✨Chiến dịch phản công Belgorod–Kharkov

Chiến dịch phản công Belgorod–Kharkov

Chiến dịch phản công Belgorod–Kharkov là một chuỗi các hoạt động quân sự lớn do hai phương diện quân Voronezh và Thảo nguyên của Quân đội Liên Xô làm chủ lực, có sự hỗ trợ của Phương diện quân Tây Nam, thực hiện các đòn phản công vào cánh Bắc của Cụm tập đoàn quân Nam (Đức). Diễn ra từ ngày 12 tháng 7 đến ngày 23 tháng 8 năm 1943 ngay sau khi cuộc tấn công của quân đội Đức Quốc xã tại mặt Nam của vòng cung Kursk thất bại, chiến dịch này còn được lịch sử cuộc Chiến tranh vệ quốc vĩ đại ghi lại dưới cái tên Chiến dịch Thống soái Rumyantsev (операция "Полководец Румянцев").

Chiến dịch gồm ba giai đoạn chính:

  • Giai đoạn 1: Diễn ra từ ngày 12 đến ngày 19 tháng 7 với địa bàn hoạt động chủ yếu nằm tại bên trong vòng cung Kursk, ở những nơi mà Cụm tập đoàn quân Nam của quân đội Đức Quốc xã đã lấn vào trong giai đoạn đầu của Trận Kursk. Giai đoạn này kết thúc bằng việc Quân đội Liên Xô đẩy lùi quân đội Đức Quốc xã khỏi vòng cung Kursk và khôi phục lại hình thế chung của tuyến mặt trận như trước ngày 5 tháng 7 năm 1943.
  • Giai đoạn 2: Từ ngày 3 tháng 8 đến ngày 16 tháng 8, Quân đội Liên Xô tấn công trên toàn tuyến, đẩy lùi các Tập đoàn quân của cụm tập đoàn quân Nam về phia Tây, Tây Nam và Nam từ 100 đến 140 km, đánh chiếm Belgorod, Grayvoron, Trostianets, Zolochev, Bogodukhov, Aktyrka và Chuguiev, bao vây thành phố Kharkov ở phía nam và áp sát thành phố Sumy ở phía tây. Ba sư đoàn xe tăng và một sư đoàn cơ giới Đức Quốc xã tổ chức cuộc phản công lớn vào cánh phải của Phương diện quân Voronezh nhưng đã bị ba tập đoàn quân Liên Xô chặn lại.
  • Giai đoạn 3: Từ ngày 12 đến ngày 23 tháng 8, quân đội Liên Xô tiếp tục tấn công, phía tây tiến ra tuyến Sumy, Lebedin, Gadyach; phía đông đánh chiếm Kharkov ngày 23 tháng 8. Quân đội Đức Quốc xã phản công lấy lại Aktyrka, đẩy lùi Tập đoàn quân 27 (Liên Xô) về Marla (???), Tập đoàn quân xe tăng 1 (Liên Xô) cũng bị đánh bật trở lại Olshany. Phương diện quân Tây Nam vượt sông Bắc Donets ngày 13 tháng 8, đánh chiếm Zmiev. Thế trận tiếp tục chuyển biến về phía tây khi quân đội Liên Xô mở tiếp Trận đánh sông Dnepr, thu hồi toàn bộ vùng tả ngạn Ukraina và tiến ra tuyến sông Dniepr.

Là một phần của Trận Kursk, Chiến dịch phản công Belgorod–Kharkov khoét sâu thêm vào những tổn thất của quân đội Đức Quốc xã trong trận này. Tuy nhiên, quân đội Liên Xô đã không thực hiện được các trận bao vây, tiêu diệt lớn đối với cánh Bắc của Cụm tập đoàn quân Nam (Đức) vốn đã suy yếu. Các cuộc phản kích của các sư đoàn xe tăng Đức đã chặn được đà tấn công của Quân đội Liên Xô, tạo điều kiện cho Cụm tập đoàn quân Nam Đức rút được một phần cơ bản lực lượng xe tăng về thiết lập phòng tuyến sông Dniepr mà người Đức gọi là "Chiến lũy phía đông".

