✨Chiến dịch Smolensk (1943)
Chiến dịch Smolensk (7 tháng 8 năm 1943 – 2 tháng 10 năm 1943) hay còn gọi là Trận Smolensk lần thứ hai là một Chiến dịch tấn công chiến lược của Hồng quân Liên Xô nhằm vào Cụm Tập đoàn quân Trung tâm của quân đội phát xít Đức, có mật danh Chiến dịch Suvorov. Chiến dịch Smolensk là một phần của Chiến cục hè-thu năm 1943 do Hồng quân Xô Viết phát động tại khu vực Tây Liên Xô. Diễn ra đồng thời với Chiến dịch phản công Hạ Dnepr (24 tháng 8 — 23 tháng 12 năm 1943), chiến dịch Smolensk kéo dài suốt hai tháng, và do Phương diện quân Tây (Tư lệnh: Tướng Vasily Danilovich Sokolovsky) cùng với Phương diện quân Kalinin (Tư lệnh: Tướng Andrei Ivanovich Yeryomenko) và Phương diện quân Bryansk (Tư lệnh: Tướng Markian Mikhailovich Popov thực hiện. Mục tiêu của chiến dịch nhằm đuổi quân phát xít Đức ra khỏi khu vực Smolensk và Bryansk. Trong đó, thành phố Smolensk đã bị quân Đức chiếm đóng suốt gần hai năm, kể từ sau Trận Smolensk diễn ra vào năm 1941.
Mặc dù mật độ phòng thủ của quân Đức ở đây rất dày đặc,nhưng Hồng quân Xô Viết đã phá vỡ phòng tuyến của quân Đức ở nhiều nơi và giải phóng một số thành phố quan trọng, trong đó có Smolensk và Roslavl. Thành quả của chiến dịch Smolensk đã giúp Hồng quân có điều kiện và khả năng tính đến một kế hoạch giải phóng hoàn toàn lãnh thổ Belarus khỏi tay quân Đức. Nhưng, công bằng mà nói, do mật độ phòng thủ của quân Đức khá dày đặc và do quân Đức chống cự rất ác liệt, tiến độ của chiến dịch Smolensk khá chậm. Chiến dịch Smolensk trải qua ba giai đoạn mới hoàn thành được mục tiêu cuối cùng: Giai đoạn 1 từ ngày 7 tháng 8 đến 20 tháng 8; giai đoạn 2 từ 21 tháng 8 đến ngày 6 tháng 9 và giai đoạn 3 từ ngày 7 tháng 9 đến ngày 2 tháng 10.
Chiến dịch Smolensk cũng đem lại nhiều ảnh hưởng đến chiến sự diễn ra ở mặt trận Xô-Đức nói chung và miền Nam Liên Xô nói riêng, nhất là đối với chiến dịch phản công Hạ Dnepr. Nó đã "trói chân" một lượng lớn quân Đức ở khu vực miền Trung Liên Xô. Theo ước tính sơ bộ, người Đức đã phải huy động đến 55 sư đoàn để củng cố cho mặt trận ở Smolensk trong khi chính 55 sư đoàn này đáng lẽ phải được điều xuống phía Nam để ngăn quân Liên Xô vượt sông Dnepr. Với việc bị "trục xuất" khỏi Smolensk, sau khi phải rút khỏi chỗ lồi Rzhev - Vyazma, quân Đức tiếp tục mất một bàn đạp quan trọng để có thể tấn công vào thủ đô Moskva - mối lo ngại lâu nay đối với Bộ Tổng tư lệnh Tối cao Liên Xô STAVKA.
Mặc dù có một kế hoạch riêng nhưng Chiến dịch tấn công Bryansk từ 1 tháng 9 đến 3 tháng 10 năm 1943 cũng có thể được coi là một chiến dịch bộ phận bên cạnh các hoạt động quân sự chính trên hướng Smolensk - Roslavl. Bằng chiến dịch này, Phương diện quân Bryansk không những đã phá vỡ "phòng tuyến Hagen" của Tập đoàn quân 9 (Đức), đánh chiếm trung tâm phòng ngự Bryansk rất mạnh do các quân đoàn bộ binh 35 và xe tăng 46 (Đức) phòng thủ, giải phóng một loạt các thành phố quan trọng từ Krichev đến Novozybkov mà còn hoàn thành nhiệm vụ yểm hộ cho cánh trái của Phương diện quân Tây và cùng với cánh phải của Phương diện quân Trung tâm áp sát Gomen, xiết chặt trận tuyến với hai bên sườn của hai phương diện quân "láng giềng".
Chiến dịch Smolensk bao hàm một số chiến dịch tấn công bộ phận sau đây: :Chiến dịch tấn công Spas-Demensk từ ngày 7 đến ngày 20 tháng 8 năm 1943. :Chiến dịch tấn công Dukhovshina-Demidov lần thứ nhất từ 13 đến 18 tháng 8 năm 1943. :Chiến dịch tấn công Yelnia-Dorogobuzh từ 28 tháng 8 đến 6 tháng 9 năm 1943. :Chiến dịch tấn công Dukhovshina-Demidov lần thứ hai từ 14 tháng 9 đến 2 tháng 10 năm 1943. :Chiến dịch tấn công Smolensk-Roslavl từ 15 tháng 9 đến 2 tháng 10 năm 1943. :Chiến dịch tấn công Bryansk từ 1 tháng 9 đến 3 tháng 10 năm 1943.
Qua 6 chiến dịch kể trên, quân đội Liên Xô đã chiếm được một khu vực rộng lớn phía Đông sông Berezina, uy hiếp các trung tâm phòng thủ quan trọng của quân đội Đức Quốc xã tại phía Đông Belarus trên khu vực được gọi là "Ban công Byelorusssya". Nhiều bàn đạp tấn công quan trọng đã bị quân đội Liên Xô đánh chiếm tại các khu vực Mtislav, Dribin, Lyary, Rudnya, trở thành các điểm xuất phát tấn công trên hướng Tây trong Chiến dịch Bagration.
Bối cảnh
Sau thất bại chiến lược tại Kursk vào tháng 7 năm 1943, quân đội phát xít Đức đã hoàn toàn mất hết mọi hy vọng giành lại thế chủ động từ tay Hồng quân Liên Xô. Những tổn thất trong cuộc chiến với Liên Xô là rất to lớn, và hơn nữa phần nhiều những tổn thất này lại chính là những binh sĩ dày dạn kinh nghiệm trận mạc, điều này khiến sức chiến đấu của quân Đức giảm sút đáng kể. Họ không thể nào chủ động mở những đợt tấn công mà chỉ có thể giữ thế phòng ngự trước các đợt tấn công của Hồng quân.
Về phía Xô Viết, lãnh tụ Stalin quyết định sẽ tiếp tục thế tiến công có được từ sau thắng lợi mang tính bước ngoặt tại Stalingrad để giải phóng toàn bộ lãnh thổ Liên Xô bị quân Đức chiếm đóng. Hồng quân đã lập ra kế hoạch tấn công vào khu vực sông Dnepr nhằm giải phóng những vùng lãnh thổ của Cộng hòa Xô Viết xã hội chủ nghĩa Ukraina và đẩy quân Đức xa hơn về phía Tây. Bên cạnh đó, nhằm làm suy yếu quân Đức thêm một bước, Hồng quân cũng lập một kế hoạch tấn công vào Smolensk cùng lúc với chiến dịch Dnepr, với mục đích kìm chân một phần lớn quân Đức tại đây và buộc người Đức điều các lực lượng dự bị lên phía Bắc, làm suy yếu lực lượng phòng ngự của Đức ở khu vực sông Dnepr. Cả hai chiến dịch này là một phần của một kế hoạch tấn công chiến lược hè-thu 1943, nhằm mục đích thu hồi càng nhiều càng tốt những vùng lãnh thổ Xô Viết đã bị quân Đức chiếm đóng.
30 năm sau, Nguyên soái Vasilevsky (Tổng tham mưu trưởng Hồng quân năm 1943) đã viềt trong hồi ký như sau:
Địa hình
Bản đồ chiến dịch Smolensk và các chiến dịch liên quan khác.
Vùng đất cao Smolensk được mệnh danh là thượng nguồn của các con sông. Nhiều sông lớn ở Nga và Ukraina như sông Volga, sông Dniepr, sông Bắc Donets, sông Tây Dvina, sông Desna, sông Brezina, sông Ugra và các chi lưu của chúng hầu như đều bắt nguồn từ đây. Bề rộng các con sông dao động trong khoảng 10 đến 120 mét, độ sâu dao động trong khoảng 40 tới 250 cm, nhưng bao quanh các khu vực sông là các đầm lầy rộng lớn gây nhiều khó khăn cho việc di chuyển, nhất là đối với các đơn vị thiết giáp. Hơn nữa, giống như nhiều con sông có hướng chảy từ Bắc xuống Nam ở châu Âu, tả ngạn của sông Dnepr - do quân Đức chiếm giữ - cao và dốc hơn hữu ngạn. Do đặc điểm của địa hình, Quân đội Liên Xô cần nhiều cầu cạn và đường ngầm để đưa xe tăng, cơ giới, pháo binh và xe vận tải qua các con sông, khe hẻm và đầm lầy hơn là cầu phao bắc qua các con sông lớn.
