✨Chiến dịch Đường 9 – Khe Sanh

Chiến dịch Đường 9 – Khe Sanh

Chiến dịch Đường 9 – Khe Sanh còn được gọi là "Chiến dịch Đường 9" hay "Trận Khe Sanh", là một chiến dịch chính yếu trong chiến cục năm 1968 tại Việt Nam.

Các tài liệu Hoa Kỳ thường ghi nhận trận đánh này diễn ra trong 77 ngày từ tháng 1 đến tháng 4 năm 1968, và cũng chỉ đề cập đến diễn biến trong 77 ngày này, mà theo đó kết thúc với việc Thủy quân lục chiến Hoa Kỳ (TQLC) đóng ở Khe Sanh được Sư đoàn Không Kỵ số 1 cứu viện. Tuy nhiên đối với Quân đội Nhân dân Việt Nam (QĐNDVN) thì đây chỉ là giai đoạn 1 của chiến dịch, giai đoạn 2 kéo dài từ 9 tháng 4 đến 25 tháng 7 nhằm chiếm đóng Khe Sanh, cũng diễn ra rất quyết liệt. Tổng cộng 2 giai đoạn kéo dài 170 ngày, kết thúc khi lính Mỹ cuối cùng rút khỏi Khe Sanh và QĐNDVN hoàn toàn kiểm soát cứ điểm này, đánh dấu sự thất bại của hàng rào điện tử McNamara. Khe Sanh đã trở thành nơi mà lần đầu tiên, quân đội Hoa Kỳ phải rút bỏ một căn cứ quân sự trọng yếu bởi áp lực của đối phương.

Tuy nhiên, trong số những người ở Washington tin tưởng rằng sẽ có một "Điện Biên Phủ" ở Khe Sanh, không phải nhân vật nào cũng nhất quyết rằng Mỹ chắc thắng được ở đó. Theo thư gửi Tổng thống ngày 10 tháng 1 năm 1968, một đại diện cho khuynh hướng ngờ vực này phát biểu: "Điều đáng lo ngại là sự tập trung của bộ đội Việt Nam ở Lào chống lính thủy đánh bộ đồn trú ở Khe Sanh. Tổng thống nên yêu cầu tướng Westmoreland cân nhắc lợi hại về việc rút khỏi Khe Sanh, nhất là khi Đường 9 đã bị cắt… Tổng thống cần được yên tâm rằng, tướng Westmoreland tuyệt đối tự tin về khả năng đương đầu ở Khe Sanh; vì đây chính là cơ hội tốt nhất để một Điện Biên Phủ xảy ra. Mà kẻ địch thì đang tìm kiếm một trận Điện Biên Phủ". Cho dù thông điệp đầu năm 1968 của Tổng thống Mỹ đầy khích lệ, nhưng mối lo ngại về cái dớp "Điện Biên Phủ" vẫn lơ lửng trong phòng bầu dục. Có lần, Johnson quay về phía các trợ lý quân sự và hét to: "Quỷ tha ma bắt cái trận Điện Biên Phủ kia đi!".

Nhà báo, sử gia Mỹ Stanley Karnow kể: "Tổng thống Lyndon Johnson và Washington đã nghĩ rằng Khe Sanh là một Điện Biên Phủ nữa. Và họ đã làm cả sa bàn Khe Sanh ở Washington. Thậm chí, họ còn yêu cầu tướng Westmoreland - Tư lệnh Bộ chỉ huy cố vấn Quân sự Mỹ tại miền Nam Việt Nam - phải ký giấy cam đoan không được để mất Khe Sanh vì đó là danh dự của nước Mỹ". Westmoreland sau đó đã viết rằng: "Washington lo ngại rằng một số từ ngữ nặng nề mà tôi đã nói với báo chí cần phải chấm dứt, trớ trêu thay, câu trả lời những hậu quả đó có thể là: một thảm họa chính trị".

Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam

Tháng 12 năm 1967, Bộ Chính trị Trung ương Đảng Lao động Việt Nam họp đã thông qua Nghị quyết (sau được Trung ương Đảng thông qua và coi là Nghị quyết Trung ương 14): "Đã đến lúc cần động viên những cố gắng lớn nhất của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ở cả hai miền, đưa cuộc chiến tranh cách mạng của ta lên một bước phát triển mới, thực hiện tiến công và nổi dậy đồng loạt để giành thắng lợi quyết định".

Qua nghiên cứu tình hình cách bố trí lực lượng cuối năm 1967, Tổng Quân ủy cùng Bộ Quốc phòng Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã vạch ra kế hoạch chiến lược năm 1968 là: Thực hiện cuộc tiến công đồng loạt vào thành phố, thị xã kết hợp với sự nổi dậy của quần chúng mở đầu cho một cuộc tổng công kích, tổng khởi nghĩa lấy chiến trường chính là Sài Gòn, Nam Bộ, Trị - Thiên - Huế, trọng điểm là Sài Gòn, Huế, Đà Nẵng. Cùng với đó, thực hiện đòn tiến công của bộ đội chủ lực nhằm thu hút, phân tán lực lượng, tiêu diệt địch mà chiến trường chính là hướng Đường 9 – Khe Sanh. Mặt trận Đường 9 – Khe Sanh sẽ thực hiện nhiệm vụ thu hút, giam chân một bộ phận quan trọng lực lượng cơ động chiến lược của địch (chủ yếu là lính Mỹ), góp phần tạo điều kiện thuận lợi cho toàn miền Nam, trước hết là khu vực Trị-Thiên-Huế thực hiện đòn chiến lược tổng tiến công Tết Mậu Thân 1968.

Để thực hiện quyết tâm chiến lược trên, ngày 6 tháng 12 năm 1967, Quân ủy Trung ương và Bộ Quốc phòng đã quyết định thành lập Đảng ủy và Bộ Tư lệnh Chiến dịch Đường 9 – Khe Sanh. Theo quyết định trên, Thiếu tướng Trần Quý Hai Phó tổng tham mưu trưởng làm tư lệnh, Thiếu tướng Lê Quang Đạo, Phó chủ nhiệm Tổng cục Chính trị làm Chính ủy mặt trận.

Quân ủy Trung ương và Bộ tổng tư lệnh, Đảng ủy Bộ tư lệnh Mặt trận Đường 9 - Bắc Quảng Trị ra nghị quyết chỉ rõ: Trong Xuân - Hè năm 1968, toàn mặt trận phải quyết tâm thực hiện tốt nhiệm vụ: tiêu diệt một bộ phận quan trọng sinh lực địch, chủ yếu là Mỹ. Khi có điều kiện thì phá vỡ một phần hệ thống phòng ngự của địch ở đường 9 và phát triển vào Trị - Thiên - Huế. Thu hút, giam chân, tiêu diệt lực lượng Mỹ - ngụy ra Đường 9 càng nhiều càng tốt.

Đối với phía Mỹ, cho đến nhiều thập niên sau khi Chiến tranh Việt Nam kết thúc, mục đích thực sự của Quân Bắc Việt trong Chiến dịch Đường 9 – Khe Sanh vẫn còn là một điều bí ẩn. Tướng Westmoreland vẫn tin mục đích chính của QĐNDVN là chiếm giữ Khe Sanh và tạo nên một "trận Điện Biên Phủ mới". Theo đó thì đây chính là nguyên nhân vì sao QĐNDVN tập trung một lực lượng rất lớn cho trận đánh này (4 sư đoàn, trong đó 2 sư đoàn trực tiếp bao vây Khe Sanh). Nhiều ý kiến khác lại cho rằng lực lượng quanh Khe Sanh đơn giản chỉ để phục vụ mục đích phòng thủ cục bộ tại Khu phi quân sự vĩ tuyến 17, hoặc để dự phòng trong trường hợp một cuộc tấn công ra miền Bắc của quân Mỹ tương tự như Trận Inchon trong Chiến tranh Triều Tiên. Theo John Prados và Ray Stubbe thì "hoặc có thể cuộc Tổng tiến công Tết là một đòn đánh lạc hướng nhằm phục vụ cho sự chuẩn bị của Quân Bắc Việt cho một trận đánh quyết định tại Khe Sanh, hoặc Khe Sanh là một đòn đánh lạc hướng để thu hút sự chú ý của Westmoreland trong những ngày trước Tết".