Bối cảnh

Sau khi chặn đứng các mũi tấn công của quân Đức trong Trận Kursk, các phương diện quân ở hướng trung tâm và hướng Nam mặt trận Xô-Đức đã nhanh chóng mở một loạt các chiến dịch phản công ở Smolensk, Donbas, Novgorod, Mginsk (phía nam Hồ Ladoga), Melitopol... Các cuộc phản công tại hai mặt Nam và Bắc của chỗ lồi Kursk được tiến hành ngay sau khi quân đội Liên Xô chặn đứng quân đội Đức Quốc xã tại Ponyri và Prokhorovka nhằm đẩy quân phát xít Đức ra khỏi khu vực. Ở mặt Nam, ngày 3 tháng 8 năm 1943, Quân đội Liên Xô tiến hành chiến dịch Nguyên soái Rumyantsev với mục tiêu là hai thành phố Belgorod và Kharkov. Cuộc phản công diễn ra trong điều kiện quân đội hai bên, đặc biệt là lực lượng xe tăng - thiết giáp đều chịu nhiều thiệt hại nặng nề trong các trận đánh xe tăng có mật độ và quy mô lớn nhất trong chiến tranh thế giới thứ hai. Ưu thế về lực lượng dự bị đã đem lại cho quân đội Liên Xô một sức mạnh mới. Trong khi đó, quân đội Đức Quốc xã bị tấn công trên khắp các mặt trận chỉ còn trông chờ vào những lực lượng được rút từ nước Đức và Tây Âu. Tuy nhiên, cuộc đổ bộ của quân đồng minh Hoa Kỳ và Anh lên Sicilia đã làm cho Bộ chỉ huy tối cao Đức không dám đưa những lực lượng dự bị lớn sang mặt trận phía đông như hồi đầu mùa hè năm 1943. Quân đội Đức Quốc xã chỉ còn trông chờ vào việc rút các lực lượng xe tăng - thiết giáp còn lại ra khỏi các trận tao ngộ chiến để điều đến những hướng bị uy hiếp và vá víu những lỗ hổng trên các tuyến phòng thủ.

Binh lực và kế hoạch

Quân đội Liên Xô

Binh lực

  • Phương diện quân Voronezh do đại tướng N. F. Vatutin làm tư lệnh, trong biên chế có: Tập đoàn quân 38 do thượng tướng N. E. Chibisov chỉ huy gồm các quân đoàn bộ binh cận vệ 17, 21, 74 và sư đoàn bộ binh độc lập 125; các trung đoàn cơ giới cận vệ 7 và 9; sư đoàn pháo binh 13; các trung đoàn pháo binh cận vệ 24 và 76; các trung đoàn pháo chống tăng 805, 315 316 và 222; các trung đoàn pháo phản lực 1076, 1593, 1663 và 1689; các trung đoàn súng cối 3, 491 và 314; sư đoàn phòng không 21 và trung đoàn phòng không độc lập 1288. Tập đoàn quân 40 do thượng tướng K. S. Moskalenko chỉ huy gồm các quân đoàn bộ binh 50, 51, Lữ đoàn bộ binh Tiệp Khắc 1, lữ đoàn pháo tự hành 33; sư đoàn pháo binh 33, các lữ đoàn pháo binh cận vệ 4 và 8, các trung đoàn pháo binh 25 và 317; các lữ đoàn pháo chống tăng 16 và 328, các trung đoàn pháo phản lực 1666 và 1667, các trung đoàn súng cối 9, 10 và 493; sư đoàn phòng không 9. Tập đoàn quân xe tăng 1 do trung tướng M. E. Katukov chỉ huy, gồm các quân đoàn xe tăng 6, 31 và Quân đoàn cơ giới 3. Tập đoàn quân cận vệ 6 của tướng I. M. Chistyakov gồm các quân đoàn bộ binh cận vệ 22, 23; Quân đoàn cơ giới 8 (nâng cấp từ Lữ đoàn xe tăng cận vệ 38); các trung đoàn cơ giới cận vệ 3, 27 và 30; các sư đoàn pháo binh 20, 27 và sư đoàn súng cối cận vệ 19. Tập đoàn quân cận vệ 4 do thượng tướng G. I. Kulik chỉ huy, gồm các quân đoàn bộ binh cận vệ 20 và 21; quân đoàn xe tăng cận vệ 3; các sư đoàn pháo binh 33 và 452, sư đoàn súng cối 466 và sư đoàn phòng không 27. Tập đoàn quân 27 do tướng S. G. Trofimenko chỉ huy, trong biên chế có quân đoàn bộ binh 47, các sư đoàn bộ binh 206, 309 và 337; các sư đoàn pháo binh 480, 680, sư đoàn súng cối 492, sư đoàn phòng không 249, trung đoàn pháo phản lực 1672. ** Tập đoàn quân không quân 2.
  • Phương diện quân Thảo nguyên do thượng tướng I. S. Koniev làm tư lệnh, trong biên chế có: Tập đoàn quân 47 do trung tướng P. P. Korzun chỉ huy, gồm các quân đoàn bộ binh 102, 106 và 120; Sư đoàn pháo binh 123; Sư đoàn súng cối 460 và sư đoàn phòng không 488. Tập đoàn quân xe tăng cận vệ 5 do thượng tướng P. A. Rotmistrov chỉ huy, gồm các quân đoàn xe tăng 10, 18, 29 và quân đoàn cơ giới cận vệ 5. Tập đoàn quân 53 do tướng M. I. Managarov chỉ huy, gồm các quân đoàn bộ binh 48 và 75, Quân đoàn kỵ binh cận vệ 7, các lữ đoàn bộ binh độc lập 63 và 122; các sư đoàn pháo binh 16 và 31, các trung đoàn pháo phản lực 1316 và 1328, các trung đoàn súng cối cận vệ 89, 96; các trung đoàn súng cối 232 và 461; sư đoàn phòng không 30. Tập đoàn quân cận vệ 5 của tướng A. S. Zhadov gồm Quân đoàn xe tăng 2 và các quân đoàn bộ binh cận vệ 32, 33; 1 sư đoàn pháo binh, 2 trung đoàn sung cối, 1 lữ đoàn pháo chống tăng, 2 trung đoàn phòng không. Tập đoàn quân cận vệ 7 do tướng M. S. Sumilov chỉ huy gồm các quân đoàn bộ binh cận vệ 24 và 25, các sư đoàn bộ binh độc lập 3 và 303; lữ đoàn xe tăng 27; sư đoàn pháo binh 11, sư đoàn pháo binh cận vệ 161, các trung đoàn pháo phản lực 1661 và 1669, các trung đoàn súng cối cận vệ 114 và 115; sư đoàn phòng không 5. Tập đoàn quân 69 do tướng V. D. Kryuchenkin chỉ huy gồm Quân đoàn cơ giới cận vệ 1, Quân đoàn bộ binh cận vệ 31 và Quân đoàn bộ binh 67; các sư đoàn pháo binh 22 và 68; sư đoàn súng cối 256 và sư đoàn phòng không 294. ** Tập đoàn quân không quân 5.
  • Phương diện quân Tây Nam do thượng tướng R. Ya. Malinovsky làm tư lệnh, huy động một tập đoàn quân tham gia chiến dịch theo kế hoạch của Bộ Tổng tư lệnh Liên Xô: ** Tập đoàn quân 57 do trung tướng N. A. Gagen chỉ huy, gồm các quân đoàn bộ binh 49, 64 và 68; sư đoàn bộ binh độc lập 53; các sư đoàn pháo binh 374 và 595; sư đoàn súng cối 523; lữ đoàn pháo chống tăng cận vệ 80; các lữ đoàn phòng không 71, 227, 258; lữ đoàn xe tăng 96.