Địa hình vùng này tương đối bằng phẳng, ít đồi núi cao đột xuất nhưng có những khe hẻm núi có sông suối chảy qua và nhiều đầm lầy, nhiều khu rừng lớn hạn chế việc tác chiến của quân đội hai bên. Khu đồi núi có vị trí quan trọng nhất trong vùng có độ cao 270 mét, thuận lợi cho việc triển khai pháo binh. Vào năm 1943 khu vực này được che phủ bởi các khu rừng thông và những khu rừng mưa ôn đới xen lẫn các bụi cây rậm rạp.
Các cơ sở vật chất cho việc giao thông và hậu cần
Đối với Hồng quân Xô Viết, việc tổ chức chiến dịch Smolensk là một khó khăn lớn bởi những vấn đề về giao thông tại khu vực nó diễn ra. Hệ thống đường bộ chưa được phát triển thật sự tốt và các tuyến đường trải nhựa khá hiếm. Sau những trận mưa mùa hè, phần lớn các con đường đất tại đây đều trở thành những vũng lầy (một hiện tượng mà người Nga gọi là rasputitsa) và bò lết trên những bãi lầy đó là một cực hình đối với các đơn vị thiết giáp. Những vũng lầy này cũng đem lại nhiều rắc rối cho vấn đề hậu cần. Tuyến đường sắt chính duy nhất mà Hồng quân có thể sử dụng chính là tuyến Rzhev - Vyazma - Kirov chạy song song với chiến tuyến năm 1942. Tuy nhiên, tuyến đường này và các đường nhánh của nó đã bị phá hoại nặng nề trong Chiến dịch "Con Trâu" khi Cụm Tập đoàn quân Trung tâm (Đức) buộc phải rút khỏi "chỗ lồi" Rzhev - Vyazma.
Trái lại, quân đội phát xít Đức nắm giữ một hệ thống giao thông đường bộ và đường sắt tốt hơn và mở rộng hơn rất nhiều, với hai trung tâm là Smolensk và Roslavl. Hai thành phố này cũng là hai trung tâm hậu cần quan trọng, giúp cho quân Đức có thể nhanh chóng điều động viện binh cũng như cung cấp quân lương, đạn dược cho các đội quân đồn trú. Tuyến đường sắt quan trọng nhất đối với quân Đức chính là tuyến Smolensk - Bryansk và tuyến Nevel - Orsha - Mogilev, kết nối các lực lượng quân Đức ở phía Tây với các lực lượng tập trung xung quanh Oryol.
Binh lực
Quân đội Liên Xô
Cũng như các chiến dịch tại khu vực Rzhev-Vyazma trong năm 1942 và đầu năm 1943, Chiến dịch Smolensk có sự tham gia của Phương diện quân Kalinin, Phương diện quân Tây và cánh phải của Phương diện quân Bryansk với vai trò yểm hộ sườn trái cho Phương diện quân Tây:
Phương diện quân Kalinin do thượng tướng Andrei Ivanovich Yeryomenko làm tư lệnh, sử dụng cánh trái tham gia chiến dịch: Tập đoàn quân 39 (tái lập ngày 8-8-1942) do trung tướng A. I. Zygin (đến tháng 9 năm 1943) và trung tướng N. E. Berzarin (từ tháng 9 năm 1943) chỉ huy. Thành phần gồm có: Bộ binh: 5 sư đoàn và 1 lữ đoàn. Pháo binh: 2 trung đoàn pháo nòng dài, 2 trung đoàn lựu pháo, 2 trung đoàn pháo chống tăng, 2 trung đoàn súng cối, 1 trung đoàn phòng không. Thiết giáp: Lữ đoàn xe tăng 28. *Công binh: 4 tiểu đoàn công binh hỗn hợp, 2 tiểu đoàn công binh rà phá mìn. * Tập đoàn quân 43 do trung tướng K. D. Golobev chỉ huy. Thành phần gồm có: Bộ binh: 4 sư đoàn và 1 lữ đoàn. Pháo binh: 2 trung đoàn pháo nòng dài, 2 trung đoàn lựu pháo, 1 trung đoàn pháo chống tăng, 2 trung đoàn súng cối, 2 trung đoàn phòng không. Thiết giáp: Trung đoàn xe tăng 105 *Công binh 2 tiểu đoàn công binh hỗn hợp, 1 tiểu đoàn rà phá mìn. * Tập đoàn quân 31 do thiếu tướng V. A. Gludovsky chỉ huy, thành phần gồm có: Bộ binh: 2 quân đoàn và 3 sư đoàn độc lập (tổng cộng 9 sư đoàn). Pháo binh: 4 trung đoàn lựu pháo, 2 trung đoàn pháo chống tăng, 4 trung đoàn súng cối, 1 sư đoàn và 4 trung đoàn phòng không. Thiết giáp: Lữ đoàn xe tăng cận vệ 42, Trung đoàn cơ giới cận vệ 2, 2 tiểu đoàn xe bọc thép. *Công binh: 1 tiểu đoàn công binh công trình. *Tập đoàn quân không quân 3 do trung tướng N. F. Papivin chỉ huy, thành phần gồm có: Máy bay tiêm kích: 2 trung đoàn Máy bay cường kích: 2 trung đoàn Máy bay ném bom: 1 sư đoàn và 1 trung đoàn Vận tải: 1 trung đoàn Liên lạc, cứu hộ: 1 trung đoàn. *Pháo phòng không: 3 trung đoàn. *Lực lượng dự bị thuộc Phương diện quân Bộ binh: 2 quân đoàn Pháo binh: 2 trung đoàn Katyusha, 1 lữ đoàn và 1 trung đoàn pháo chống tăng, 1 lữ đoàn và 4 trung đoàn súng cối, 1 sư đoàn và 3 trung đoàn phòng không. Thiết giáp: Lữ đoàn cơ giới 47, triung đoàn xe tăng 221. Công binh: 1 lữ đoàn và 1 tiểu đoàn cầu phà, 2 lữ đoàn và 1 trung đoàn dò mìn, 5 tiều đoàn công binh công trình, 5 tiểu đoàn công binh làm đường. Phương diện quân Tây do trung tướng Vasily Danilovich Sokolovsky làm tư lệnh, biên chế gồm có: Tập đoàn quân cận vệ 10 (được thành lập từ ngày 1 tháng 5 năm 1943 trên cơ sở Tập đoàn quân 30) do Trung tướng K. P. Trubnikov (đến tháng 9 năm 1943) và Trung tướng A. B. Sukhomlin (từ tháng 9 năm 1943) chỉ huy, thành phần bao gồm: Bộ binh: Các quân đoàn bộ binh cận vệ 7, 15, 19 (7 sư đoàn). Pháo binh: 2 lữ đoàn pháo nòng dài, 2 lữ đoàn Katyusha, 3 trung đoàn lựu pháo, 2 trung đoàn pháo chống tăng, 3 trung đoàn súng cối, 1 sư đoàn và 3 trung đoàn phòng không. Thiết giáp: Lữ đoàn xe tăng 153, Trung đoàn pháo tự hành 119 Công binh: 1 lữ đoàn công binh công trình, 2 tiểu đoàn công binh cầu đường. Tập đoàn quân 5 do trung tướng V. S. Polenov VS (đến tháng 10 năm 1943) và Trung tướng N. I. Krylov (từ tháng 10 năm 1943) chỉ huy, thành phần bao gồm: **Bộ binh: 4 sư đoàn Pháo binh: 1 trung đoàn pháo nòng dài, 1 trung đoàn lựu pháo, 1 trung đoàn pháo chống tăng, 1 trung đoàn súng cối, 1 trung đoàn phòng không. *Thiết giáp: 1 lữ đoàn xe tăng *Tập đoàn quân 10 do trung tướng V. S. Popov chỉ huy, thành phần bao gồm: Bộ binh: Quân đoàn bộ binh 38 (3 sư đoàn) và 5 sư đoàn bộ binh độc lập. Pháo binh: 1 trung đoàn Katyusha, 5 trung đoàn lựu pháo, 3 trung đoàn pháo chống tăng, 2 trung đoàn súng cối, 1 trung đoàn phòng không. Thiết giáp: 1 trung đoàn cơ giới. *Công binh: 3 tiểu đoàn. * Tập đoàn quân 21 (tái lập ngày 12 tháng 7 năm 1943, được Đại bản doanh điều động từ Phương diện quân Trung tâm đến Phương diện quân Tây từ ngày 12 tháng 8 năm 1943) do trung tướng N. I. Krylov (đến tháng 10 năm 1943) và trung tướng E. P. Zhuravlev (từ tháng 10 năm 1943) chỉ huy, thành phần gồm có: Bộ binh: các quân đoàn bộ binh 61 (3 sư đoàn), 60 (3 sư đoàn) và sư đoàn bộ binh độc lập 63. Pháo binh: 1 trung đoàn pháo nòng dài, 1 trung đoàn lựu pháo, 2 trung đoàn pháo chống tăng, 3 trung đoàn súng cối, 1 sư đoàn và 2 trung đoàn phòng không. Thiết giáp: Quân đoàn xe tăng cận vệ 2, Lữ đoàn xe tăng 23, 2 trung đoàn xe tăng và 2 trung đoàn pháo tự hành độc lập. *Công binh: 1 lữ đoàn công binh công xưởng, 2 tiểu đoàn công binh cầu đường, 2 tiểu đoàn công binh công trình. * Tập đoàn quân 33 do thượng tướng V. N. Gordov chỉ huy, thành phần gồm có: Bộ binh: các quân đoàn bộ binh 65 (2 sư đoàn) 70 (2 sư đoàn) và 5 sư đoàn bộ binh độc lập. Pháo binh: 2 trung đoàn