Sau này, việc đối chiếu với các tài liệu của QĐNDVN đã cho thấy vế thứ hai là chuẩn xác, có nghĩa là Westmoreland thực sự đã bị đối phương dùng kế nghi binh đánh lạc hướng. Trong cuộc phỏng vấn vào tháng 9 năm 1994 của 1 đại tá Hoa Kỳ, đại tướng Võ Nguyên Giáp cho biết: ông biết khả năng không quân của Mỹ là cực mạnh khiến việc lặp lại Điện Biên Phủ là không thể, mục tiêu thực tế mà ông theo đuổi là gây cho quân Mỹ thương vong lớn khiến họ phải sa lầy, nhụt chí và cuối cùng phải tự rút khỏi đó. Thực tế ông đã đạt được mục tiêu đó sau 6 tháng giao chiến khiến quân Mỹ liên tục bị tiêu hao sinh mạng ở mức độ cao.

Binh lực các bên

Quân đội Nhân dân Việt Nam

Lực lượng QĐNDVN tham gia chiến dịch là:

  • Các Sư đoàn bộ binh 304, 320, 324B và 325 (từ tháng 5, Sư đoàn 308 và Trung đoàn 246 vào thay cho các Sư đoàn 324B và 325 đi chiến trường khác),
  • Trung đoàn 270 (Vĩnh Linh) và 2 tiểu đoàn bộ đội địa phương QK4 đồn trú ở tỉnh Quảng Trị, 1 đoàn và 5 đại đội đặc công.
  • 4 trung đoàn pháo binh (16, 45, 84 và 204, sau tăng thêm trung đoàn 675). Toàn chiến dịch đã huy động 4 khẩu pháo 76mm, 8 khẩu pháo 85mm, 12 khẩu pháo 100mm, 8 khẩu pháo 105mm, 36 khẩu pháo 122mm, 16 khẩu pháo 130mm, 8 khẩu pháo 152mm, 120 ống phóng rốc-két vác vai DKB và 9 xe phóng BM-14.
  • 3 trung đoàn pháo phòng không (128, 282 và 241).
  • 1 tiểu đoàn tăng - thiết giáp (tiểu đoàn 198 thuộc Trung đoàn 203), trang bị 30 xe tăng hạng nhẹ PT-76).
  • 1 tiểu đoàn thông tin, 1 tiểu đoàn trinh sát, 1 tiểu đoàn hoá học, 1 trung đoàn và 2 tiểu đoàn công binh, 1 đại đội súng phun lửa, 6 tiểu đoàn vận tải và lực lượng vũ trang các huyện Gio Linh, Cam Lộ, Hướng Hóa.

Về phương thức tác chiến, điểm nổi bật là chuyển từ tác chiến chủ yếu bằng bộ binh sang tác chiến hiệp đồng binh chủng, lần đầu tiên sử dụng nhiều loại vũ khí hạng nặng, nhất là pháo binh và xe tăng; đặc biệt là sử dụng lực lượng xe tăng bí mật, bất ngờ tiến công diệt địch.

Là chiến dịch hiệp đồng binh chủng quy mô lớn nên ngoài lực lượng bộ binh, chiến dịch đã sử dụng 136 khẩu pháo xe kéo hoặc súng cối từ cỡ 100mm trở lên; 150 khẩu pháo cao xạ 37mm và 57mm; 30 xe tăng PT-76 và 157 xe kéo bánh xích; 821 xe ô tô. Trong giai đoạn chuẩn bị, hậu cần chiến dịch đã bảo dưỡng, sửa chữa nâng cao hệ số đảm bảo kỹ thuật sẵn sàng chiến đấu, cụ thể: Pháo mặt đất từ 87% lên 96%; pháo cao xạ từ 90% lên 98%; xe cơ giới các loại từ 74% lên 92%.

Xe tăng [[PT-76 số hiệu 268 từng tham gia chiến dịch (nay đặt tại tượng đài chiến thắng Làng Vây)]] Việc lần đầu tiên đưa xe tăng vào tác chiến trên địa hình rừng núi là một kỳ công. Tiểu đoàn 198 xuất phát từ huyện Lương Sơn, tỉnh Hòa Bình ngày 15 tháng 10 năm 1967, hành quân vào Nam theo đường Hồ Chí Minh. Qua 50 ngày hành quân, chủ yếu là di chuyển ban đêm, tiểu đoàn đã đưa 30 xe tăng PT-76 đi vòng vèo qua hơn 1.000 km, qua năm con sông lớn, lội 250 ngầm, từng bị không quân Mỹ đánh vào đội hình 15 lần. Nhiều linh kiện, đạn dược của xe tăng được gùi cõng bằng những đôi chân trần của dân công, được đóng bè tre nứa vượt sông suối để bảo đảm bí mật, bất ngờ. Khi vượt sông Sê Pôn, sông Sê Păng Hiêng, mỗi lần phải vận động trên 300 người dân để làm đường ngầm cho xe vượt sông, chặt nứa kết bè vận chuyển nhu yếu phẩm, xích xe tăng. Xe tăng đi tới đâu là quân dân đi theo tới đó để xóa dấu bánh xích nhằm không để cho địch phát hiện. Hàng trăm ống tre kết thành giàn dựng phía trên xe tăng, tre rỗng ở giữa góp phần tiêu hao nhiệt lượng do máy móc phát ra khiến máy bay không thể sử dụng phương tiện hiện đại để dò, cuộc hành quân diễn ra 2 tháng nhưng quân Mỹ hoàn toàn không phát hiện và bảo đảm an toàn tuyệt đối. Đến cuối tháng 11, tiểu đoàn đã vào đến vị trí tập kết ở Nậm Khang, phía nam đèo Văng Mu, cách cứ điểm Huội San khoảng 70 km về phía tây. Khi chiến dịch bắt đầu, các tướng lĩnh Mỹ hoàn toàn bất ngờ khi biết quân Giải phóng có xe tăng tham chiến

Đây là chiến dịch do Bộ Quốc phòng mở và trực tiếp chỉ huy, tổ chức tiến công trên hai hướng: Hướng Tây là hướng chủ yếu, hướng Đông là hướng quan trọng. Nhu cầu bảo đảm cho chiến dịch khoảng 26.700 tấn hàng các loại. Để bảo đảm kịp thời vật chất cho các lực lượng, ngay sau khi nhận lệnh, lực lượng vận tải quân sự chiến lược và Mặt trận B5 đã khẩn trương vận chuyển chuẩn bị cho Chiến dịch. Đến ngày 20/1/1968, trên hướng Tây đã tiếp nhận, dự trữ 1.631 tấn gạo, 108 tấn thực phẩm, 640 tấn đạn và 50 tấn hàng khác. Trên hướng Đông, Hậu cần Chiến dịch đã tiếp nhận, dự trữ 2.137 tấn gạo, 238 tấn thực phẩm, 2.320 tấn đạn, 300 tấn xăng dầu, 200 tấn hàng khác. Toàn Chiến dịch đã chuẩn bị được 7.624 tấn vật chất (đạt 81,1% kế hoạch), đủ khả năng bảo đảm cho các đơn vị tác chiến.