Kế hoạch

Ý đồ của Bộ Tổng tư lệnh quân đội Liên Xô là nhân lúc Cụm tập đoàn quân Nam Đức đang rút lui sau những thiệt hại trong "Chiến dịch Thành Trì", cần phát động ngay các cuộc phản công quy mô lớn, đẩy quân Đức về phía tây và Tây Nam. Trong hai hướng tấn công chính ở phía nam vòng cung Kursk, hướng Tây bị loại bỏ vì các tập đoàn quân 38, 60, 65 và 70 (Liên Xô) đang phòng ngự trên chính diện Sevsk - Sumy không chiếm ưu thế về binh lực so với Tập đoàn quân 2 (Đức). Việc chuyển các đơn vị đột kích mạnh (chủ yếu là xe tăng) đến hướng này mất nhiều thời gian và công sức. Điểm quan trọng nhất là tấn công từ một chỗ lồi như Kursk rất dễ gặp phải đòn phản kích mạnh của quân đội Đức Quốc xã từ hai bên sườn như đã từng xảy ra đối Phương diện quân Tây Nam tại Chiến dịch Barvenkovo-Lozovaya hồi mùa hè năm 1942. Hướng Belgorod - Kharkov an toàn hơn nhưng ở đây lại có các đơn vị xe tăng mạnh của cánh Nam cụm Tập đoàn quân Nam mới được kéo lên tăng cường và một số sư đoàn Đức được điều từ lực lượng dự bị đến. Do đó, cần huy động ít nhất 2 tập đoàn quân xe tăng đột kích theo cách chia cắt các cụm phòng ngự của quân Đức thành từng cụm, sau đó mới đánh bại từng cụm một để mở đường đến Kharkov.

Những đơn vị quân đội Liên Xô đã bị tổn thất trong chiến đấu đã được phục hồi sức mạnh nhờ sự tăng viện từ hậu phương của họ. Tập đoàn quân 69 được bổ sung hơn 20.000 người, các tập đoàn quân 53 và cận vệ 7 được bổ sung khoảng 15.000 người. Tập đoàn quân xe tăng 1 và Tập đoàn quân xe tăng cận vệ 5 được bổ sung 200 xe tăng T-34, 100 xe tăng T-70, 35 xe tăng KV. Hai trung đoàn pháo tự hành cũng được bổ sung cho hai tập đoàn quân xe tăng, mỗi tập đoàn quân được 1 trung đoàn. Các tập đoàn quân không quân 2 và 5 cũng được bổ sung 90 máy bay tiêm kích Yak-3, Yak-9 và La-5, 40 máy bay ném bom Pe-2 và 60 máy bay cường kích IL-2. Mật độ hỏa lực trên các hướng tấn công chính của các tập đoàn quân xe tăng được nâng lên. Tại địa đoạn Godmishevo - Vorskla với chiều rộng chỉ 20 km đã có 230 khẩu pháo và súng cối mỗi cây số cùng 70 xe tăng mỗi cây số chính diện đột phá.