pháo nòng dài, 2 lữ đoàn lựu pháo cận vệ, 1 trung đoàn pháo chống tăng, 2 trung đoàn súng cối, 1 sư đoàn và 3 trung đoàn phòng không độc lập. Thiết giáp: 2 lữ đoàn, 1 trung đoàn và 1 tiểu đoàn xe tăng; 2 trung đoàn pháo tự hành. *Công binh: 2 tiểu đoàn công binh công trình * Tập đoàn quân 49 do trung tướng I. T. Grisin chỉ huy, thành phần bao gồm: Bộ binh: Quân đoàn bộ binh 62 (2 sư đoàn), 3 sư đoàn và 1 lữ đoàn bộ binh độc lập. Pháo binh: 1 trung đoàn pháo nòng dài, 1 trung đoàn lựu pháo, 1 trung đoàn pháo chống tăng, 1 trung đoàn súng cối, 1 trung đoàn phòng không. Thiết giáp: 1 lữ đoàn xe tăng và 1 trung đoàn pháo tự hành. *Công binh: 2 tiểu đoàn công binh công trình. * Tập đoàn quân 68 do trung tướng E. P. Zhuravlev chỉ huy, thành phàn bao gồm: Bộ binh: Các quân đoàn 65, 72, 81 (6 sư đoàn) Pháo binh: 1 trung đoàn lựu pháo, 1 trung đoàn pháo chống tăng, 2 trung đoàn súng cối, 3 trung đoàn phòng không. Thiết giáp: 2 trung đoàn pháo tự hành. Công binh: 2 tiểu đoàn công binh công trình (Sau chiến dịch, Tập đoàn quân 68 bị giải thể ngày 31 tháng 10, quân số và trang bị được bàn giao cho Tập đoàn quân 5) Tập đoàn quân không quân 1 do trung tướng M. M. Gromov chỉ huy, thành phần gồm có: Máy bay tiêm kích: 2 sư đoàn. Máy bay cường kích: 2 sư đoàn. Máy bay ném bom: 5 sư đoàn. Máy bay vận tải: 6 trung đoàn Máy bay trinh sát: 2 trung đoàn Máy bay liên lạc, cứu hộ: 2 trung đoàn Pháo phòng không: 4 trung đoàn. Lực lượng dự bị của Phương diện quân ** Quân đoàn xe tăng cận vệ 2 Tatsinskaya Sư đoàn bộ binh Ba Lan 1. Quân đoàn kỵ binh cận vệ 3 Quân đoàn kỵ binh cận vệ 6 Quân đoàn cơ giới 5 4 lữ đoàn và 4 trung đoàn xe tăng độc lập. Phương diện quân Bryansk do thượng tướng Markian Mikhaylovich Popov chỉ huy, sử dụng cánh phải tham gia chiến dịch: Tập đoàn quân 3 do thượng tướng A. V. Gorbatov chỉ huy, thành phần gồm có: Bộ binh: Các quân đoàn 41, 80 và sư đoàn 269. Pháo binh: 1 trung đoàn lựu pháo, 1 trung đoàn pháo chống tăng, 1 trung đoàn phòng không Thiết giáp: 3 trung đoàn xe tăng, 1 trung đoàn pháo tự hành. *Công binh: 1 tiểu đoàn công binh hỗn hợp. *Tập đoàn quân 50 do trung tướng I. V. Boldin chỉ huy, thành phần gồm có: Bộ binh: 1 quân đoàn (3 sư đoàn) và 4 sư đoàn độc lập. Pháo binh: 1 trung đoàn lựu pháo, 1 trung đoàn súng cối, 1 sư đoàn và 1 trung đoàn phòng không. Thiết giáp: 2 trung đoàn xe tăng, 2 trung đoàn xe bọc thép. ***Công binh: 1 lữ đoàn công binh cầu đường, 2 tiểu đoàn công binh công trình, 2 tiểu đoàn rà phá mìn.
Quân đội Đức Quốc xã
Nửa cuối năm 1943 Cụm tập đoàn quân Trung tâm của quân đội Đức Quốc xã tại mặt trận phía Đông do Thống chế Günther von Kluge chỉ huy đến 12 tháng 10 năm 1943 và Thống chế Ernst Busch chịu trách nhiệm phòng thủ chiến tuyến từ Nevel đến Sumy. Khu vực Smolensk từ Velizh đến ??? do Tập đoàn quân 4, 9 và Tập đoàn quân xe tăng 3 phòng thủ:
Tập đoàn quân xe tăng 3 do Đại tướng Georg-Hans Reinhardt làm Tư lệnh, Thiếu tướng Otto Heidkämper làm Tham mưu trưởng. Biên chế tháng 8 năm 1943 gồm có: Quân đoàn đổ bộ đường không 2 của Thượng tướng Phi hành (General der Flieger) Alfred Schlemm đóng ở Nevel, gồm các sư đoàn đổ bộ đường không 2, 3, 4 và 6. Quân đoàn bộ binh 6 của Thượng tướng Bộ binh (General der Infanterie) Hans Jordan đóng ở khu vực giữa Velizh và Vitebsk, gồm các sư đoàn bộ binh 87, 206 và 330. Quân đoàn bộ binh 9 của Thượng tướng Bộ binh Heinrich Clößner đóng ở khu vực Dorogovbuzh, gồm các sư đoàn bộ binh 35, 252, 342. Quân đoàn bộ binh 43 của Thượng tướng Bộ binh Karl von Oven đóng ở khu vực Novo Sokoniki, gồm các sư đoàn bộ binh 85, 205 và 233. Quân đoàn bộ binh 59 của Thượng tướng Bộ binh Kurt von der Chevallerie, đóng ở khu vực giữa Vyelikye Luki và Velizh, gồm các sư đoàn bộ binh 263, 291 và Cụm tác chiến Schröder. Từ 20 tháng 8 năm 1943, quân đoàn này được tăng cường Sư đoàn xe tăng 2 (Từ tập đoàn quân 4) và Sư đoàn xe tăng 8 (từ Tập đoàn quân 2). Tập đoàn quân 4 do Đại tướng Gotthard Heinrici làm Tư lệnh, Đại tá Sigismund-Hellmuth Ritter von Edler von Dawans làm Tham mưu trưởng. Biên chế tháng 8 năm 1943 gồm có: Quân đoàn bộ binh 12 của Thượng tướng Bộ binh Kurt von Tippelskirch, đóng ở khu vực Spas - Demensk, gồm các sư đoàn bộ binh 260, 267, 268. Quân đoàn bộ binh 27 của Trung tướng (tháng 9 năm 1942 được thăng Thượng tướng Bộ binh) Paul Völckers đóng ở khu vực Demidovo - Dukhovshina, gồm các sư đoàn bộ binh 52, 197, 246 và 256. Quân đoàn xe tăng 39 của Thượng tướng pháo binh (General der Artillerie) Robert Martinek đóng ở khu vực Yelnia - Dukhovshina, gồm Sư đoàn xe tăng 2, các sư đoàn bộ binh 95, 129, 337. *Tập đoàn quân 9 do Thống chế Walter Model làm Tư lệnh, Đại tá (tháng 9 năm 1943 được thăng Thiếu tướng) Harald Freiherr von Elverfeldt làm Tham mưu trưởng. Biên chế tháng 8 năm 1943 gồm có: Quân đoàn xe tăng 56 của Trung tướng Friedrich Hoßbach đóng ở Zhizdra - Rogatschevo, gồm Sư đoàn xe tăng 5, Sư đoàn cơ giới 14, các sư đoàn bộ binh 131, 131 và 203. Quân đoàn xe tăng 46 của Trung tướng (tháng 10 năm 1943 được thăng Thượng tướng Bộ binh) Hans Gollnick đóng ở phía Bắc Oryol gồm các sư đoàn bộ binh 31, 133, 253 và Lữ đoàn kỵ binh 1 SS. Quân đoàn bộ binh 35 của Trung tướng Friedrich Wiese đóng ở phía Nam Bryansk, gồm Sư đoàn xe tăng 4, các sư đoàn bộ binh 6, 72, 102, 216, 292, 283. Quân đoàn bộ binh 23 của Thượng tướng Bộ binh Johannes Frießner đóng ở khu vực phía Roslavl, gồm sư đoàn xe tăng 20, các sư đoàn bộ binh 134, 183, 707.
Kế hoạch
Quân đội Liên Xô
Tháng 6 năm 1943, Bộ Tổng tư lệnh tối cao Liên Xô giao Bộ tư lệnh Phương diện quân Tây chuẩn bị kế hoạch phối hợp với Phương diện quân Kalinin mở chiến dịch giải phóng Smolensk trong khi đang chờ đợi một cuộc tấn công mới của quân Đức ở Kursk. Trung tướng V. D. Sokolovsky (tư lệnh), Thiếu tướng A. P. Pokrovsky (tham mưu trưởng), Thượng tướng N. A. Bulganin và thiếu tướng I. S. Khokhlov đã thống nhất đặt tên mã cho kế hoạch là "Suvorov I" với hai mũi tấn công. Mũi thứ nhất đánh chiếm Yelnya và Spas-Demensk, sau đó tiến ra Roslavl. Mũi thứ hai phối hợp với cánh trái của Phương diện quân Kalinin đánh chiếm Dorogobuzh và Yartsevo, sau đó tiến ra Smolensk. Trong trường hợp Phương quân Bryansk hoàn thành nhiệm vụ phối hợp với Phương diện quân Trung tâm đánh bại quân Đức tại chỗ lõm Oryol thì cánh trái của Phương diện quân Tây mở cuộc tấn công qua Zhizdra - Bolkhov, phối hợp với cánh phải Phương diện quân Bryansk đánh chiếm Bryansk. Kế hoạch thứ hai đặt tên mã là "Suvorov II". Trên thực tế, chiến dịch diễn ra theo phương án thứ hai, sau khi "cái chèn sắt Mtsensk" của xe tăng Đức tại "chỗ lõm" Oryol bị đập tan.