Để bảo đảm đầy đủ, kịp thời nhu cầu vật chất hậu cần, vũ khí trang bị, đạn dược cho chiến dịch, trên cả hai hướng đông và tây có từ 4 đến 6 tiểu đoàn và 11 đại đội vận tải bộ; từ 7 đến 11 đội điều trị; từ 4 đến 6 trạm sửa chữa xe kỹ thuật; 4 tiểu đoàn dân công của các tỉnh: Quảng Bình, Hà Tĩnh, Nghệ An. Tổng lực lượng làm công tác bảo đảm hậu cần lúc cao điểm lên tới 7.624 cán bộ, chiến sĩ và dân công. Đến cuối tháng 6-1968, các lực lượng vận tải đã tổ chức vận chuyển dự trữ được 22.253 tấn hàng, trong khi tiêu thụ toàn chiến dịch khoảng 15.923 tấn, chiếm khoảng 71% tổng dự trữ. Với khối lượng vật chất như vậy, bộ đội hậu cần đã đáp ứng được đầy đủ và kịp thời mọi nhu cầu vật chất hậu cần cho chiến dịch; bảo đảm tốt cho đơn vị, không vì thiếu vật chất mà chiến dịch phải tự hoãn. Quân y chiến dịch đã tăng cường khả năng phẫu thuật lên tuyến trước. Các đội điều trị đã triển khai thành 2 tuyến gồm: 3 đội tiếp cận các tiểu đoàn quân y sư đoàn; 4-8 đội triển khai ở tuyến sau tiếp tục cứu chữa thương binh. Quá trình Chiến dịch đã vận chuyển nhanh thương binh về các tuyến quân y; chữa khỏi, trả về đơn vị 6.744 thương binh, ngoài ra có 5.560 binh sĩ bị ốm (tiêu chảy, sốt rét, bệnh ngoài da, cảm sốt...) đã được cấp phát thuốc chữa trị.

Tổng cộng lực lượng trên toàn tuyến có khoảng 40.000 quân (trong quá trình chiến dịch được chi viện thêm khoảng 17.500 quân). Trong đó Sư đoàn 304 và Sư đoàn 325 (tổng cộng khoảng 17.200 quân) thực hiện bao vây Khe Sanh, còn các Sư đoàn 320 và 324 (tổng cộng khoảng 16.900 quân) thực hiện cắt Đường 9, chặn quân tiếp viện của Mỹ. Các lực lượng vũ trang địa phương, các đơn vị đặc công thực hiện đánh tập kích diệt các đoàn vận tải, tiêu hao sinh lực địch.

Trong Chiến dịch này, QĐNDVN đã sử dụng lực lượng lính bắn tỉa số lượng ít (cả mặt trận B-5 của QĐNDVN vào năm 1967 chỉ có hơn 100 lính bắn tỉa, số này còn bị hao hụt do hoạt động càn quét của Mỹ, số lượng thực tế tham chiến ở Khe Sanh chỉ khoảng chưa đến 10 người) nhưng hiệu quả cao, gây nhiều thiệt hại và sự hoang mang cho lính Mỹ. Phần lớn lực lượng này mới ngoài 20 tuổi với 03 tháng huấn luyện. Vũ khí trang bị chủ yếu là K44 có lắp kính ngắm quang học được sử dụng từ thời Thế chiến thứ hai. Tuy súng có nhược điểm là độ giật rất mạnh có thể khiến chấn thương bả vai của xạ thủ nhưng đạn có độ xuyên lớn, sức công phá mạnh. Để tiêu diệt lực lượng bắn tỉa này, phía Mỹ sử dụng bom napalm để hủy diệt các ngọn đồi cỏ cao gianh. Tuy nhiên, lực lượng bắn tỉa QĐNDVN cũng đổi chiến thuật sang đào hầm ngụy trang.

Thủy quân lục chiến Hoa Kỳ

Lực lượng của Hoa Kỳ trong trận Khe Sanh chủ yếu thuộc Quân đoàn tác chiến thủy - bộ III Thủy quân lục chiến (III Marine Amphibious Force). Có khoảng 45.000 quân trên toàn tuyến (trong đó có 28.000 quân Mỹ), gồm 3 trung đoàn tăng cường thuộc Sư đoàn Thủy quân lục chiến số 3; 4 tiểu đoàn tàu tuần tra và vận tải (5, 10, 53 và 301), 9 tiểu đoàn pháo binh, 3 tiểu đoàn và 1 đại đội cơ giới, trong quá trình phòng ngự được sự chi viện mạnh của không quân, pháo binh ở phía sau.

Riêng ở Khe Sanh, Mỹ có 3 tiểu đoàn thuộc Trung đoàn 26, 1 tiểu đoàn thuộc Trung đoàn 9 TQLC Mỹ, Sở chỉ huy tiền phương số 3 (Forward Operating Base 3) của Lục quân Hoa Kỳ với quân số 5.880 lính, 1 tiểu đoàn pháo 155 mm, 1 đại đội xe tăng, 1 đại đội chống tăng, Tiểu đoàn 37 Biệt động quân VNCH, 1 đội thám báo 300 lính, tổng cộng 6.680 lính.

trái|Trung tâm radar chỉ huy của Mỹ ở Khe Sanh

Từ tháng 4 khi Mỹ mở Chiến dịch Pegasus huy động thêm Sư đoàn Không kỵ số 1 của Mỹ, Trung đoàn 1 và Trung đoàn 26 TQLC Mĩ, Chiến đoàn dù 3 VNCH cùng nhiều đơn vị Biệt động quân và bảo an, tổng cộng 20.000 quân yểm trợ bởi 300 trực thăng, 148 khẩu pháo.

Bên cạnh đó, Chiến dịch Niagara và Chiến dịch Arc Light để hỗ trợ không quân cho Khe Sanh cũng thu hút một lực lượng hùng hậu: hơn 1.000 trực thăng (nhiều hơn số trực thăng chiến đấu của 3 nước Anh, Pháp, Đức cộng lại), không quân Mỹ đã xuất kích 24.000 lần chiếc kể cả máy bay chiến lược B-52, trút hơn 114.000 tấn bom các loại (gấp 7 lần quả bom nguyên tử Mỹ ném xuống Hiroshima và bằng lượng bom ném xuống Nhật suốt cả năm 1945).

Bảo đảm kỹ thuật - hậu cần cho Khe Sanh, bao gồm tải thương bằng trực thăng (MediVac); và phương thức tiếp tế LAPES (Low Attiude Parachute Extraction System - thả dù ở độ cao tầm thấp) thực hiện bởi một cầu hàng không hiện đại, quy mô khổng lồ trên các máy bay vận tải C-130. Mỹ có thể đáp ứng cho Khe Sanh tới 600 tấn hàng tiếp tế/ngày (trong khi Pháp chỉ cung cấp được cho Điện Biên Phủ 100 tấn). Từ 19 đến 25 tháng 1, một hệ thống cảm biến điện tử hiện đại mang bí hiệu Muscle Shoals cũng được triển khai quanh Khe Sanh để hỗ trợ cho các hệ thống trinh sát đường không và trên bộ.

Quân đội Hoa Kỳ ở Khe Sanh được yểm trợ hỏa lực bởi những vũ khí tân kỳ nhất thời đó. Các tổ hợp radar phản pháo mới như SKY SPOT; 16 pháo tự hành "Vua Chiến trường" M107 175 mm bố trí tại Trại Carroll ở gần Cam Lộ và trận địa trên đỉnh đồi Rockpile, 18 lựu pháo 105 mm, 8 pháo 155 mm tại các căn cứ pháo binh tại Quảng Trị, pháo yểm trợ tầm trung từ trận địa bắc đèo Hải Vân… Được đặc biệt tin tưởng còn có đạn pháo 105 mm COFAM (Combined Ordinance Fragmentary Antipersonnel Munition) nổ từng tràng trên cao, văng vô vàn mảnh bao phủ một tầm sát thương rộng lớn, giống như bom bi; cũng như đạn pháo "tổ ong" (flechettes), khi nổ bắn ra muôn vàn mũi tên thép trong một hình nón 30 độ, rất hữu hiệu chống bộ binh…

Phía Mỹ cũng sử dụng chiến tranh tâm lý ở Khe Sanh với các hoạt động chiêu hồi, rải truyền đơn với hình ảnh một bữa cơm gia đình và có một dấu hỏi hàm ý thiếu ai trong bữa cơm đó để gây nỗi nhớ nhà cho người lính Quân Giải phóng.