Quân đội Đức Quốc xã

Thượng tướng Werner Kempf, Tư lệnh cụm tác chiến Kemf (phải), trung tướng Hermann Breith, Tư lệnh Quân đoàn xe tăng 3 (giữa) nghe báo cáo của thiếu tướng Walter Chales de Beaulieu, Tư lệnh sư đoàn 168 (trái). Kharkov, 1943

Binh lực

Mặc dù bị sứt mẻ một lực lượng xe tăng lớn trong các cuộc tấn công vào chính diện phía nam của vòng cung Kursk nhưng Cụm tập đoàn quân Nam (Đức) vẫn nắm trong tay một lực lượng phòng thủ khá mạnh do chuyển giao các lực lượng mạnh từ Tập đoàn quân xe tăng 1 và Cụm tác chiến Hollidt tăng cường cho Tập đoàn quân xe tăng 4 và cụm tác chiến "Kemf". Trong chiến dịch, những lực lượng được điều lên phía bắc có Sư đoàn cơ giới SS "Wiking" (từ Tập đoàn quân xe tăng 1), Quân đoàn xe tăng 24 (từ Cụm tác chiến Hollidt). Đổi lại, Tập đoàn quân xe tăng 1 nhận được từ Tập đoàn quân xe tăng 4: Quân đoàn bộ binh 52 (quân đoàn Hannover) của tướng Eugen Ott còn lại các sư đoàn bộ binh 57, 112 và một trung đoàn của sư đoàn bộ binh 255. Các sư đoàn xe tăng đã bị tổn thất trong Chiến dịch Thành trì cũng được củng cố lại thành hai cụm xe tăng đóng ở phía tây và phía nam Kharkov.

  • Tập đoàn quân xe tăng 4 của tướng Hermann Hoth, biên chế còn lại gồm: Quân đoàn xe tăng 48 của tướng Otto von Knobelsdorff còn lại Sư đoàn xe tăng 11, một trung đoàn của sư đoàn cơ giới "Großdeutschland", một trung đoàn của sư đoàn bộ binh 176; được chuyển thuộc Sư đoàn xe tăng 19 từ Quân đoàn xe tăng 3. Quân đoàn xe tăng 2 SS còn lại một trung đoàn của sư đoàn xe tăng 2 SS ("Das Reich"), một trung đoàn của sư đoàn xe tăng 3 SS("Totenkopf") và 2 trung đoàn của sư đoàn xe tăng 1 SS ("Adolf Hitler"), cuối chiến dịch được tăng cường sư đoàn cơ giới SS "Wiking" lấy từ Tập đoàn quân xe tăng 1.
  • Biên chế bổ sung, thay thế: Quân đoàn xe tăng 24 của tướng Walther Nehring được điều từ Cụm tác chiến Hollidt đến gồm Sư đoàn xe tăng 27, sư đoàn cơ giới 3, các sư đoàn bộ binh 10 và 34. Quân đoàn bộ binh 7 của tướng Ernst-Eberhard Hell được điều từ Tập đoàn quân 2 đến thay thế Quân đoàn cơ giới 57 gồm các sư đoàn bộ binh 68, 75 và 208. ** Sư đoàn đổ bộ đường không 2 của tướng Bernhard Ramcke.
  • Cụm tác chiến Kemf của tướng Werner Kempf (đến ngày 22 tháng 8 được đổi thành Tập đoàn quân 8), biên chế còn lại gồm: Quân đoàn xe tăng 3 của tướng Hermann Breith, còn lại 2 trung đoàn của Sư đoàn xe tăng 6 và sư đoàn bộ binh 168; được bổ sung Sư đoàn xe tăng 14 (tái lập từ lực lượng dự bị), Sư đoàn cơ giới 10 (từ lực lượng dự bị), Sư đoàn bộ binh 376 (tái lập, từ Hà Lan sang). Quân đoàn Raus của tướng Erhard Raus được thay thế hoàn toàn lực lượng gồm trung đoàn còn lại của sư đoàn bộ binh 167 (vốn thuộc Quân đoàn xe tăng 2 SS), Sư đoàn bộ binh 72 (từ tập đoàn quân 9), Sư đoàn bộ binh nhẹ 676 và Sư đoàn cơ giới 5 (từ lực lượng dự bị). ** Quân đoàn bộ binh 42 của tướng Franz Mattenklott còn lại một trung đoàn của Sư đoàn xe tăng 13, bốn trung đoàn của các sư đoàn bộ binh 355, 381 và một trung đoàn của sư đoàn bộ binh 153.
  • Tập đoàn quân không quân 4 của tướng Wolfram von Richthofen còn 796 máy bay.

