hai, giữa các lực lượng Phe
**Chiến dịch Xuân – Hè 1972**, còn được biết đến với tên gọi **Mùa hè đỏ lửa** (theo cách gọi của Quân lực Việt Nam Cộng hòa), hoặc **Easter Offensive** ("Chiến dịch Lễ Phục Sinh";
**Chiến dịch Nguyễn Huệ** là chiến dịch quân sự do Quân Giải phóng Miền Nam (QGP) tiến hành năm 1972, trong Chiến tranh Việt Nam, tại miền Đông Nam Bộ. Đây là một trong ba
[[George Brinton McClellan|George B. McClellan và Robert E. Lee, hai viên tướng tư lệnh trong Chiến dịch Maryland]] **Chiến dịch Maryland**, hay **Chiến dịch Antietam**, diễn ra từ ngày 4 tháng 9 đến 20 tháng
**Chiến dịch phản công Tikhvin** (10 tháng 11 năm 1941 - 30 tháng 12 năm 1941) là một trận đánh diễn ra giữa quân đội Liên Xô và quân đội Đức quốc xã trong Chiến
**Chiến dịch Đăk Tô**, thường được biết đến là trận **trận Đăk Tô - Tân Cảnh** là trận đánh mở màn cho Chiến dịch Bắc Tây Nguyên 1972 của Quân Giải phóng miền Nam Việt
**Chiến dịch Linebacker II**, hay còn được biết đến là **Chiến dịch Điện Biên Phủ trên không**, là chiến dịch quân sự cuối cùng của Hoa Kỳ chống lại Việt Nam Dân chủ Cộng hoà
**Chiến dịch Trị Thiên** là một chiến dịch trong Chiến tranh Việt Nam do Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam thực hiện vào năm 1972. Đây là một phần trong Chiến dịch Xuân hè
**Chiến dịch mùa Xuân năm 1975**, hay **Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân 1975, giải phóng hoàn toàn miền Nam**, là những cuộc tấn công quân sự cuối cùng của Quân Giải phóng
**Trận Điện Biên Phủ** (; ), còn gọi là **Chiến dịch Điện Biên Phủ**, là trận đánh lớn nhất trong Chiến tranh Đông Dương lần thứ nhất diễn ra tại lòng chảo Mường Thanh, châu
**Chiến dịch Lam Sơn 719** hay **Cuộc Hành quân Hạ Lào** (cách gọi của Việt Nam Cộng hòa) hay **Chiến dịch đường 9 - Nam Lào** (cách gọi của Chính phủ Cách mạng lâm thời
**Chiến dịch Sấm Rền** (tiếng Anh: _Operation Rolling Thunder_) hay** Chiến tranh phá hoại miền Bắc lần thứ nhất** (theo cách gọi của chính phủ Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam ngày nay)
**Chiến dịch Sao Thiên Vương (Uranus)** (tiếng Nga: _Операция «Уран»_, phiên âm La Tinh: _Operatsiya Uran_; tiếng Đức: _Operation Uranus_) là mật danh của chiến dịch có tính chiến lược của Liên Xô thời gian
**Chiến dịch Blau** (tiếng Đức: **_Fall Blau_**) là mật danh của Kế hoạch tổng tấn công từ mùa hè năm 1942 của quân đội Đức Quốc xã trên toàn bộ cánh Nam của mặt trận
**Chiến dịch Huế - Đà Nẵng** là một chiến dịch trong các chiến dịch lớn của cuộc Tổng tấn công và nổi dậy Mùa xuân năm 1975 do Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam
**Chiến dịch Barbarossa** (), còn được gọi là **Cuộc xâm lược của Đức vào Liên Xô** là mật danh của chiến dịch xâm lược Liên Xô do Quân đội Đức Quốc xã tiến hành trong
**Chiến dịch Bagration** () là mật danh của **chiến dịch Byelorussia** - chiến dịch tấn công chiến lược mùa hè năm 1944 của quân đội Liên Xô, chính thức bắt đầu ngày 23 tháng 6,
**Chiến dịch Kavkaz** là tên gọi chung cho một chuỗi các hoạt động quân sự tại khu vực Kavkaz diễn ra giữa quân đội Liên Xô và quân đội Đức Quốc xã trong cuộc Chiến
**Chiến dịch Mãn Châu** hay _Chiến dịch tấn công chiến lược Mãn Châu_ (tiếng Nga: _Манчжурская стратегическая наступательная операция_), hay _Cuộc tấn công của Liên Xô vào Mãn Châu_ hay _Chiến tranh chống lại Nhật
**Chiến dịch Smolensk** (7 tháng 8 