Sát trước chiến dịch, để đảm bảo chắc thắng trong Chiến dịch Kursk, Bộ Tổng tư lệnh tối cao ra Chỉ thị 170028 ngày 14 tháng 7 rút bớt một số đơn vị mạnh của Phương diện quân Tây để tăng cường cho Phương diện quân Bryansk. Thực hiện chỉ thị này, ngày 18 tháng 11, Tập đoàn quân cận vệ 11 và Quân đoàn xe tăng 25 thuộc lực lượng dự bị của Phương diện quân Tây được chuyển giao cho Phương diện quân Bryansk. Việc thiếu hụt lực lượng dự bị đã làm tướng V. D. Sokolovsky lo ngại. Để bù đắp cho sự thiếu hụt những lực lượng dự bị quan trọng, nguyên soái N. N. Voronov đã điều động bổ sung 3 sư đoàn pháo binh đến chính diện của Tập đoàn quân cận vệ 10, Bộ tổng tham mưu Liên Xô cũng điều động từ 30.000 đến 40.000 quân tăng cường cho các sư đoàn thê đội 1. Thượng tướng Aleksandr Yevgenyevich Golovanov cũng được lệnh ưu tiên đảm bảo không quân ném bom tầm xa cho Phương diện quân Tây.
Cũng trong ngày 5 tháng 8, Đại bản doanh Liên Xô xem xét và chuẩn y kế hoạch tấn công của từng tập đoàn quân. Kế hoạch chiến dịch này được chuẩn bị kỹ lưỡng hơn nhiều so với các chiến dịch tại khu vực Rzhev - Vyazma trong năm 1942. Theo đó:
Cuối cùng, nằm sâu trong trận địa, quân Đức cũng bố trí thêm 3 hay 4 phòng tuyến nữa, chủ yếu nằm ở bờ Tây của các con sông trong khu vực. Ví dụ như nhiều phòng tuyến quan trọng đã được bố trí tại bờ Tây của sông Dnepr và sông Desna. Hơn nữa, những thành phố, thị trấn nằm trong các phòng tuyến (ví dụ như Yelnya, Dukhovshchina và Spas-Demensk) được bảo vệ bằng những hệ thống phòng ngự dày đặc nhằm biến chúng thành những pháo đài khổng lồ, sẵn sàng chịu đựng một cuộc công kích kéo dài. Tại đây, các con đường đều được chôn mìn cùng với các vật cản chống tăng; còn các hỏa điểm được bố trí tại các tòa nhà cao nhất và quan trọng nhất trong thành phố.
4 giờ 30 phút sáng ngày 7 tháng 8, pháo binh của Phương diện quân Tây đồng loạt nổ súng vào các vị trí phòng thủ của quân Đức trên tuyến đầu. Tập đoàn quân không quân 1 và Tập đoàn quân không quân tầm xa đã xuất kích 1.200 phi vụ ban ngày và khoảng 200 phi vụ ban đêm, oanh tạc các cứ điểm phòng thủ của quân Đức ở tuyến sau. Sau 90 phút pháo kích, 241 dàn Katyusha bắt đầu trút đạn lên các vị trí phòng thủ kiên cố của quân Đức được xác định tọa độ trên các bản đồ. 6 giờ 30 phút, các mũi đột kích chủ yếu của các tập đoàn quân 10, 5, 33 và cận vệ 10 bắt đầu xung phong vào các tuyến chiến hào đầu tiên của Quân đoàn bộ binh 12 (Đức). Gượng dậy qua các đợt pháo kích, quân Đức phản kích quyết liệt. Thượng tướng Kurt von Tippelskirch, chỉ huy Quân đoàn bộ binh 12 (Đức) cố gắng giữ các vị trí quan trọng tại tuyến 1 và khu phòng thủ Spas Demensk trong mấy ngày để chờ các lực lượng cơ giới mạnh ở tuyến được điều lên phản kích. Trong ngày đầu tiên của chiến dịch, các sư đoàn bộ binh Liên Xô chỉ tiến lên được 4 km.
Để thúc đẩy cuộc tấn công, cuối ngày 7 tháng 8, tướng V. D. Sokolovsky quyết định tung Tập đoàn quân 21 của tướng N. I. Krylov từ thê đội 2 vào trận tuyến, sớm 2 ngày so với dự kiến. Tuy nhiên, ngày 8 tháng 8, thống chế Walter Model đã điều động Sư đoàn xe tăng 5 và Sư đoàn bộ binh 131 của Quân đoàn xe tăng 56 từ hướng Zhizdra - Rogatschevo (???) kéo lên Spas Demensk phản kích. Đến ngày 9 tháng 8, các tập đoàn quân 5, 33 và cận vệ 10 chỉ đạt được kết quả rất hạn chế, đánh chiếm các cứ điểm Zamoshye, Gnezdilova, Sluzna nhưng vẫn bị quân Đức chặn lại cách tuyến xuất phát từ 2 đến 4 km. Trong ba ngày liền, Tập đoàn quân 33 (Liên Xô) dẫm chân tại chỗ trước cụm cứ điểm Spas Demensk rất mạnh của Quân đoàn 12 (Đức) nay lại được gia cố thêm bằng 2 trung đoàn xe tăng. Tiếp tục cố gắng phá vỡ thế bế tắc. Ngày 12 tháng 8, tướng V. D. Sokolovsky tung Quân đoàn xe tăng cận vệ 2 Tatsinskaya và Quân đoàn kỵ binh cận vệ 6 vào chiến đấu trong dải tấn công của Tập đoàn quân 33. Ngày 13 tháng 8, xe tăng và các kỵ binh Liên Xô đánh bật Sư đoàn xe tăng 5 và Sư đoàn bộ binh 260 (Đức) ra phía Tây Spas Demensk và chiếm thành phố. Tuyến phòng thủ thứ nhất của quân Đức đã bị chọc thủng một đột phá khẩu lớn xung quanh Spas Demensk.
Từ ngày 9 đến ngày 13 tháng 8, Tập đoàn quân cận vệ 10 phải đánh lùi 8 đợt phản kích lớn của Sư đoàn xe tăng 2 và 3 sư đoàn bộ binh của Quân đoàn xe tăng 39 (Đức) nhưng vẫn không thể vượt qua cứ điểm Sluena (???). Tập đoàn quân 68 của tướng E. P. Zhuravlev được đưa từ thê đội 2 vào tác chiến cũng chỉ đẩy tốc độ tấn công lên được 2,5 đến 3 km/ngày. Ở phía Bắc, Tập đoàn quân 5 (Liên Xô) cũng chỉ chiếm được một bàn đạp nhỏ tại Sikaryevo (???), nằm giữa hai con sông Osma và Ugra sau 10 ngày chiến đấu vất vả. Ngày 14 tháng 8, tướng V. D. Sokolovsky có một quyết định táo bạo, điều Quân đoàn cơ giới 5 từ vị trí dự bị tại phía sau Tập đoàn quân cận vệ 10 đến khu vực Kirov. Ngày 15 tháng 8, quân đoàn này đã phối hợp với Tập đoàn quân 10 mở cuộc đột kích dọc theo thung lũng số Borba lên phía Bắc, đánh vào phía Tây Spas Demensk và Bakhmutovo. Đòn đột kích vu hồi của Quân đoàn cơ giới 5 (Liên Xô) đã loại bỏ hoàn toàn tuyến phòng ngự đầu tiên của Quân đoàn bộ binh 12 và Quân đoàn xe tăng 56 (Đức). Ngày 16 tháng 8, các tập đoàn quân cận vệ 10, 33, 49 cũng đồng loạt mở cuộc tấn công sang phía Tây, đẩy cánh Nam của Tập đoàn quân 4 và cánh Bắc của Tập đoàn quân 9 (Đức) về tuyến phòng ngự thứ hai.
Do Chiến dịch tấn công Dukhovshina-Demidov lần thứ nhất của Phương diện quân Kalinin đánh không thắng đã bị sớm đình chỉ ngày 18 tháng 8, Tập đoàn quân 5 và Tập đoàn quân 68 (Liên Xô) không thể tiếp tục mạo hiểm tấn công sang phía Tây trong khi Quân đoàn bộ binh 9 (Đức) vẫn liên tục phản kích nhằm chiếm lại bàn đạp Sikarevo. Ngày 20 tháng 8, tướng V. D. Sokolovsky ra lệnh tạm dừng chiến dịch.. Tại Phương diện quân Kalinin, I. V. Stalin đã yêu cầu điều chỉnh mật độ pháo binh lên 170 khẩu/km chính diện, tăng viện cho phương diện quân này 1 quân đoàn kỵ binh và 3 sư đoàn không quân. Ông cũng đồng ý với đề nghị của tướng A. I. Yeryomenko lùi thời gian tấn công đến ngày 13 tháng 8 do chưa vận chuyển đủ đạn dược cho pháo binh mặt trận.