Kế hoạch

Mặc dù đã được tăng viện nhưng Tập đoàn quân xe tăng 4 và cụm tác chiến Kemf (Đức) vẫn không đủ lực lượng để rải ra phòng ngự trên toàn tuyến mặt trận. Áp dụng "chiến thuật con nhím" từ kinh nghiệm Trận Stalingrad, thống chế Erich von Manstein sử dụng các đơn vị bộ binh thiết lập các cụm phòng ngự xung quanh các đô thị, thị trấn, các điểm dân cư và các đầu mối giao thông ở phía đông mặt trận nơi tập trung các binh đoàn đột kích mạnh của cả hai bên. Ông cũng áp dụng chiến thuật phòng ngự theo tuyến ở phía Tây và Đông Nam, nơi mật độ binh lực thưa hơn. Lực lượng mới của Quân đoàn bộ binh 7 phòng thủ địa đoạn từ Krasnopolye đến Laptevka; Quân đoàn xe tăng 3 thiết lập hai cụm phòng ngự ở Borisovka, Tomarovka và cùng với Quân đoàn Raus thiết lập cụm phòng thủ lớn nhất ở Belgorod. Quân đoàn bộ binh 42 thiết lập tuyến phòng ngự từ Nam Belgorod đến Chuguyevsk. Các sư đoàn xe tăng chủ lực đóng ở các cụm phòng ngự phía trong đồng thời làm nhiệm vụ dự bị cơ động. Riêng cụm phòng thủ Kharkov được giao cho Quân đoàn xe tăng 24 đảm nhận.

Lực lượng xe tăng và pháo tự hành của Tập đoàn quân xe tăng 4 và cụm tác chiến Kemf bị tổn thất trong Chiến dịch Thành trì chỉ còn không quá 250 chiếc đã được tăng viện khoảng 350 chiếc của các sư đoàn xe tăng 5, 27, các sư đoàn cơ giới 3 và "Wiking" và một phần dữ trữ chiến lược được chuyển từ Đức sang. Nhưng bấy nhiêu vẫn là chưa đủ để phòng thủ một địa bàn rộng gấp hơn 10 lần diện tích mà gần như cả Tập đoàn quân xe tăng 4 đã tràn vào trong thời gian từ ngày 5 đến 12 tháng 7 tại phía trong vòng cung Kursk. Vì vậy, chiến thuật phòng ngự tại chỗ của các quân đoàn Đức ở tuyến ngoài kết hợp với phòng ngự cơ động bằng xe tăng ở phía trong phụ thuộc rất nhiều vào hoạt động của không quân, đặc biệt là các máy bay cường kích. Ngoài 769 máy bay còn hoạt động được của tập đoàn quân không quân 4 do tướng Wolfram von Richthofen điều hành, thống chế Erich von Manstein còn phải dựa vào Tập đoàn quân không quân 6 của tướng Ritta von Greim. Tuy nhiên, chính tập đoàn quân không quân này cũng đang phải căng lực lượng ra để yểm hộ cho các tập đoàn quân 9 và xe tăng 2 (Đức) ở "chỗ lõm" Oryol. Và đến khi các phương diện quân cánh Nam quân đội Liên Xô mở cuộc tổng phản công tới sông Dniepr và các phương diện quân Liên Xô ở hướng trung tâm mặt trận Xô-Đức mở Chiến dịch Smolensk (1943) ngày 7 tháng 8 thì Tập đoàn quân không quân 6 không còn đủ máy bay để hỗ trợ cho Cụm tập đoàn quân Nam nữa.

Diễn biến

Diễn biến cuộc phản công của quân đội Liên Xô tại cánh Nam của vòng cung Kursk, tháng 8 năm 1943

Trở về tuyến mặt trận cũ

Sáng 13 tháng 7, trong khi Tập đoàn quân xe tăng 5 chưa thể phục hồi sau trận đấu tăng tại Prokhorovka thì Tập đoàn quân cận vệ 5 đã thay thế họ mở cuộc phản công, truy kích quân Đức đang rút lui khỏi khu vực tả ngạn sông Psyol. Từ sở chỉ huy tập đoàn quân 69, nguyên soái G. K. Zhukov gửi bức điện báo cáo kế hoạch phản công về Đại bản doanh, ông nhận định:

Dù bị thiệt hại lớn về xe tăng nhưng tướng Hermann Hoth không hề có ý định buông xuôi để cuộc rút lui biến thành một cuộc tháo chạy. Tảng sáng ngày 14 tháng 7, Quân đoàn xe tăng 2 SS đã phát động một cuộc tấn công ở phía đông vào Tập đoàn quân 69 (Liên Xô) đang phòng ngự tại khu vực Luchi, Gostischevo, Shakhovo. 19 giờ cùng ngày Sư đoàn xe tăng 2 SS "Adolf Hitler" chiếm Ivanovka (???). Quân đoàn xe tăng 3 của Cụm tác chiến "Kempf" cũng tấn công quân đội Liên Xô từ phía đông. Đến cuối ngày, quân đoàn này thanh toán được mối đe dọa bên sườn Quân đoàn xe tăng 48 (Đức). Đêm 15 tháng 7, phần lớn Quân đoàn xe tăng 48 (Đức) rút khỏi trận địa phía trước Tập đoàn quân 69 (Liên Xô) với sự yểm hộ hai bên sườn của Quân đoàn xe tăng 2 SS và Quân đoàn xe tăng 3. Ngày 16 tháng 7, Tập đoàn quân xe tăng 1 (Liên Xô) đã tiến ra tuyến đầu thay thế cho Tập đoàn quân cận vệ 6 rút về Oboyan để củng cố lại. Tướng Erich von Manstein cũng rút các sư đoàn xe tăng (Đức) đã bị tổn thất ra phía sau.