Diễn biến

Bộ chỉ huy QĐNDVN, tham chiến dưới danh nghĩa Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam (QGP), chia chiến dịch ra làm 4 giai đoạn:

  • Đợt 1 (20 tháng 1 - 7 tháng 2), QGP tiến công quận lỵ Hướng Hoá và cứ điểm Huội San (xem trận Huội San, 24 tháng 1 năm 1968), diệt cứ điểm Làng Vây (xem trận Làng Vây, 6 và 7 tháng 2 năm 1968), làm chủ đoạn đường 9 từ Cà Lu đến biên giới Việt - Lào.
  • Đợt 2 (8 tháng 2 - 31 tháng 3): phát triển lên vây lấn và pháo kích căn cứ Khe Sanh suốt 50 ngày đêm; bao vây Cồn Tiên, đánh một số trận ở hướng Đông Quốc lộ 1 để ngăn chặn lực lượng Mỹ tới ứng cứu cho Khe Sanh.
  • Đợt 3 (1 tháng 4 - 30 tháng 4): đánh quân Mỹ ứng cứu trong Chiến dịch Pegasus, giải toả, giữ vững các khu vực làng Khoai, Cu Bốc, các cao điểm 689 và 622, triệt phá giao thông trên Đường 9.
  • Đợt 4 (8 tháng 5 - 15 tháng 7): khôi phục thế vây lấn căn cứ Khe Sanh, chặn đánh quân Mỹ rút chạy khỏi Khe Sanh.

Đợt 1

Trận đánh mở màn nổ ra ngày 20 tháng 1 năm 1968, xảy ra trên Cao điểm 881-Nam (Có hai ngọn đồi mang tên "881", một ngọn nằm về hướng Bắc của Khe Sanh, và ngọn kia nằm về hướng Nam). Ngọn đồi này được phòng thủ bởi một cánh quân của Tiểu đoàn 1/3 TQLC Hoa Kỳ, gồm Ban chỉ huy của Đại đội M, hai trung đội bảo vệ, và toàn thể lực lượng của Đại đội K. Rạng sáng 20 tháng 1, Đại đội I Tiểu đoàn 3/26 TQLC Mỹ bị QGP phục kích ở gần 881 Nam, chỉ trong ít phút đã có hơn 15 lính Mỹ chết, 21 bị thương và 19 mất tích (ngày hôm sau tìm thấy xác). Các căn cứ hỏa lực Mỹ quanh vùng đáp trả, bom napalm từ phi cơ không yểm ném xuống ngăn cản các đợt xung phong của QGP. Toán TQLC Mỹ bị thiệt hại nặng, phải rút lui về vị trí cũ trên Cao điểm 881-Nam.

Trong khi ấy, hai trung đội TQLC của Đại đội M Tiểu đoàn 3/26 được trực thăng vận đến Cao điểm 881-Nam. Toán quân này chuẩn bị hợp sức với Đại đội I Tiểu đoàn 3/26 để ngày hôm sau mở cuộc lục soát về hướng Cao điểm 881-Bắc. Cuộc hành quân này đưa đến một vụ đụng độ ác liệt dưới chân Cao điểm 881-Bắc với Tiểu đoàn 6, Trung đoàn 95C QGP. Quân Mỹ có ưu thế hỏa lực áp đảo nhờ có trực thăng chiến đấu yểm trợ và đẩy lùi được đợt tấn công. Kết thúc trận đánh, Mỹ thiệt hại 7 chết và 35 bị thương, phía QGP có 15 người chết và 95 bị thương. Mô tả cảnh tượng trên, nhà báo Mỹ Micheal McClear viết: "Rạng sáng ngày 21 tháng 1 năm 1968, pháo tầm xa của Bắc Việt Nam mở màn cuộc bao vây ở Khe Sanh với sự chính xác tai hại, 300 quả đạn đã làm 18 lính Mỹ chết, 40 bị thương, những quả đạn pháo ấy như rơi ngay vào Oa-sinh-tơn".

Ngày 22 tháng 1 năm 1968, tình hình Khe Sanh nguy ngập bởi kho đạn 1.500 tấn, chiếm phần lớn dự trữ đã bị phá hủy. Tiểu đoàn 1 Trung đoàn 9 TQLC Hoa Kỳ cùng máy bay vận tải chở đạn dược khẩn cấp đến tăng cường cho Khe Sanh.

Tiếp tục thực hiện ý định chiến dịch, ngày 23 tháng 1, Bộ Tư lệnh Mặt trận Đường 9 – Khe Sanh hạ lệnh tiến công tiêu diệt cứ điểm Huội San nằm sát biên giới Việt - Lào. Huội San là khu vực phòng ngự của quân Hoàng gia Lào (6 đại đội) và một số trung đội dân vệ, tổng cộng gần 1.000 quân tổ chức thành 12 cứ điểm nhỏ, trung tâm là cứ điểm Tà Mây. Để đảm bảo đánh chắc thắng, ngoài lực lượng Trung đoàn 24 Sư đoàn 304, Bộ Tư lệnh đã tăng cường thêm 1 đại đội xe tăng lội nước (11 xe PT-76) 1 đại đội công binh, một số trung đội địa phương và một số cán bộ địch vận của Pathet Lào.

Lúc 19 giờ ngày 23 tháng 1, khi hỏa lực pháo binh bắn chuẩn bị, các mũi tiến công của bộ binh và xe tăng QGP bắt đầu xuất phát xung phong. Được xe tăng chi viện, các mũi tiến công của bộ binh nhanh chóng vượt qua cửa mở, thọc sâu, chia cắt địch, diệt sở chỉ huy, chiếm các mục tiêu và dập tắt mọi sự chống cự của đơn vị Quân đội Hoàng gia Lào đồn trú. Lúc 8 giờ sáng cùng ngày, QGP đã làm chủ căn cứ Tà Mây cùng hệ thống phòng ngự Huội San. Phần lớn hơn 800 quân Lào chốt giữ ở đây đều bị hạ và bắt giữ, chỉ một bộ phận nhỏ (khoảng 350 lính) chạy thoát về Làng Vây. QGP thiệt hại 29 chết và 54 bị thương.

Sau khi tiêu diệt các căn cứ Hướng Hóa, Huội San, đánh thiệt hại lực lượng Mỹ trên Đường 9 và chi khu Cam Lộ, Bộ Tổng Tham mưu QDNDVN đã gửi công điện khẩn cho Mặt trận Đường 9 - Bắc Quảng Trị: "Phải diệt căn cứ Làng Vây trong ngày 6 tháng 2 để phối hợp tác chiến chung với toàn Miền".

trái|Sơ đồ trận Làng Vây: [[Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam tấn công]]

Để đánh chắc thắng Làng Vây, Bộ Tư lệnh Mặt trận chủ trương dùng một lực lượng mạnh áp đảo gồm Trung đoàn 24 Sư đoàn 304, Tiểu đoàn 3 (Sư đoàn 325), Trung đoàn công binh 7 (thiếu), 2 đại đội xe tăng với 14 xe PT-76, 2 đại đội đặc công. Đến 3 giờ 30 phút ngày 7 tháng 2, cả ba hướng đã cơ bản hoàn thành việc đánh chiếm được các mục tiêu theo phân công. Đến 10 giờ trưa ngày 7 tháng 2, trận Làng Vây kết thúc, trong số hơn 900 quân biệt kích phòng ngự Làng Vây, 316 lính bị chết và 253 bị bắt sống, chỉ có 255 thoát về được Khe Sanh (trong đó có 75 bị thương). QGP diệt gọn một cứ điểm quan trọng án ngữ trên đường 9, đẩy cụm cứ điểm Tà Cơn vào thế bị cô lập hoàn toàn giữa lòng chảo thung lũng Khe Sanh.

Sức ép của QGP ở Đường 9 – Khe Sanh ngày càng tăng đã làm cho Bộ Tư lệnh quân Mỹ ở Nam Việt Nam thực sự lo ngại. Tướng Westmoreland đã từ Sài Gòn ra Đà Nẵng để gặp các tướng lĩnh chỉ huy các sư đoàn TQLC và Lục quân tại Vùng I chiến thuật bàn cách đối phó. Cùng với việc tăng quân, Mỹ thiết lập một Sở chỉ huy quân sự Mỹ (MACVFOARD) tại Phú Bài để điều khiển lực lượng đánh trả các cuộc tiến công của QGP trên Đường 9 – Khe Sanh. Vì vậy số lượng quân chiến đấu của Mỹ ở đây đã lên tới 43 tiểu đoàn chủ lực (25 tiểu đoàn Mỹ, 18 tiểu đoàn QLVNCH) với tổng quân số 69.490 lính (trong đó có 40.800 lính Mỹ).