Phương diện quân Kalinin bắt đầu chiến dịch tấn công Dukhovshchina-Demidov chậm 1 tuần sau ngày mở màn chiến dịch Smolensk và chậm 10 ngày so với kế hoạch ban đầu. Theo kế hoạch, các tập đoàn quân 39 và 43 tấn công Dukhovshchina. Bêm cánh trái họ, Tập đoàn quân 31 sẽ mở cuộc tấn công vào Dorogobuzh, khép chặt hai bên sườn của hai phương diện quân. 7 giờ 30 phút ngày 13 tháng 8, sau màn đạn pháo binh bắn chuẩn bị và các cuộc oanh tạc của Cụm không quân mặt trận thuộc Tập đoàn quân không quân 3 (Liên Xô), các sư đoàn tuyến 1 trên cánh trái Phương diện quân Kalinin bắt đầu xuất kích.
Tập đoàn quân 39 tấn công trên chính diện 22 km phía Đông Bắc Dukhovshchina. Trong ngày đầu, các sư đoàn bộ binh 83, 124, 134 và cận vệ 2 đã tiến sâu 4 đến 5 km vào tuyến phòng thủ thứ nhất của Quân đoàn bộ binh 27 (Đức). Ngày 14 tháng 8, tướng Paul Völckers huy động các sư đoàn bộ binh 197, 246 và 256 phản kích vào đội hình các sư đoàn bộ binh 124 và 134 (Liên Xô), chặn đứng cuộc tấn công của quân đội Liên Xô cách Dukhovshchina 15 km. Ngày 15 tháng 9, tướng Gotthard Heinrici điều Sư đoàn xe tăng 2 và các sư đoàn bộ binh 52, 197, 246 lập tuyến phòng thủ trên bờ nam thượng nguồn sông Dniepr. 60 xe tăng và pháo tự hành Đức liên tục phản kích vào đội hình Tập đoàn quân 39. Tập đoàn quân 31 (Liên Xô) sau khi dễ đánh chiếm Safonovo đã bị Sư đoàn cơ giới 14 và các sư đoàn bộ binh 129, 337 (Đức) chặn lại trước cửa ngõ phía Bắc Dorogobuzh.
Đánh chiếm Yelnia lần thứ hai
Các mục tiêu của Chiến dịch tấn công Yelnia-Dorogobuzh được STAVKA xem là "chìa khóa" để mở đường tới Smolensk. Quân Đức cũng coi đây là "cái chốt" phòng thủ chính của Cụm tập đoàn quân Trung tâm và tổ chức phòng thủ hết sức kỹ lưỡng tại khu vực này. Khu đầm lầy của lưu vực sông Desna và sông Ugra được chôn mìn dày đặc và các khẩu đội pháo được bố trí tại các ngọn đồi cao hướng về thành phố. Rút kinh nghiệm những gì không thành công trong giai đoạn 1, Quân đội Liên Xô cũng chuẩn bị rất kỹ cho giai đoạn 2. Từ ngày 20 đến 27 tháng 8, Tập đoàn quân cận vệ 1 được tăng cường Quân đoàn cơ giới 5 và Quân đoàn kỵ binh cận vệ 6 đặt trực thuộc Tư lệnh tập đoàn quân (trước đó trực thuộc phương diện quân). Tập đoàn quân 21 cũng được tăng cường Quân đoàn xe tăng cận vệ 2 Tatsinskaya và Lữ đoàn pháo tự hành cận vệ 1. Tập đoàn quân 33 được bổ sung thêm 5 lữ đoàn pháo binh tầm xa.
Sáng 28 tháng 8, pháo binh của Phương diện quân Tây khai hỏa với mật độ dày đặc như đợt thứ nhất. Tại hướng tấn công chính (hướng Yelnya) có 170 khẩu pháo và súng cối từ 76 mm trở lên trên 1 km chính diện. Trên hướng phụ công Dorogobuzh, mật độ pháo binh cũng lên đến 150 nòng súng trên 1 km chính diện. Thời gia bắn pháo chuẩn bị kéo dài đến 90 phút, bảo đảm dập tắt các hỏa điểm pháo chống tăng và súng máy của quân Đức cũng như ngăn chặn các đòn phản pháo của pháo binh Đức. Trong ngày đầu tiên của cuộc tấn công, đột phá khẩu được mở rộng đến 25 km với chiều sâu từ 6 đến 8 km. Quân đoàn cơ giới 5 tấn công trong dải của Tập đoàn quân cận vệ 10 đã phối hợp tốt với bộ binh, thọc sâu vào tuyến phòng ngự thứ hai của Quân đoàn xe tăng 39 (Đức) 10 km, đánh chiếm các cứ điểm phòng ngự quan trọng ở Koshelevo và Novo Berezovka, gây rối loạn hậu cứ của Tập đoàn quân 4 (Đức). Ngày 29 tháng 8, Quân đoàn kỵ binh cận vệ 6 đánh bật Sư đoàn bộ binh 337 và 131 (Đức) về bờ Tây sông Ugra và nhanh chóng vượt sông, đánh chiếm cây cầu đường sắt. Cánh phải của Tập đoàn quân cận vệ 10 cũng vượt sông Ugra ở Mitishkovo và tấn công sang phía Tây.
Ban đầu, thượng tướng M. M. Popov, tư lệnh Phương diện quân Bryansk định sử dụng Tập đoàn quân 50 mới được chuyển giao từ Phương diện quân Tây để tấn công từ Zhizdra sang phía Tây với mục tiêu đánh chiếm ngã ba đường sắt Bryansk trên cửa sông Nerussa. Tuy nhiên, Tập đoàn quân 50 không có xe tăng và quân số không đủ biên chế. Hơn nữa, nó được chuyển cho Phương diện quân Bryansk trong khi tuyến phân giới giữa hai phương diện quân vẫn đi qua phía Nam Kirov như cũ. Trinh sát mặt trận cho biết tuyến phòng ngự của quân Đức quanh khu vực Lyudinovo - Dyatkovo - Bryansk rất "rắn". Đúng lúc Bộ tư lệnh Phương diện quân Bryansk chưa tìm ra giải pháp thì ngày 16 tháng 8, qua hệ thống chia sẻ tin tức tình báo giữa các phương diện quân, báo cáo của trinh sát của Tập đoàn quân 10 có nhắc đến việc cánh trái của Tập đoàn quân này đã đánh chiếm các điểm cao 26 và 28,8 tại nơi tiếp giáp giữa hai Phương diện quân mà quân đội Liên Xô lâu nay vẫn phải dừng lại do sức phòng thủ cứng rắn của quân Đức. Trinh sát mặt trận cũng cho biết quân Đức điều Sư đoàn bộ binh 211 (Quân đoàn bộ binh 55) đi nơi khác, thay vào đó là Sư đoàn bộ binh 321 mới được đưa từ tuyến sau lên. Thượng tướng M. M. Popov liền thay đổi kế hoạch tấn công.
Điện đàm với thượng tướng V. D. Sokolovsky, tư lệnh Phương diện quân Tây, M. M. Popov đề nghị phương diện quân bạn cho "mượn" bàn đạp Kirov để tổ chức tấn công. Theo đó, Tập đoàn quân 50 sẽ chuyển từ Zhizdra lên phía Nam Kirov, Cụm kỵ binh cơ giới của tướng V. V. Kryukov sẽ chuyển lên Dubrovka để từ đó, giáng một đòn đột kích xuống ngã ba đường sắt Zhukovka phía Tây Bryansk, trên chỗ hợp lưu giữa sông Nerussa. Tập đoàn quân 50 và Tập đoàn quân 3 cùng đột kích vào phía sau khu phòng thủ Lyudinovo - Dyatkovo - Bryansk từ hướng Đông Bắc, phối hợp với Tập đoàn quân 63 từ phía Nam tấn công qua Lokot lên Pochep. Đòn đột kích bọc hậu dọc theo sông Desna sẽ loại bỏ toàn bộ hai lớp phòng thủ của các quân đoàn bộ binh 55, 53 và 35 (Đức) trên phòng tuyến Hagen. Thượng tướng V. D. Sokolovsky đồng ý với phương án "mượn" bàn đạp Kirov.
Ban đầu, Đại bản doanh Liên Xô không đồng ý với kế hoạch này vì nó quá mạo hiểm. Việc cơ động cả một tập đoàn quân ngay sát nách quân Đức chứa đựng nhiều nguy cơ rủi ro. Thắng lợi của chiến dịch chỉ trong cậy vào tính bất ngờ. Vì thế, không thể nhanh chóng chuyển pháo binh sang hướng tấn công mới mà không bị trinh sát quân đội Đức Quốc xã phát hiện. Tướng M. M. Popov lại nhờ tướng V. D. Sokolovsky cho "mượn" cả pháo binh của Tập đoàn quân 10. V. D. Sokolovsky đồng ý nhưng cũng cho tướng M. M. Popov biết là Phương diện quân Tây đang rất "khan" đạn pháo. Tướng M. M. Popov chọn giải pháp cho bộ binh của Tập đoàn quân 50, trong khi chuyển quân sẽ kết hợp mang vác đạn pháo cho pháo binh của Tập đoàn quân 10 - là đơn vị sẽ yểm hộ cuộc tấn công. Tổng tư lệnh tối cao I. V. Stalin đã mấy lần hỏi Bộ Tổng tham mưu Liên Xô về triển vọng của chiến dịch. Câu trả lời của Bộ Tổng tham mưu là họ hoàn toàn tin tưởng chiến dịch sẽ thành công sau khi đưa ra các luận cứ và tính toán cụ thể. Ngày 5 tháng 9, kế hoạch tấn công của Phương diện quân Bryansk được thông qua. Trong 40 giờ, Tập đoàn quân 50 và Quân đoàn kỵ binh cận vệ 2 đã tập kết tại vị trí mới. Số lượng đạn pháo được mang vác trên vai những người lính đủ dùng cho năm trung đoàn pháo binh phát huy hỏa lực.