Ngày 1 tháng 8, nguyên soái G. K. Zhuykov thống nhất với đại tướng N,. F. Vatutin chọn sở chỉ huy của Tập đoàn quân cận vệ 5 đặt tại Pokrovka làm sở chỉ huy chung của chiến dịch. Trước đó, N. F. Vatutin đã chuyển sở chỉ huy của Phương diện quân Voronezh từ Oboyan đến Pokrovka từ ngày 30 tháng 7. Thượng tướng I. S. Koniev, tư lệnh Phương diện quân Thảo nguyên cũng chuyển sở chỉ huy của mình từ Voronezh đến Korocha ngày 27 tháng 7 nhưng Zhukov cho rằng vị trí này vẫn còn xa các đơn vị của Koniev và yêu cầu chuyển sở chỉ huy Phương diện quân Thảo nguyên đến Melikhovo, cách Belgorod chỉ hơn 20 km về phía đông bắc. Cả hai sở chỉ huy đều cách tiền duyên của mặt trận không quá 15 km. Trong ngày 2 tháng 8, các phương diện quân Liên Xô đều tổ chức trinh sát chiến đấu, các máy bay trinh sát đường không của hai tập đoàn quân không quân 2 và 5 (Liên Xô) cũng thực hiện nhiều phi vụ quan sát, xác định lần cuối cùng các vị trí trọng điểm trên tuyến phòng thủ và các cụm phòng ngự của quân đội Đức Quốc xã để phục vụ cho các trận pháo kích và oanh tạc mở màn cho cuộc phản công.

8 giờ sáng ngày 3 tháng 8, các tập đoàn quân cận vệ 5 và 6 xuất phát tấn công từ Butovo và Gostishchevo. Đến gần trưa, cả hai tập đoàn quân đã đột phá sâu 5 km vào tuyến phòng thủ của Quân đoàn bộ binh 7 (Đức), Lúc 12 giờ, tướng Ernst-Eberhard Hell tung các sư đoàn bộ binh 68 và 75 ra phản kích, cố gắng làm chậm tốc độ tấn công của quân đội Liên Xô để chờ Quân đoàn xe tăng 24 từ phía trong tiến ra tiếp ứng. Phát hiện điểm yếu của khu phòng thủ Tomarovka, nguyên soái G. K. Zhukov hạ lệnh đưa ngay các Tập đoàn quân xe tăng cận vệ 1 và 5 vào cửa đột phá. Hàng đoàn xe tăng Liên Xô triển khai tấn công dọc theo các tuyến sông Vorskla, Bắc Donets và con đường bộ Oboyan - Belgorod. Sau khi phá vỡ tuyến phòng thủ thứ nhất của các sư đoàn bộ binh 68 và 75 tại Tomarovka, Tập đoàn quân xe tăng 1 gặp Sư đoàn xe tăng 11 và Sư đoàn cơ giới 3 (Đức) từ Borisovka kéo lên chặn kích. Đến tối, các lữ đoàn xe tăng 32 (Quân đoàn xe tăng 29) và 110 (Quân đoàn xe tăng 18) đã phá vỡ hàng rào phòng thủ xe tăng của Sư đoàn xe tăng 11 (Đức), cắt đứt đường sắt Tomarovka - Belgorod, tạo ra một hành lang tấn công rất có lợi giữa ba cụm phòng thủ Belgorod, Tomarovka và Borisovka. Đến cuối ngày, Tập đoàn quân xe tăng cận vệ 1 cũng tiến sâu 12 km vào tuyến phòng thủ của quân Đức, mở rộng diện tấn công sang phía tây nam đến Kalininskoye (???) và Kulishovka (???). Chiều 3 tháng 8, các tập đoàn quân cận vệ 5 và 6 đã bao vây Tomarovka. Từ Gostishchevo, Tập đoàn quân 69 có Quân đoàn cơ giới 1 mở đường tấn công dọc theo đường sắt Prokhorovka - Belgorod phối hợp với Tập đoàn quân cận vệ 7 có Lữ đoàn xe tăng 27 đi đầu từ tuyến sông Korocha tấn công Belgorod từ phía đông. Đến cuối ngày đã tiến lên được từ 7 đến 9 km, đánh chiếm các làng Ternovka và Petropavlovka, phía bắc và Đông Belgorod từ 5 đến 8 km.