Đến đây, Mặt trận Đường 9 – Khe Sanh đã hoàn thành được nhiệm vụ thu hút, giam chân một bộ phận quan trọng lực lượng cơ động chiến lược của Mỹ, góp phần tạo điều kiện thuận lợi cho toàn Miền thực hiện đòn chiến lược tổng tấn công Tết Mậu Thân. Tiêu biểu như ở Huế, việc quân Mỹ bị điều khỏi thành phố đã tạo điều kiện cho QGP nhanh chóng kiểm soát 90% thành phố chỉ trong 2 ngày. Giai đoạn 1 chiến dịch đến đây cũng kết thúc.

Đợt 2

Sau các trận đánh ở Động Tri, Huội San, Hướng Hóa, Cam Lộ... thất bại ở Làng Vây đã đẩy cụm cứ điểm Khe Sanh của Mỹ vào thế bị cô lập hoàn toàn giữa lòng chảo thung lũng Khe Sanh. Để bảo vệ Khe Sanh, ngoài lực lượng hỏa lực bố trí trong căn cứ, Mỹ còn dùng pháo binh hỗn hợp cùng máy bay các loại kể cả B-52 chi viện tối đa (có ngày pháo binh bắn tới 15.000 quả, máy bay chiến thuật oanh tạc tới 300 lần xung quanh căn cứ mỗi ngày).

Ngày 8 tháng 2, để đảm bảo cho việc phục vụ vây lấn ở hướng tây chắc chắn thắng lợi, Bộ Tư lệnh Mặt trận đã điện cho Sư đoàn 304, Sư đoàn 325 phải thực hiện tốt việc nhanh chóng chuẩn bị chu đáo mọi yếu tố cần thiết để đưa lực lượng vào thực hành vây lấn ngay. Thực hiện chỉ thị của Bộ tư lệnh Mặt trận, bằng sự nỗ lực rất cao của các chiến sĩ, đến ngày 10 tháng 2 năm 1968, hai Trung đoàn 9 và 66 của Sư đoàn 304, các Trung đoàn 95C và 101D thuộc Sư đoàn 325C QGP cùng bộ đội địa phương Hướng Hóa đã xây dựng được 13 trận địa vây lấn bao quanh căn cứ Khe Sanh. Chiến thuật vây lấn từng làm nên thắng lợi của QĐNDVN tại trận Điện Biên Phủ sẽ được sử dụng. nhỏ|Pháo [[M107 được quân Mỹ mệnh danh là Vua chiến trường vì tầm bắn xa và uy lực mạnh.]]

Không quân Mỹ ra sức tìm cách tiêu diệt các vị trí đặt pháo hạng nặng của QGP. Việt Nam đối phó bằng cách phân tán vị trí của các khẩu đội pháo (một số vị trí cách nhau 800 mét, mặc dù 100-300 mét là điển hình hơn), có sẵn ụ trú ẩn để kéo pháo vào sau khi bắn, xung quanh có các vị trí súng phòng không. QGP đã đặt một lượng lớn pháo tầm ngắn (105mm) và súng cối trong bán kính 2 dặm quanh căn cứ Khe Sanh, phần lớn rocket được phóng từ cao điểm 881 ở phía Bắc. Các khẩu trọng pháo (122 hoặc 130mm) được đặt xa hơn, trên đồi 305 và trong các hang động cũng như các dốc đá của núi Cơ Rốc, nằm bên kia biên giới Lào. Trong khi chúng có thể bắn quân Mỹ, pháo của TQLC (chủ yếu là loại 105 ly) lại không có đủ tầm để đáp trả, kể cả các khẩu trọng pháo 175mm đặt ở Tà Cơn và Cam Lộ cũng không thể bắn đến các khẩu trọng pháo của QGP. Quân Mỹ vẫn có thể dựa vào không quân để tấn công pháo binh của QGP, tuy nhiên việc triển khai trận địa pháo của QGP cực kỳ bí mật và được ngụy trang kĩ lưỡng, nhờ vậy nên trong suốt chiến dịch, không quân Mỹ cũng không thể dập tắt được hỏa lực pháo binh QGP. Toàn chiến dịch, hai trung đoàn pháo binh của QGP tham gia chiến dịch tiêu hao 185 người thương vong, các đơn vị pháo phòng không có thương vong 88 người. Tính tới đầu tháng 4, QGP đã sử dụng 9.423 viên đạn pháo và súng cối, trong đó có 4.040 viên đạn cối 82 ly, 3.781 viên đạn pháo 122 ly và hơn 700 rocket Không quân Mỹ phải bố trí các phi vụ ném bom yểm trợ cho đội trực thăng thì thiệt hại mới giảm đi.

nhỏ|trái|Super Gaggle: Trực thăng [[CH-46 Sea Knight chở hàng tiếp tế (trên) và A-4 Skyhawk hỗ trợ không kích]] Để đẩy lùi lực lượng QGP ra khỏi Khe Sanh, Mỹ đã sử dụng hỏa lực pháo binh và không quân không hạn chế. Tính từ ngày 21 tháng 1 đến ngày 3 tháng 3 năm 1968, Không quân Mỹ đã xuất kích 24.000 lần chiếc kể cả máy bay chiến lược B-52, trút 114.810 tấn bom các loại, bằng lượng bom Mỹ ném xuống toàn nước Nhật Bản trong cả năm 1945. Trung bình mỗi ngày Mỹ lại huy động 32 phi vụ B-52 và 200 phi vụ cường kích, rải xuống 1.800 tấn bom. Đồng thời pháo binh từ trong căn cứ, từ Trại Carroll và Rockpile bắn 159.000 quả đạn lên một khu vực chỉ rộng 32 km² quanh Khe Sanh, tạo nên những trận bão lửa dữ dội chưa từng thấy trong lịch sử chiến tranh.

Đối phó với hỏa lực cực mạnh của Mỹ, QGP đã dùng thứ vũ khí thô sơ nhưng hiệu quả nhất: các chiến hào, vốn từng được kiểm nghiệm qua trận Điện Biên Phủ. Theo tính toán của Mỹ, cần tới 1.000 viên đạn pháo chỉ để phá hủy 30 mét đường hào cùng một vài binh sĩ trong đó. Tuy nhiên trước sức mạnh hỏa lực áp đảo của đối phương, vốn được đánh giá là mạnh hơn gấp hàng chục lần so với quân Pháp ở Điện Biên Phủ, thiệt hại của QGP cũng tăng dần. Mỗi ngày QGP phải sửa, đào mới 40-50% chiến hào, ngày cao điểm đánh phá có hướng, mũi phải sửa chữa đến 70% công sự trận địa. Cùng với thiệt hại về công sự, vật chất kỹ thuật, số cán bộ chiến sĩ hy sinh hoặc bị thương lên tới gần 200 người mỗi tuần. Tính đến giữa tháng 3 năm 1968, tổng số bộ đội bị thương từ đầu chiến dịch là 1.436 người. Trong số đó, 484 người bị thương nhẹ được trả về đơn vị sau khi điều trị, 396 người bị thương nặng thì được đưa ra miền Bắc điều trị

Kết hợp với vây lấn, pháo binh QGP liên tục pháo kích tiêu hao sinh lực của quân Mỹ. Đỉnh điểm là ngày 23 tháng 2, pháo kích làm nổ tung 1 kho đạn, khiến 12 lính Mỹ chết và 51 bị thương. Nhớ lại khoảng thời gian bị vây hãm tại Khe Sanh, cựu binh John Scott Jones vẫn không thôi bị ám ảnh: "Chúng tôi đã ở dưới những căn hầm trú ẩn nhỏ, có rất nhiều bom đạn thả xuống, rất nhiều người chết và bị thương. Đó là khoảng thời gian rất khó khăn. Chúng tôi không có nước uống và thiếu lương thực trầm trọng, chỉ cố gắng cầm cự để mong sống sót"

Sau 2 tháng bị vây, số phận của hơn 6.000 lính Mỹ trong căn cứ Khe Sanh vô cùng khốn đốn; nhưng lúc này giao tranh ác liệt vẫn đang diễn ra trên khắp chiến trường Nam Việt Nam, nên Mỹ vẫn chưa thể đưa quân giải tỏa cho Khe Sanh. Ngày 24 tháng 2, lực lượng Hoa Kỳ khởi động Chiến dịch Sierra, thường được gọi là Chiến dịch Super Gaggle, vì đã sử dụng một lượng lớn máy bay. Chiến dịch này liên quan tới việc tấn công các vị trí đặt pháo của QGP xung quanh Khe Sanh bằng khí ga, khói, đạn pháo công suất lớn và bom napalm, cho phép các máy bay trực thăng Sea Knight bay vào các cứ điểm ở trên đỉnh đồi và thả xuống các loại hàng tiếp viện..