Theo đúng thời gian ấn định của Tổng tư lệnh tối cao I. V. Stalin, Tập đoàn quân 50 và Cụm kỵ binh cơ giới của tướng V. V. Kryukov bắt đầu tấn công từ "bàn đạp" Kirov lúc 7 giờ sáng ngày 7 tháng 9 năm 1943 và đạt được thành công lớn. Ngay trong ngày tấn công đầu tiên, quân đội Liên Xô đã vượt qua sông Desna. Ngày thứ ba của chiến dịch, Tập đoàn quân 50 đánh chiếm các cứ điểm Snopot, Nemerichi và Dubrovka. Cụm kỵ binh cơ giới của tướng V. V. Kryukov được đưa đến đây và triển khai tấn công dọc theo thung lũng sông Desna. Đến ngày 15 tháng 9, kỵ binh cơ giới và bộ binh Liên Xô đã tiến sâu 70 km về phía Nam đánh chiếm Zhukovka và quét sạch bờ hữu ngạn sông Desna. Đòn tập hậu thọc sâu của Quân đoàn kỵ binh cận vệ 2 (Liên Xô) dọc theo sông Desna đã loại hoàn toàn hai lớp phòng thủ của quân Đức trên phòng tuyến Hagen.
Trong lúc cả hai tuyến phòng thủ của các quân đoàn 53 và 55 (Đức) rối loạn do phải đối phó với các đòn đánh vào hậu cứ của kỵ binh Liên Xô thì Tập đoàn quân 3 cũng mở hai mũi tấn công đánh chiếm Lyudinovo và Dyatkovo. Trên chính diện trung tâm, các tập đoàn quân 11 và cận vệ 11 mở hai mũi tấn công vu hồi vào Bryansk. Ngày 13 tháng 9, Quân đoàn 35 (Đức) tổ chức phản kích tại Karachev trên bờ Đông sông Desna, đánh bật Tập đoàn quân cận vệ 11 trở lại Đông Nam Bryansk. Tuy nhiên, ngày 15 tháng 9, Tập đoàn quân 3 (Liên Xô) đã đánh chiếm Pochep. Ngày 17 tháng 9, Tập đoàn quân 11 (Liên Xô) giải phóng Bryansk. Quân đoàn bộ binh 35 và tàn quân của các quân đoàn bộ binh 53, 55 (Đức) tháo chạy về phía tây.
Giai đoạn thứ 3 (7 tháng 9 – 2 tháng 10 năm 1943)
Giải phóng Dukhovshina-Demidov
Cuộc tấn công đã được ấn định vào ngày 8 tháng 9. Tuy nhiên, khi đi kiểm tra mặt trận, Nguyên soái Pháo binh N. N. Voronov, đại diện Đại bản doanh phát hiện thấy dự trữ đạn pháo của Phương diện quân Kalinin mới chỉ đạt khoảng 50%. Số còn lại phải đến 6 đến 7 ngày mới được chở đến mặt trận. Ngay trong đêm 13 tháng 9. N. N. Voronov đã gọi điện thoại báo cáo tình hình và đề nghị hoãn cuộc tấn công đến khi đạn được tập kết đầy đủ. I. V. Stalin trả lời: "Cộng thêm 6 ngày. Nhưng sau thời hạn đó thì một phút cũng không được". Trong khoảng thời gian từ ngày 7 đến ngày 14 tháng 9 năm 1943, các đơn vị Hồng quân tiếp tục được bổ sung lực lượng và chuẩn bị cho đợt tấn công tiếp theo vào phòng tuyến của quân Đức. Tập đoàn quân xung kích 4 (Liên Xô) được điều động đến khu vực Pushky (???) trên hữu ngạn sông Tây Dvina để trợ lực cho Tập đoàn quân 43. Tập đoàn quân 31 (Phương diện quân Kalinin) được chuyển giao cho Phương diện quân Tây nhưng vẫn có nhiệm vụ tấn công Yartsevo như cũ. Tập đoàn quân không quân 3 được bổ sung 2 sư đoàn máy bay mới. Mật độ pháo binh được nâng lên 145-150 khẩu/km chính diện tấn công. Các lữ đoàn xe tăng 60, 230 và các lữ đoàn cơ giới 46, 47 có 240 xe tăng đã sẵn sàng ở thê đội 2.
9 giờ sáng 14 tháng 9, pháo binh các cỡ và các dàn Katyusha của Phương diện quân Kalinin bắt đầu trút đạn lên các vị trí phòng thủ của Tập đoàn quân xe tăng 3 (Đức). Trận pháo kích kéo dài 1 giờ 15 phút đã làm tan hoang hệ thống lô cốt, hầm hào của quân Đức. Một tù binh Đức thuộc Trung đoàn 481, Sư đoàn bộ binh 35 (Đức) khai: "Chúng tôi đã biết trước rằng quân Nga sẽ tấn công. Nhưng chưa bao giờ tôi thấy hỏa lực pháo binh dày đặc đến như vậy. Hầu hết hệ thống phòng thủ của chúng tôi bị phá hủy. Nhiều người chết và bị thương". Một tù binh khác của Trung đoàn 163, Sư đoàn bộ binh 252 cũng xác nhận: "Đại đội chúng tôi bị tổn thất hơn 40 người sau loạt pháo đầu tiên rất chính xác của quân Nga. Riêng trung đội của tôi đã có hơn 10 người chết". 20 phút trước khi trận pháo kích kết thúc, những quả đạn Katyusha đã "dọn dẹp" nốt những gì còn sót lại trên các tuyến phòng thủ của quân Đức xung quanh Demidov và Dukhovshchina. Ngày 19 tháng 9, Tập đoàn quân 31 đánh chiếm Yartsevo. Trên cánh phải của chiến dịch, Tập đoàn quân 43 đã mở rộng cửa đột phá lên đến 25 km, sâu 27 km. Ngày 22 tháng 9, Tập đoàn quân 43 giải phóng Demidov. Tập đoàn quân xung kích 4 trong vai trò trợ chiến trên cánh phải đã đánh chiếm Velizh và tấn công dọc theo sông Tây Dvina về hướng Vitebsk. Từ ngày 23 tháng 9 đến ngày 2 tháng 10, 3 tập đoàn quân cánh trái của Phương diện quân Kalinin và Tập đoàn quân 31 tiếp tục tấn công về phía Tây, giải phóng hơn 200 làng mạc và thị trấn. Ngày 28 tháng 9, Tập đoàn quân 43 chiếm Ponizovye. Ngày 29 tháng 9, Tập đoàn quân 39 đánh chiếm Rudnya. Ngày 2 tháng 10, Tập đoàn quân 39 tiếp tục chiếm Eliseevka. Tập đoàn quân xung kích 4 đã tiếp cận cửa ngõ Đông Bắc Vitebsk. Chiến dịch kết thúc. Phương diện quân Kalinin đã tiến ra biên giới Belarus. Ngày 20 tháng 10, nó được đổi tên thành Phương diện quân Pribaltic 1.
Hoàn thành Chiến dịch Smolensk
Tại khu vực tác chiến của Phương diện quân Tây, đợt tấn công của Hồng quân bắt đầu chậm hơn Phương diện quân Kalinin một ngày. Sau 2 giờ pháo kích liên tục, 10 giờ sáng ngày 15 tháng 9, toàn bộ 8 tập đoàn quân của Phương diện quân Tây đều đồng loạt tấn công. Trên hướng Tây Bắc, Tập đoàn quân 31 đã đánh chiếm Yartsevo chỉ sau một ngày. Đến ngày 19 tháng 9, tập đoàn quân này đã đánh chiếm một loạt các cứ điểm quan trọng gồm Ribshevo, Berdinsk (???), Lomnosovsk (???), Kuraginsk (???), Pankratovsk (???), phá vỡ vành đai phòng thủ phía Bắc Smolensk của Tập đoàn quân xe tăng 3 (Đức). Ở phía Nam Smolensk, các tập đoàn quân 21, 33 và cận vệ 110 được tăng cường Quân đoàn xe tăng cận vệ 2, Quân đoàn cơ giới 5 và Quân đoàn kỵ binh cận vệ 6 đã mở được một đột phá khẩu rộng hơn 20 cây số và sâu 10 cây số trong ngày tấn công đầu tiên. Ngày 16 tháng 9, quân Đức tổ chức một cuộc phản kích tại khu vực Braklitsy (???) - Pochinok với sự tham gia của 11 pháo tự hành hạng nặng. Đối đầu với Tiểu đoàn xe tăng 216 và Trung đoàn bộ binh 755 (Đức) chỉ có Trung đoàn bộ binh 478 của Sư đoàn bộ binh 332 (Liên Xô). Trung đoàn pháo chống tăng 712 đóng tại làng Nedogovo (???) gần đó đã kéo đến trợ chiến, bắn cháy 3 pháo tự hành của quân Đức và phối hợp với bộ binh diệt hơn 400 lính Đức, đánh lùi cuộc phản kích.