Đêm mùng 3 rạng ngày 4 tháng 8, Quân đoàn cơ giới 8 bất ngờ đột kích đánh tan một trung đoàn quân Đức tại cứ điểm Domnino (???) và vòng xuống phía nam Tomarovka. Sáng ngày 4 tháng 8, Tập đoàn quân cận vệ 6 đột kích Tomarovka từ phía bắc dọc theo sông Vorskla. Tập đoàn quân cận vệ 5 tấn công từ phía tây, chia cắt Tomarovka với cứ điểm Staraya Glinka. Chiều ngày 4 tháng 8, sư đoàn xe tăng 11 (Đức) phải rút khỏi Tomarovka về Borisovka trong sự truy cản quyết liệt của Quân đoàn cơ giới 8 (Liên Xô). Ở phía bắc Belgorod, Tập đoàn quân 69 đánh chiếm các làng dân cư Oskochnoye (???) và Chyonoye Polyana (???). Cánh phải của Tập đoàn quân cận vệ 7 đã vượt qua được tuyến phòng thủ cứng rắn của Sư đoàn cơ giới 5 (Đức) tại thị trấn Mikhailovskoye (???), vượt sông Bắc Donets, đánh chiếm thị trấn Stary Gorod (???) ở ngoại vi phía đông nam Belgorod.

Ngày 5 tháng 8, các tập đoàn quân không quân 4 và 6 (Đức) tổ chức các trận oanh tạc lớn vào tuyến đường bộ Borisovka - Belgorod nơi họ dự kiến hai tập đoàn quân xe tăng Liên Xô sẽ đi qua để tiến về đánh chiếm Belgorod và Borisovka. Tuy nhiên, tướng I. S. Konev ra lệnh cho Tập đoàn quân xe tăng 5 vọt tiến lên phía nam không quay sang Belgorod. Tập đoàn quân xe tăng 1 cũng nhận được mệnh lệnh tương tự từ tướng N. F. Vatutin. Đòn công kích của không quân Đức đã đánh vào chỗ trống. Trong khi đó, tại phía nam Tomarovka, tướng Otto von Knobelsdorff tung Sư đoàn xe tăng 19 ra phản kích và bị Tập đoàn quân xe tăng 1 (Liên Xô) đánh thiệt hại nặng. Các trung đoàn xe tăng 119 và 319 bị xóa sổ, trung đoàn 219 phải lùi về Borisovka. Đến chiều, Tập đoàn quân xe tăng 1 tiếp tục đánh chiếm các điểm dân cư tại Klimov (???), Oleksandrovka Odnorobovka (???) và Gorodok (???). Tập đoàn quân xe tăng 5 đã tiến đến khu vực Vorozhbity (???) và giấu quân trong các cánh rừng phía bắc các làng Schetinovka (???) và Verzunki (???).

Cuộc tấn công của các tập đoàn quân 27 và 40 (Liên Xô) bắt đầu từ 6 giờ sáng trên chính diện 26 km từ Vysoke đến Soldatskoye. Do không bị không quân Đức ngăn cản và tuyến phòng thủ của các sư đoàn bộ binh 75 và 208 (Đức) không mạnh, đến cuối ngày, cả hai tập đoàn quân đã thọc sâu từ 8 đến 16 km, đánh chiếm một loạt các điểm dân cư Staroselye (???), Kosilovo (???), Ivanovskaya Lisitsa, Kazachaya Lisytsa (???) và Nikitskoye (???). Phát huy chiến quả đánh bại Sư đoàn xe tăng 19 (Đức) của Tập đoàn quân xe tăng 1, Tập đoàn quân cận vệ 5 cũng đánh chiếm các làng Striguny, Kulishovka (???), Gomzino (???), Orlovka và Step (???). Trên sườn phải của Tập đoàn quân xe tăng cận vệ 5, Tập đoàn quân cận vệ 6 đã đánh chiếm Tomarovka sau các trận đánh ác liệt với sư đoàn bộ binh 68 (Đức). Đến cuối ngày, Tập đoàn quân cận vệ 6 còn chiếm thêm được các làng Zybino (???) và Moshenoye (???), phía nam Tomarovka.