Do những hoạt động tích cực của QGP nên cuộc hành quân rút khỏi Khe Sanh của Mỹ phải kéo dài gần 20 ngày, đến ngày 15 tháng 7 năm 1968 quân Mỹ mới rút hết quân về tập trung ở Cà Lu - Tân Lâm. QGP đã làm chủ Đường 9 đoạn từ Lao Bảo đến sát Cà Lu (trừ cứ điểm Động Tri), kiểm soát toàn bộ khu vực Khe Sanh - một địa bàn chiến lược quan trọng ở phía tây Đường 9. Quân nhân Mỹ cuối cùng rút khỏi khu vực vào 25 tháng 7, trước đó ngày 9 tháng 7 năm 1968, lá cờ Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam đã được cắm trên cột cờ sân bay Tà Cơn.

Trong gần 20 ngày chặn đánh quân Mỹ rút lui, E246 + một phần của sư đoàn 308 đã phối hợp với lực lượng vũ trang tại chỗ, được ghi nhận loại khỏi vòng chiến đấu 1.333 lính Mỹ, bắn rơi, phá hủy 34 máy bay, 5 khẩu pháo, súng cối và 5 xe vận tải.

Điện Biên Phủ thứ hai

Sở dĩ Chiến dịch Đường 9 – Khe Sanh được mệnh danh là "Trận Điện Biên Phủ thứ hai" vì giữa hai trận đánh này có những điểm tương đồng:

  • Thứ nhất, cả Khe Sanh và Điện Biên Phủ đều tiếp giáp với biên giới Việt - Lào. Khe Sanh cách biên giới Việt - Lào chừng 20km, còn Điện Biên Phủ chỉ cách khoảng 8km.
  • Điểm tương đồng thứ hai là địa hình đều hiểm trở, khó tiếp cận. Chỉ có thể tiếp cận Điện Biên Phủ bằng đường không. Đối với Khe Sanh, ngoài việc tiếp cận bằng đường không, còn có thêm cách tiếp cận bằng đường bộ thông qua Đường 9.
  • Về tính chất của cả hai trận đánh lúc bấy giờ đã trở thành tâm điểm chú ý của báo chí và các cơ quan công luận khác. Đối với quân địch cả hai trận đều có bài học giống nhau, đó là sự thất bại.

Chính phủ Mỹ tuyên bố với báo chí và truyền thông là QGP đã chịu thương vong tới 10-15 ngàn người chết để nêu bật "chiến thắng" mà họ tuyên bố. Tuy nhiên, trong báo cáo mật mà MACV trình tướng Westmoreland (được giải mật sau này), quân đội Mỹ ước tính con số này chỉ khoảng 5.550, nghĩa là con số mà chính phủ Mỹ công bố cho dư luận đã bị phóng đại một cách cố tình

Không giống như một số trận đánh khác, Khe Sanh đã chiếm được chú ý của truyền thông đại chúng và công luận ở Mỹ. 25% thời lượng phim chiếu trên chương trình truyền hình buổi tối trong tháng 2 và tháng 3 năm 1968 tường thuật tình hình ở Khe Sanh. Riêng kênh CBS, tỷ lệ này là 50%. Viện Gallup đưa ra số liệu, cứ 5 người thì 1 vừa chuyển từ lập trường ủng hộ sang chống chiến tranh trong khoảng cuối tháng 2, đầu tháng 3. Vì thế, "cách tốt nhất để làm cho Khe Sanh khỏi gây ảnh hưởng xấu đối với công chúng Mỹ là bỏ căn cứ này". Vậy là, Khe Sanh đã trở thành nơi mà lần đầu tiên, Hoa Kỳ phải rút bỏ một căn cứ quân sự trọng yếu bởi áp lực của đối phương. Hãng Reuter bình luận: "Khe Sanh được ghi vào lịch sử cuộc chiến tranh của Mỹ ở Nam Việt Nam như một nơi phải trả với giá đắt nhất bằng máu...".

Cùng với tác động của chiến dịch Tết Mậu Thân, nhân dân Mỹ yêu cầu rút quân Mỹ về nước. Do đó, dù các tướng lĩnh Mỹ muốn tiếp tục bám trụ và thậm chí mở rộng căn cứ sang Lào, câu trả lời của Quốc hội là "Không".

Với Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam

Chính trị

Trong khi Hội nghị Paris về Việt Nam đang gặp bế tắc do phía Hoa Kỳ liên tục trì hoãn đàm phán thì chiến thắng tại Khe Sanh kết hợp với Tổng tấn công và nổi dậy xuân Mậu Thân 1968 đã giúp phía Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam đảo ngược tình thế, buộc Hoa Kỳ ngồi vào bàn đàm phán. Chiến thắng này cũng giúp QGP đánh bại chiến lược Chiến tranh cục bộ của Mỹ tại miền Nam Việt Nam.

Vào ngày cờ của Quân giải phóng được cắm trên đỉnh Tà Cơn, 22 giờ đêm, trung tướng Cao Văn Khánh, chỉ huy mặt trận Đường 9 ghi vào nhật ký: "Đài Phát thanh vừa phát xong bản thông cáo của Bộ Chỉ huy Mặt trận Khe Sanh. Chắc giờ này em của anh ở nhà cũng vui mừng phấn khởi với người thân nhất của mình đã đóng góp vào chiến thắng vẻ vang đó của dân tộc. Không những thế mà anh nghĩ rằng em đã đóng góp phần xứng đáng của mình vào chiến thắng oanh liệt Khe Sanh. Em đã động viên anh rất nhiều trong suốt 6 tháng nay, để suy nghĩ tìm mọi cách đem chiến thắng lợi cho miền Nam…".

Quân sự

trái|Tượng đài Chiến Thắng Khe Sanh Trải qua 170 ngày đêm vây lấn Khe Sanh, QGP tuyên bố đã đánh thiệt hại nặng Quân đoàn III TQLC và Sư đoàn Không kỵ số 1 Mỹ, diệt 11.900 quân Mĩ và VNCH (trong đó có hơn 10 ngàn lính Mỹ), phá hủy 197 máy bay, 78 xe tăng - xe thiết giáp, 46 khẩu pháo, 50 kho đạn, giải phóng một địa bàn rộng lớn phía tây tỉnh Quảng Trị với 1 vạn dân, phá vỡ một mảng tuyến phòng ngự thép ngăn chặn ở địa đầu Nam Việt Nam. Thông báo của Bộ chỉ huy QGP tuyên bố: "Sau 170 ngày đêm chiến đấu liên tục, vô cùng anh dũng và quyết liệt, quân giải phóng Mặt trận Khe Sanh đã chiến thắng oanh liệt, đập tan một ý đồ ngông cuồng và ngoan cố của giặc Mỹ tại chiến trường Đường 9 - Bắc Quảng Trị, buộc chúng phải chịu thất thủ Khe Sanh".

Trong toàn chiến dịch, QĐNDVN & QGP có khoảng 3.000 người hi sinh, 4.394 người bị thương nặng được chuyển về tuyến sau, 7.289 người bị thương nhẹ hoặc bị ốm và được điều trị tại chỗ.