Ngày 21 tháng 9, Tập đoàn quân cận vệ 10 có Quân đoàn kỵ binh cận vệ 3 và Quân đoàn xe tăng cận vệ 2 mở đường đã vượt sông Sozh, đánh chiếm Lapchyevo (???), phía Nam Smolensk 25 km và xốc tới Krasny. Cùng ngày, Tập đoàn quân 21 có Quân đoàn cơ giới 5 làm tiên phong đã đánh chiếm Braklitsy, bao vây phía Bắc Pochinok. Ngày 22 tháng 9, Tập đoàn quân 49 đánh chiếm nhà ga Stodolishche, cắt đứt giao thông đường sắt giữa Pochinok và Roslavl. Ngày 23 tháng 9, Quân đoàn cơ giới 5 phối hợp với Quân đoàn kỵ binh cận vệ 6 (Tập đoàn quân 33) đánh chiếm Pochinok, một cứ điểm phòng thủ mạnh của Tập đoàn quân 9 (Đức). Cùng ngày, Tập đoàn quân 10 (Liên Xô) sau khi đánh chiếm các cứ điểm Mileevo (???), Ekimovichi, Prigorye đã áp sát phía Đông và phía Nam Roslavl.. Ngày 25 tháng 9, Hồng quân Xô Viết giải phóng Smolensk. Cùng ngày, Tập đoàn quân 10 được tăng cường Lữ đoàn xe tăng 23 đã giải phóng Roslavl, cứ điểm phòng ngự mạnh thứ hai của Tập đoàn quân 9 (Đức) tại tỉnh Smolensk. Du kích tỉnh Smolensk đã góp công lớn trong việc phá hoại hậu cứ của các quân đoàn Đức, phát hiện nhiều hỏa điểm pháo binh, xe tăng chôn dưới đất, súng cối và súng máy của quân Đức. Họ dẫn bộ binh Liên Xô len lỏi qua các khu nhà đổ nát để bất ngờ tập kích, dập tắt các hỏa điểm của quân Đức.
Quân Đức phòng thủ tại khu vực Nevel trên tiền duyên kéo dài gần 100 km từ Zhary (???) qua Gorovatka (???) - Shugurovo (???) - Hồ Derganovskoye - Balashov (???) - Minino, tiếp tục trên bờ đông sông Lovat đến Balabanovo (???) và Khondoshky (???). Tuyến phòng thủ tiếp theo ở phía Tây Velikiye Luki chạy từ Nasva qua Novosokoniki, Izocha đến Chernozem (???). Đóng quân tại khu vực phòng thủ này là một phần Quân đoàn bộ binh 43 (Đức) gồm các sư đoàn bộ binh 263, 291 và Sư đoàn đổ bộ đường không 2. Phía sau và hai bên các đơn vị này là các sư đoàn bộ binh 58, 83, 129 281 và Sư đoàn xe tăng 20. Những lực lượng dự bị chủ yếu của quân Đức đóng thành ba cụm lớn tại Polotsk - Dretyn ở phía Bắc, Gorodok - Vitebsk ở phía Nam và ngay tại Nevelsk - Pustoshka. Trinh sát pháo binh Liên Xô đã phát hiện hơn 100 lô cốt hỏa lực các loại, hơn 80 hầm trú ẩn, 20 trận địa súng cối, 150 hỏa điểm súng máy, 12 trận địa pháo, 6 khẩu đội pháo ở các khu vực lân cận bên ngoài. Mỗi lớp chiến hào phòng thủ sâu từ 40 đến 60 m, có bố trí các hàng rào dây thép gai và các bãi mìn. Chiều sâu chiến thuật phòng ngự của quân Đức ước tính từ đạt 6 đến 7 km. Binh lực phòng ngự được bố trí chủ yếu ở hướng Đông và Đông Nam Nevel.
Lực lượng chủ công của chiến dịch là Tập đoàn quân xung kích 3 của tướng K. N. Galitsky gồm 4 sư đoàn bộ binh (21, 28, 357 và cận vệ 46), 2 lữ đoàn bộ binh (31, 100) và Lữ đoàn xe tăng 78. Tướng A. I. Yeryomenko yêu cầu tướng V. I. Svetsov, tư lệnh Tập đoàn quân xung kích 4 điều động Quân đoàn bộ binh cận vệ 2 của tướng A. P. Beloborodov gồm 3 sư đoàn bộ binh (16, 117 và 360) phối hợp tấn công ở phía Nam Nevel. Bộ tư lệnh Phương diện quân Kalinin lấy từ lực lượng dự bị của mình Sư đoàn bộ binh 47 và các lữ đoàn xe tăng 143, 236 phối thuộc cho Tập đoàn quân xung kích 3 và Quân đoàn bộ binh cận vệ 2. Tập đoàn quân không quân 3 của tướng N. P. Papivin được lệnh huy động Sư đoàn tiêm kích 240 và Sư đoàn cường kích 211 yểm hộ cho chiến dịch.
Tướng K. N. Galitsky bố trí các sư đoàn bộ binh 28, 357 và Lữ đoàn bộ binh 31 ở thê đội 1 gồm các trung đoàn bộ binh cơ giới hóa và 1 lữ đoàn cơ giới. Những lực lượng này sẽ đột phá vào Emenka (???) và Shestikha (???), sau đó đánh chiếm Cheretvitsy và Vorotno, khóa chặt hướng Nevelyom (???) rồi đột nhập vào thành phố từ hướng Đông Bắc và hướng Tây. Thê đội 2 gồm Sư đoàn bộ binh 21 và Lữ đoàn 78 được dùng để mở rộng đột phá khẩu và tăng tốc độ tấn công. Lực lượng dự bị chiến dịch gồm Sư đoàn bộ binh cận vệ 46 và Lữ đoàn bộ binh 100 có nhiệm vụ sẵn sàng cơ động đánh tạt sườn các sư đoàn Đức kéo đến tăng viện. Bên cánh trái Tập đoàn quân xung kích 3, Sư đoàn bộ binh 360 của Tập đoàn quân xung kích 4 sẽ mở một cuộc tấn công từ giữa hai hồ Sviro và Gorolitsa đánh vào Bolchi Gory (???), Pestriki (???), Zelennye Luga (???), Goroditsye (???), Redotenki (???) và Shurmyelev (???) ở hai bên hồ Yezerishye. Chủ lực của Quân đoàn bộ binh cận vệ 2 sẽ phối hợp với Sư đoàn bộ binh 47 (Quân đoàn bộ binh 83) đánh chiếm Zavesno (???) và Prudok (???). Mật độ pháo binh trên hướng đột phá được bảo đảm 75 nòng súng trên 1 km (không kể súng cối 82 mm và pháo chống tăng 45 mm). Dự kiến đợt pháo kích mở màn sẽ kéo dài 1 giờ với 3 cơ số đạn dự phòng. Không quân cường kích của Tập đoàn quân không quân 3 phải tăng cường ném bom, bắn phá, ngăn chặn trên các tuyến đường sắt Plotsk đi Dretyn và Nevel qua Ezerishche đi Gorodok. Ngày 2 tháng 10, kế hoạch tấn công được phổ biến đến chỉ huy cấp trung đoàn, tiểu đoàn. Từ ngày 3 tháng 10 đến ngày 5 tháng 10, các đơn vị tiến hành tập trận có bắn đạn thật ở các vị trí cách tiền duyên từ 7 đến 10 km. Thời điểm tấn công được ấn định vào ngày 6 tháng 10.
Cùng thời điểm 10 giờ sáng ngày 6 tháng 10, các Sư đoàn bộ binh 117 và 360 của Tập đoàn quân xung kich 4 đã giáng tiếp một đòn đột kích vào cụm cứ điểm Bolshoy Budnitsa (???) do Sư đoàn đổ bộ đường không 2 (Đức) phòng thủ. Thời gian pháo kích chuẩn bị khoảng 1 giờ và tiếp đó là các cuộc tấn công mặt đất kéo dài nửa giờ của Sư đoàn cường kích 211 (Liên Xô) đủ để phá hủy những trận địa pháo và những hỏa điểm quan trọng của quân Đức. 11 giờ cùng ngày, Lữ đoàn xe tăng 236 được đưa đến cửa đột phá và khoét sâu thêm 5 km vào tuyến phòng thủ trong cùng của quân Đức. 18 giờ cùng ngày, Sư đoàn bộ binh 47 (Liên Xô) hoàn toàn làm chủ Bolshoy Budnitsa (???), Sư đoàn bộ binh 350 cũng đánh chiếm cứ điểm Malyi Budnitsa (???). Lữ đoàn xe tăng 236 thọc sâu sang phía Tây đã cắt đứt đường sắt Nevel - Gorodok.
14 giờ ngày 6 tháng 10, Lữ đoàn xe tăng 78 và Sư đoàn bộ binh 21 (Liên Xô) đã quét sạch bờ Nam hồ Nevel và bắt đầu công kích thành phố. Chiều tối ngày 6 tháng 10, Sư đoàn bộ binh 21 và Lữ đoàn xe tăng 78 đánh bật Sư đoàn bộ binh 291 (Đức) khỏi Nevel và truy kích sang phía Tây. Tuy nhiên, sức kháng cự quyết liệt của các sư đoàn bộ binh 58 và 263 (Đức) trước cuộc tiến công của Sư đoàn bộ binh 357 (Liên Xô) có nguy cơ làm hỏng toàn bộ chiến dịch. Lữ đoàn xe tăng 78 (Liên Xô) tiếp tục được tướng K. N. Galistky đưa đến khu vực đột phá. Sư đoàn bộ binh 28 được điều động lật cánh lên phía Bắc, hỗ trợ cho Sư đoàn bộ binh 357. Ngày 7 tháng 10, được sự trợ giúp của Sư đoàn bộ binh 28, Sư đoàn bộ binh 357 đã vượt qua phía Nam hồ Ibak và đánh chiếm Bykovo (???). Sư đoàn bộ binh 28 đánh bật các cuộc phản kích của Sư đoàn bộ binh 263 (Đức), đánh chiếm Verkhitno (???), phía Bắc Nevel.