năm 1943 – 2 tháng 10 năm 1943) hay còn gọi là **Trận Smolensk lần thứ hai** là một Chiến dịch tấn công chiến lược của Hồng quân Liên
**Chiến dịch Budapest** (Tiếng Nga:_Будапештская операция_) là trận đánh lớn nhất giữa quân đội Liên Xô với quân đội Đức Quốc xã và quân đội Hungary tại _Mặt trận Hungary_ thuộc Chiến tranh Xô-Đức trong
**Chiến dịch Market Garden** là một chiến dịch quân sự lớn của quân đội Đồng Minh trong Chiến tranh thế giới thứ hai, diễn ra từ ngày 17 tháng 9 năm 1944 tới ngày 25
**Chiến dịch Hồ Chí Minh**, tên ban đầu là **Chiến dịch Giải phóng Sài Gòn – Gia Định**, là chiến dịch cuối cùng của Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam trong Cuộc Tổng tấn
**Chiến dịch Đường 9 – Khe Sanh** còn được gọi là **"Chiến dịch Đường 9"** hay **"Trận Khe Sanh"**, là một chiến dịch chính yếu trong chiến cục năm 1968 tại Việt Nam. Các tài
**Chiến dịch Overlord**, hay **Cuộc tập trận Hornpipe**, là mật danh của **Trận Normandie,** một chiến dịch quân sự quy mô lớn của quân đội Đồng Minh tại miền Bắc nước Pháp trong Chiến tranh
**Chiến dịch Đăk Tô – Tân Cảnh** hay **Trận Đăk Tô – Tân Cảnh** năm 1967, là một trận đụng độ trực tiếp giữa Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam với quân đội Hoa
**Chiến dịch Biên giới Thu đông 1950**, còn gọi là **_Chiến dịch Lê Hồng Phong 2_**, là một chiến dịch trong Chiến tranh Đông Dương do Quân đội nhân dân Việt Nam (được phía Pháp
**Chiến dịch Linebacker** là chiến dịch do Hoa Kỳ thực hiện trong Chiến tranh Việt Nam nhầm giải tỏa áp lực tiến công của Quân giải phóng trong Chiến dịch hè 1972. Thực hiện bằng
**Chiến dịch Berlin** là chiến dịch tấn công cuối cùng của Hồng quân Liên Xô trong Chiến tranh Xô-Đức. Tại chiến dịch này – diễn ra từ ngày 16 tháng 4 đến 9 tháng 5 năm
**Chiến dịch Krym – Sevastopol (1941–1942)** bao gồm toàn bộ các trận chiến đấu của quân đội Xô Viết và quân đội Đức Quốc xã cùng với quân Romania tại bán đảo Krym từ tháng
**Chiến dịch tấn công hữu ngạn Dniepr** ở Ukraina (1944), hay còn được gọi là **Chiến dịch tấn công Dniepr–Carpath**, kéo dài từ ngày 24 tháng 12 năm 1943 đến ngày 14 tháng 4 năm
**Chiến dịch _Weserübung**_ () là mật danh của cuộc tấn công do Đức Quốc xã tiến hành tại Đan Mạch và Na Uy trong Chiến tranh thế giới thứ hai, mở màn Chiến dịch Na
**Chiến dịch Na Uy** là tên gọi mà phe Đồng Minh Anh và Pháp đặt cho cuộc đối đầu trực tiếp trên bộ đầu tiên giữa họ và quân đội Đức Quốc xã trong chiến
**Chiến dịch Lyublin–Brest** hay **Chiến dịch Lublin-Brest** là một chiến dịch quân sự diễn ra trong Chiến tranh Xô-Đức do Hồng quân Liên Xô tổ chức nhằm tiếp tục tấn công vào Cụm tập đoàn
**Chiến dịch tấn công Smolensk–Roslavl** là hoạt động quân sự lớn của quân đội Liên Xô trong giai đoạn kết thúc các chiến dịch tiến công trên hướng Smolensk năm 1943. Từ ngày 15 tháng
**Chiến dịch hợp vây Korsun–Shevchenkovsky** còn được gọi là "Tiểu Stalingrad" hay "Stalingrad trên bờ sông Dniepr" là một chiến dịch lớn trong Chiến tranh Xô-Đức, kéo dài từ ngày 24 tháng 1 đến 17
**Chiến dịch tấn công Proskurov (Khmelnitskyi)–Chernovtsy** (từ 4 tháng 3 đến 17 tháng 4 năm 1944) là một trong các trận đánh lớn nhất giữa Hồng quân Liên Xô và Quân đội Đức quốc xã
**Chiến dịch Debrecen** (6 tháng 10 - 28 tháng 10 năm 1944) là một chiến dịch tấn công do Hồng quân Liên Xô và quân đội România tổ chức nhằm tấn công quân đội Đức