Thắng lợi tại Khe Sanh đã cho thấy một bước trưởng thành mới của QGP về chỉ đạo chiến lược, chiến thuật, hợp đồng binh chủng… Do những đột phá về chiến thuật nên hầu hết các trận đánh về sau tại Quảng Trị đều là hiệp đồng binh chủng.

Khi xét về mục tiêu chiến dịch, QGP đã hoàn thành cả hai mục tiêu, thậm chí coi như đã hoàn thành mục tiêu thứ 3 là giành quyền kiểm soát đối với Khe Sanh, mặc dù điều này đã không còn nhiều ý nghĩa về chiến thuật khi phía Mỹ đã chủ động rút quân và phá hủy căn cứ. Về mặt chiến lược, kế hoạch xây dựng Hàng rào điện tử McNamara nhằm cắt đứt đường mòn Hồ Chí Minh của Mỹ coi như phá sản. Đây là cơ sở để QGP coi đây là một thắng lợi chiến lược to lớn. Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi điện khen: "...thắng lợi Khe Sanh tỏ rõ mưu lược và sức mạnh vô địch của quân, dân và cán bộ ta, góp phần vào thắng lợi to lớn của toàn miền Nam... mở đường cho những thắng lợi to lớn hơn nữa...". Sau chiến dịch, Sư đoàn 304 được tặng thưởng Huân chương Quân công hạng Nhì; các trung đoàn đều được tặng thưởng Huân chương, 1.482 cán bộ, chiến sĩ được tặng Huân chương; 2 chiến sĩ được tuyên dương Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân.

Đây là lần đầu tiên QGP dàn quân ở cấp sư đoàn đối mặt với quân Mỹ. Tuy phải chịu thương vong lớn do hỏa lực của Mỹ, đặc biệt là bom B-52 rải thảm, song họ cũng gây thiệt hại nặng tương đương cho các lực lượng tinh nhuệ bậc nhất của Mỹ là TQLC, Không kỵ và lực lượng biệt kích CIDG. Đây là thành tích đáng khích lệ đối với QGP, khi họ là bên tấn công và hoàn toàn lép vế về hỏa lực.

Với việc Mỹ bỏ Khe Sanh, Hàng rào điện tử McNamara coi như cáo chung. Kế hoạch chiến lược mà Mỹ đang xây dựng nhằm cắt đứt đường mòn Hồ Chí Minh coi như phá sản. Từ đây về sau, không còn căn cứ nào có thể uy hiếp trực tiếp tuyến đường cùng dòng hàng đưa ra tiền tuyến. QGP nhanh chóng tận dụng kết quả thu được: Từ cuối năm 1968, thêm một tuyến đường Trường Sơn được mở, thường gọi là đường Trường Sơn Đông để phân biệt với các tuyến ở phía Tây. So với các tuyến phía Tây, đường Trường Sơn đông ngắn hơn và ít khúc khuỷu hơn, nên việc đưa hàng hóa và bộ đội vào miền Nam nhanh hơn đáng kể.

Do đó có thể nói trận Khe Sanh là trận thắng lớn nhất của năm 1968 (thắng lớn hơn cả cuộc nổi dậy ở Huế), làm bàn đạp cho các chiến dịch lớn của QGP sau này (chiến dịch Hạ Lào, chiến dịch Hè 1972...), và cuối cùng là chiến dịch quyết định Xuân 1975, đúng như lời Chủ tịch Hồ Chí Minh nói: "Mở đường cho những thắng lợi to lớn hơn nữa...".