Chiến thắng đã đạt được một cách nhanh chóng khiến Tư lệnh Phương diện quân Kalinin A. I. Yeryomenko nghi ngờ độ chính xác của các báo cáo. Khi đích thân K. N. Galitsky báo cáo xác nhận và đề xuất phát triển một cuộc tấn công mới vào Idritsa và Polotsk thì A. I. Yeryomenko cho tình hình trên mặt trận Kalinin vẫn căng thẳng nên không ủng hộ đề xuất đó và ra lệnh củng cố phòng ngự quanh Nevel. Đến cuối ngày 8 tháng 10, quân đội Liên Xô triển khai phòng thủ ở phía Bắc và phía Tây thành phố. Toàn Sư đoàn bộ binh Ba Lan 1 có quân số 12.863 sĩ quan và binh sĩ, được trang bị 41 xe tăng T-34, 391 lựu pháo các cỡ, 335 pháo chống tăng, 673 súng cối, 1.724 đại liên và trung liên. Trong đội hình không quân Liên Xô tham gia trận đánh còn có Phi đoàn Normandie-Niemen được trang bị máy bay tiêm kích Liên Xô do các phi công Pháp điều khiển.
Ngày 30 tháng 9, Hội đồng quân sự Phương diện quân Tây phê chuẩn kế hoạch tấn công. Ngày 3 tháng 10, các tập đoàn quân 33, 10 và 21 bắt đầu triển khai các quân đoàn, sư đoàn thuộc thê đội 1. Sư đoàn bộ binh Ba Lan 1 được bố trí phía trước thị trấn Nikolaniki (???) trong một khu rừng gần làng Seltsy (???), Tây Bắc Lenino 15 km, nằm trong đội hình thê đội 2 phía sau các sư đoàn bộ binh 42, 290 và sẽ tấn công ở giữa hai sư đoàn này. Đóng đối diện với các lực lượng Liên Xô- Ba Lan là Sư đoàn bộ binh 337 (tái lập) và Sư đoàn bộ binh 113 thuộc Quân đoàn xe tăng 39 (Đức), tổng quân số khoảng 20.000 người, được trang bị 34 xe tăng và pháo tự hành, 595 pháo các cỡ, 76 súng cối, 137 súng máy hạng nặng và 18 súng phun lửa đặt trên xe thiết giáp. Phía sau hai sư đoàn này là Sư đoàn xe tăng 25 và một sư đoàn vệ binh SS đóng tại Punchitse.
5 giờ 55 phút sáng 12 tháng 10 năm 1943, pháo binh của Tập đoàn quân 33 (Liên Xô) bắt đầu nhả đạn vào các vị trí phòng thủ của quân đội Đức Quốc xã bên kia sông Mereya tại các cứ điểm Sulino (???), Polzhuchy (???), Trigubovo, Lenino, các điểm cao 217,6 và 215,5. Theo kế hoạch, các sư đoàn của Tập đoàn quân 33 phải tấn công lúc 7 giờ 35 phút nhưng một màn sương mù dày đặc đã bao trùm lên toàn bộ trận địa của quân Đức. Tầm nhìn xa giảm xuống dưới 50 m. Pháo binh Liên Xô phải ngừng bắn vì không nhìn thấy mục tiêu và vị trí đạn rơi. 8 giờ 20 phút, sương tan dần, tướng V. N. Gordov ra lệnh dùng cơ số đạn dự phòng thứ nhất tiếp tục pháo kích thêm 40 phút. 9 giờ sáng, các sư đoàn 42 và 290 Liên Xô mới khởi sự tấn công nhưng tính bất ngờ của trận đánh đã bị mất.
Trên cánh trái, Sư đoàn bộ binh 290 (Liên Xô) nhanh chóng vượt sông Mereya và đến 11 giờ ngày 12 tháng 10, đã làm chủ hoàn toàn thị trấn Lenino. Bên cánh phải, Sư đoàn bộ binh 42 (Liên Xô) bị mắc kẹt tại bờ Tây sông Mereya dưới chân điểm cao 217,6 và đến 12 giờ trưa vẫn dẫm chân tại chỗ. 10 giờ 30 cùng ngày, các trung đoàn bộ binh Ba Lan 1, 2 và Lữ đoàn xe tăng Ba Lan 1 đã vượt sông Mereya thành công và bắt đầu đột kích vào các cứ điểm phòng thủ của quân Đức tại Polzhuchy và điểm cao 215,5. Sau một giờ tấn công, hai trung đoàn bộ binh Ba Lan đã đánh chiếm các cứ điểm này. Quân Đức kháng cự quyết liệt. Trung đoàn bộ binh 313 (Đức) vẫn giữ vững điểm cao 217,6 trước các đợt công kích của Sư đoàn bộ binh 42 (Liên Xô). Trung đoàn bộ binh 261 thuộc Sư đoàn 113 (Đức) có 12 xe tăng yểm hộ được điều ra hướng Polzhuchy chặn mũi tấn công của Trung đoàn bộ binh Ba Lan 2, Trung đoàn bộ binh 688 (Sư đoàn 337) có tiểu đoàn pháo chống tăng cơ giới yểm hộ đã tổ chức phản kích nhằm chiếm lại điểm cao 215,5. Đến cuối buổi chiều ngày 12 tháng 10, Quân Đức chiếm nửa phía Tây điểm cao 215,5, Trung đoàn bộ binh Ba Lan 1 chiếm nửa phía Đông.
Đêm 12 tháng 10, Tiểu đoàn trinh sát của Sư đoàn bộ binh Ba Lan 1 đã bất ngờ đột nhập vào làng Trigubovo, phá tan Sở chỉ huy của Sư đoàn bộ binh 337 (Đức) và rút lui an toàn về bờ sông Mereya. Quân Đức cũng trả đũa bằng cách sử dụng những lính Đức biết tiếng Ba Lan ở vùng Silezia trà trộn vào phòng tuyến của quân Ba Lan và bất ngờ nổ súng giết chết và làm bị thương một số binh lính, sĩ quan của Sư đoàn bộ binh Ba Lan 1. Tuy nhiên, không có lính Đức nào còn sống sót trong các cuộc đột nhập này.
Để phá vỡ thế bế tắc, sáng ngày 13 tháng 10, tướng V. N. Gordov lệnh cho tướng Zygmunt Berling tung Trung đoàn bộ binh Ba Lan 3 từ thê đội 2 lên tham chiến. Tướng Zygmunt Berling yêu cầu tướng V. N. Gordov xem xét lại lệnh này bởi các trung đoàn bộ binh Ba Lan và Liên Xô đã chịu thương vong nặng nề sau một ngày chiến đấu và Tập đoàn quân 33 đã bị mất lợi thế bất ngờ ngay từ đầu buổi sáng 12 tháng 10. Ông đề nghị nên giữ vững các bàn đạp mới chiếm được bằng chiến thuật phòng ngự tích cực. Tướng V. N. Gordov bác đề nghị của tướng Zygmunt Berling và giữ nguyên lệnh tiếp tục tấn công sau khi pháo binh bắn chuẩn bị 20 phút. Tướng Zygmunt Berling vẫn thi hành mệnh lệnh nhưng rất bất bình trước quyết định này.
Sử dụng quyền hạn chỉ huy quân đội nước ngoài của mình, tướng Zygmunt Berling dùng điện thoại cao tần báo cáo thẳng ý kiến của mình lên Nguyên soái A. M. Vasilevsky, Tổng tham mưu trưởng Quân đội Liên Xô. A. M. Vasilevsky đồng ý với Zygmunt Berling và khẩn trương báo cáo, xin ý kiến của I. V. Stalin. Trong khi chờ đợi Moskva trả lời, Sư đoàn bộ binh Ba Lan 1 vẫn tiếp tục chiến đấu. Dù đã đưa 2 lữ đoàn cơ giới của Quân đoàn cơ giới 5 vào chiến đấu trong hành lang của Sư đoàn bộ binh 42 (Liên Xô) nhưng trong suốt ngày 13 tháng 10, các sư đoàn của Tập đoàn quân 33 và Sư đoàn bộ binh Ba Lan 1 không những không thể tiến lên được. Ngay từ buổi trưa, họ đều phải chuyển sang tư thế tác chiến phòng ngự cứng rắn trước các cuộc phản đột kích của Sư đoàn xe tăng 25 (Đức) để giữ vững các vị trí đã chiếm được.
17 giờ cùng ngày. Moskva có điện trả lời. I. V. Stalin kịch liệt quở trách tướng V. N. Gordov đã vi phạm nghiêm trọng quyền quyết định tham gia tác chiến của quân đội nước ngoài, đã không báo cáo trung thực lên Đại bản doanh về việc để cho Sư đoàn bộ binh Ba Lan 1 bị thiệt hại nặng. I. V. Stalin cũng ra lệnh trước 17 giờ ngày 14 tháng 10, tướng V. N. Gordov phải chịu trách nhiệm cá nhân về việc điều Sư đoàn bộ binh 164 (Liên Xô) vượt sông Mereya sang Lenino thay thế ch