👁️ 3 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Chiến dịch Đường 9 – Khe Sanh** còn được gọi là **"Chiến dịch Đường 9"** hay **"Trận Khe Sanh"**, là một chiến dịch chính yếu trong chiến cục năm 1968 tại Việt Nam. Các tài
**Chiến dịch Lam Sơn 719** hay **Cuộc Hành quân Hạ Lào** (cách gọi của Việt Nam Cộng hòa) hay **Chiến dịch đường 9 - Nam Lào** (cách gọi của Chính phủ Cách mạng lâm thời
**Khe Sanh** là thị trấn huyện lỵ của huyện Hướng Hóa, tỉnh Quảng Trị, Việt Nam. Thị trấn này cách Đông Hà 63 km về phía Tây, cách cửa khẩu Lao Bảo 20 km về phía Đông.
**Chiến dịch Huế - Đà Nẵng** là một chiến dịch trong các chiến dịch lớn của cuộc Tổng tấn công và nổi dậy Mùa xuân năm 1975 do Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam
**Chiến dịch Lý Thường Kiệt** tiến hành từ 25-9 đến 10-10-1951, do Quân đội Nhân dân Việt Nam tiến hành nhằm chiếm vùng thung lũng Nghĩa Lộ của thực dân Pháp ở mặt trận Tây
**Chiến dịch Tây Carpath** là một chiến dịch tấn công chiến lược do quân đội Liên Xô tiến hành nhằm tấn công vào tuyến phòng thủ của quân đội Đức Quốc xã tại miền Tây
**Chiến dịch Hà Nam Ninh** (còn gọi là **chiến dịch Quang Trung**) tiến hành từ 28-5 đến ngày 20 tháng 6 năm 1951, do Bộ Tổng tư lệnh Quân đội Nhân dân Việt Nam trực
**Chiến dịch Xuân – Hè 1972**, còn được biết đến với tên gọi **Mùa hè đỏ lửa** (theo cách gọi của Quân lực Việt Nam Cộng hòa), hoặc **Easter Offensive** ("Chiến dịch Lễ Phục Sinh";
**Chiến dịch Bagration** () là mật danh của **chiến dịch Byelorussia** - chiến dịch tấn công chiến lược mùa hè năm 1944 của quân đội Liên Xô, chính thức bắt đầu ngày 23 tháng 6,
**Chiến dịch phòng thủ Mozdok–Malgobek** là hoạt động quân sự lớn của Cụm tác chiến Bắc Kavkaz của quân đội Liên Xô chống lại cuộc tấn công của Cụm tập đoàn quân A (Đức) qua
**Đường Trường Sơn** hay **đường mòn Hồ Chí Minh** () là một tuyến Hậu cần chiến lược bao gồm mạng lưới giao thông quân sự, chạy từ lãnh thổ miền Bắc Việt Nam vào tới
**Quốc lộ 9** dài 83,5 km, bắt đầu (km 0) tại thành phố Đông Hà – nơi giao nhau với Quốc lộ 1 – và chạy qua cửa khẩu Lao Bảo. Tuyến đường nổi tiếng
**Chiến cục Đông Xuân 1953-1954** là tên gọi để chỉ một chuỗi các cuộc tiến công chiến lược trên toàn chiến trường Đông Dương của lực lượng vũ trang Quân đội Nhân dân Việt Nam
thumb|[[Du kích Liên Xô trên đường ở Belarus, trong cuộc phản công năm 1944.]] **Chiến tranh du kích** là một loại hình chiến tranh phi đối xứng thường được phe, nhóm quân sự nhỏ và
**Đánh bóc vỏ**, **Chiến thuật Bóc vỏ** (hay **Bóc bì chiến thuật**) là chiến thuật tấn công hiệp đồng binh chủng được sử dụng trong nhiều cuộc chiến tranh. Trong Quân đội Nhân dân Việt
**Sự kiện Tết Mậu Thân** (sách báo Việt Nam thường gọi là **_Tổng công kích và nổi dậy Tết Mậu Thân 1968_**) là cuộc tổng tiến công và vận động quần chúng nổi dậy giành
**Chiến cục năm 1972** là tổ hợp các hoạt động tấn công quân sự chiến lược của Quân đội nhân dân Việt Nam và Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam trên chiến trường miền
**Trận Tà Mây - Làng Vây** là một trận đánh then chốt trong Chiến dịch Đường 9 - Khe Sanh của Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam, diễn ra vào đêm ngày 6 tháng
**Trận chiến nước Pháp** (), còn được gọi là **Chiến dịch phía Tây** (**'), **Chiến dịch nước Pháp** (, ) và **Nước Pháp thất thủ''', là cuộc xâm lược của Đức nhằm vào Pháp, Bỉ,
**Toàn quốc kháng chiến** là cách gọi để nói tới sự kiện ngày 19 tháng 12 năm 1946, khi cuộc chiến đấu giữa Quân đội Pháp và chính quyền Việt Nam Dân chủ Cộng hòa
**Trận Bạch Đằng trên sông Hiếu** (cuối tháng 2 đến đầu tháng 3-1968) là trận đánh nằm trong Chiến dịch Đường 9 - Khe Sanh của Quân đội nhân dân Việt Nam, cắt đứt đường
Chiến thuật **trực thăng vận trong Chiến tranh Việt Nam** thường được biết đến với những tên gọi khác là **Chiến thuật Đại bàng bay** hay **Hổ bay, Chim ưng, Kẻ bình định, Lực lượng
nhỏ| Pháo đài bay **B-52** của Không lực [[Hoa Kỳ]] Máy bay **B-52** là loại máy bay ném bom chiến lược hạng nặng, tầm xa, rất nổi tiếng của Không quân Hoa Kỳ, do hãng
**Sư đoàn Thủy quân Lục chiến Việt Nam Cộng hòa** (tiếng Anh: _Republic of Vietnam Marine Division_, **RVNMD**) là Lực lượng tác chiến đổ bộ đường thủy. Đây là một trong số những đơn vị
Trong Chiến tranh Việt Nam, quân đội Hoa Kỳ và các lực lượng đồng minh đã gây ra hàng loạt tội ác như giết người, hãm hiếp, đánh đập tù nhân, ném bom vào thường
**T-54** và **T-55** là một thế hệ xe tăng sản xuất tại Liên Xô và trang bị cho quân đội nước này từ năm 1947. Đây là mẫu xe tăng sản xuất nhiều nhất trong
**Chiến tranh Pháp – Phổ** (19 tháng 7 năm 1870 – 28 tháng 1 năm 1871), thời hậu chiến còn gọi là **chiến tranh Pháp – Đức** (do sự kiện thống nhất nước Đức ở
**DShK** (tiếng Nga: **Д**егтярёва-**Ш**пагина **К**рупнокалиберный, phiên âm La tinh: _Degtyaryova-Shpagina Krupnokaliberny_) là một trong những mẫu súng máy hạng nặng sử dụng đạn 12,7x108mm nổi tiếng nhất của Liên Xô. Nó được nhìn thấy sử
nhỏ|phải|Một [[chiến binh Mông Cổ trên lưng ngựa, ngựa Mông Cổ là biểu tượng cho những con ngựa chiến ở vùng Đông Á trong thời Trung Cổ]] nhỏ|phải|Một kỵ xạ Nhật Bản đang phi nước
**PT-76** (, _Плавающий Танк - 76_, Plavayushchiy Tank-76) là loại xe tăng hạng nhẹ của Liên Xô. Xe tăng PT-76 được giới thiệu lần đầu tiên vào đầu thập niên 1950, và sớm trở thành
**Thủy quân Lục chiến Hoa Kỳ** (_United States Marine Corps_) là một quân chủng của Quân đội Hoa Kỳ có trách nhiệm phòng vệ vũ trang và tiến công đổ bộ từ phía biển, sử
nhỏ|pháo hạm MK-45 khi khai hỏa **USS Hué City** **(CG-66)** là một tàu tuần dương mang tên lửa dẫn đường lớp Ticonderoga phục vụ trong Hải Quân Hoa Kỳ. Nó được đặt hàng vào ngày
**Lực lượng biệt kích Hoa Kỳ và đồng minh trong Chiến tranh Việt Nam** nói về những đơn vị quân sự đặc biệt trong Chiến tranh Việt Nam hoạt động dưới sự điều hành trực
Đây là danh sách các trận đánh, chiến dịch, cuộc vây hãm, hành quân, các cuộc giao tranh trong lịch sử Việt Nam, diễn ra trên lãnh thổ Việt Nam, qua các triều đại và
**Nguyễn Sùng Lãm** (1925–2012) là một sĩ quan cấp cao trong Quân đội nhân dân Việt Nam, hàm Trung tướng, nguyên Trưởng đoàn Quân sự Việt Nam tại Cuba, Tư lệnh Đặc khu Quảng Ninh,
**Vây lấn** là chiến thuật tấn công quân đối phương đang trong tình trạng phòng ngự bằng cách bao vây hệ thống công sự của đối phương, lấn chiếm từng bước, làm suy yếu quân
**Phạm Duy Tân** (1933–2021) là một sĩ quan Quân đội nhân dân Việt Nam, quân hàm Đại tá, nguyên Sư đoàn trưởng Sư đoàn 308, phó Tư lệnh Quân đoàn 1, thường vụ Đảng ủy,
**Vây lỏng** là hình thức bao vây lỏng lẻo của một lực lượng quân sự, tuy không còn đủ sức vây hãm một pháo đài hay một thành phố, thị trấn,...sự hiện diện trong khu
**Phạm Liêm** (15 tháng 12 năm 1928 – 22 tháng 2 năm 2022) là một sĩ quan cao cấp của Quân đội nhân dân Việt Nam, hàm Thiếu tướng, nguyên Chủ nhiệm Chính trị Quân
**_Battlefield Vietnam_** là một game bắn súng góc nhìn người thứ nhất và là phần thứ hai trong dòng game _Battlefield_ kể từ sau _Battlefield 1942_. Trò chơi được phát triển bởi công ty Thụy
**Sư đoàn 308** hay **Đại đoàn Quân Tiên phong** trực thuộc Quân đoàn 12 là Sư đoàn bộ binh chủ lực được thành lập đầu tiên của Quân đội nhân dân Việt Nam. Thành lập
Bản đồ 4 Quân khu [[Việt Nam Cộng hòa]] **Quân đoàn I** là một đơn vị cấp Quân đoàn, được tổ chức hỗn hợp gồm cả Hải quân - Lục quân - Không quân. Đây
Bài viết dưới đây trình bày lịch sử của các loại xe tăng được sử dụng bởi các lực lượng khác nhau ở Việt Nam. ## Những vết xích tăng đầu tiên Vào năm 1918,
phải|Một đội bắn tỉa của [[Lê dương Pháp]] Lính bộ binh bắn tỉa của Quân đội Mỹ với súng bắn tỉa [[súng bắn tỉa M24|M24 tại Afghanistan ngày 19 tháng 10 năm 2006.]] Lính bắn
**Sư đoàn 2 Quảng - Đà**, còn gọi là "**Sư đoàn 2 Thép**" thời chiến tranh Việt Nam là sư đoàn bộ binh cơ động nổi tiếng của Quân đội nhân dân Việt Nam. Được
**Đoàn Sinh Hưởng** (sinh 1949) là một sĩ quan cấp cao trong Quân đội nhân dân Việt Nam, hàm Trung tướng, là tiến sĩ Khoa học quân sự, Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân
**Khế Bật Hà Lực** (chữ Hán: 契苾何力, ? – 677), người bộ tộc Khế Bật, dân tộc Thiết Lặc, tướng lãnh đầu đời Đường, tham gia hầu hết những cuộc chinh thảo các dân tộc
**Trận Smolensk** là một trận đánh lớn trong Chiến tranh Xô-Đức thuộc khuôn khổ chiến dịch Barbarossa năm 1941. Đây là một tổ hợp các trận đánh phòng thủ kết hợp với các hoạt động
thumb|right|Hệ thống [[Tàu điện ngầm thành phố New York là hệ thống tàu điện ngầm vận hành độc lập lớn nhất trên thế giới tính theo số lượng nhà ga mà nó phục vụ, sử
**Tả Tông Đường** (chữ Hán: 左宗棠; bính âm: Zuǒ Zōngtáng, hoặc còn được đọc là Tso Tsung-t'ang; 10 tháng 11 năm 1812 – 5 tháng 9 năm 1885), tên tự là **Quý Cao** (季高), hiệu