2 giờ sáng ngày 7 tháng 8, Tập đoàn quân cận vệ 6 tấn công khu phòng thủ Borisovka từ phía Đông, Đông Nam và Nam. Tuy nhiên, từ nửa đêm, các sư đoàn xe tăng, cơ giới và bộ binh Đức đã bỏ Borisovka, chia lực lượng thành những nhóm nhỏ rút về phía nam qua ngả Zozuli, Nikolsky (???) và Golovchino khi tuyến bao vây của quân đội Liên Xô còn bị hở ở nhiều vị trí. Cuộc bao vây của Tập đoàn quân cận vệ 6 không thành công và biến thành một cuộc truy đuổi trong khi các sư đoàn xe tăng và cơ giới Đức liên tục phản kích để mở đường thoát xuống Grayvoron. Đến cuối ngày 7 tháng 8, trong khi Tập đoàn quân cận vệ 6 đánh chiếm khu phòng thủ Borisovka thì Tập đoàn quân 40 (Liên Xô) đã áp sát phía bắc Grayvoron, Tập đoàn quân 27 phát triển sang phía tây Grayvoron. Ngày 21 tháng 8, Tổng tư lệnh I. V. Stalin điện hỏa tốc cho tướng N. F. Vatutin, bản sao gửi cho nguyên soái G. K. Zhukov:

Những thất bại của Phương diện quân Voronezh đã làm cho Phương diện quân Thảo nguyên phải hoãn đi hoãn lại hai lần cuộc tấn công cuối cùng vào Kharkov vì Tập đoàn quân xe tăng cận vệ 5 phải điều Quân đoàn xe tăng 18 chi viện cho Tập đoàn quân xe tăng 1 giữ tuyến phòng thủ dọc đường sắt Zolochev - Kharkov và đường bộ Bogodukhov - Kharkov ở Tây Nam Kharkov. Chỉ đến ngày 18 tháng 8, khi các đòn phản công của Cụm tập đoàn quân Nam (Đức) đều bị chặn lại, cuộc tổng công kích vào Kharkov mới được mở lại.

Quân đội Liên Xô tiến về Kharkov

Ngày 18 tháng 8, cuộc phản công của Tập đoàn quân xe tăng 4 (Đức) đã suy yếu, các tập đoàn quân 38, 40, 47 tiếp tục tiến sâu về phía tây từ 20 đến 25 km làm chủ bờ đông sông Psyol, đánh chiếm Lebedyn, áp sát Sumy, Gadyach và Zenkov. Tập đoàn quân 27 đột phá vào tuyến Akhtyrka, Kotelva và Krasnokutsk không thành công bởi đòn phản kích của các sư đoàn xe tăng 6 và 3 SS vào hai bên sườn, đến ngày 19 tháng 8 phải rút về phòng thủ tại Kaplunovka. Tập đoàn quân cận vệ 4 đã không tích cực phối hợp đột kích vào bên sườn các sư đoàn xe tăng Đức, để cho các sư đoàn này tự do công kích suốt dọc đường rút lui làm cho Tập đoàn quân 27 bị thiệt hại nặng. Tướng Kulik, tư lệnh Tập đoàn quân cận vệ 4 bị cách chức. Trên hướng Kharkov, Tập đoàn quân 57 của tướng N. A. Gaghen vẫn kiên trì đột phá khu phòng thủ Rogan. Tập đoàn quân 69 đã đánh chiếm Liptsy và tiến sát tuyến phòng thủ thứ ba của Quân đoàn 42 (Đức) ở Tsyrkuny. Ở phía bắc và phía tây Kharkov, lúc 6 giờ sáng, Tập đoàn quân 53 được phối thuộc Quân đoàn cơ giới cận vệ 1 mở đầu cuộc tấn công từ phía tây Bắc vào Kharkov. Chiều 18 tháng 8, các sư đoàn bộ binh 252, 299 và sư đoàn bộ binh cận vệ 14 đã đánh chiếm hai điểm cao 197,3 và 208,6 ở làng Peresechnaya. Từ hai điểm cao này, pháo binh Liên Xô đã có thể đặt toàn bộ nội đô thành phố trong tầm hỏa lực bắn thẳng. Ngoài tổn thất về binh lực và vũ khí, Phương diện quân Voronezh cũng tổn thất vị phó tư lệnh, thượng tướng Yosif Rodionovich Apanasenko, ông bị tử thương trong một trận ném bom của không quân Đức Quốc xã ngày 5 tháng 8 năm 1943, khi quân đội Liên Xô vừa chiếm được Belgorod.

Đánh giá

Mặc dù đã đánh thiệt hại nặng Tập đoàn quân xe tăng 4 và Cụm tác chiến Kempf (Đức), chiếm được Kharkov và một số bàn đạp có ý nghĩa rất quan trọng để tạo đà cho các trận đánh tiếp theo tiến đến sông Dniepr nhưng chiến dịch Belgorod-Kharkov của quân đội Liên Xô vẫn chưa phải là một chiến dịch thành công mỹ mãn. So với giai đoạn phòng ngự, các chiến dịch giai đoạn phản công của trận Kursk, chiến dịch Belgorod-Karkov diễn ra không thật sự suôn sẻ với một số sai lầm về chiến thuật. Nếu như Phương diện quân Trung tâm hầu như không có thời gian để trinh sát chiến dịch và chuẩn bị cho cuộc phản công thì Phương diện quân Voronezh có được thời gian tối thiểu khoảng mười ngày (từ ngày 23 tháng 7 đến ngày 2 tháng 8) để tiến hành trinh sát chiến đấu. Không tính đến Phương diện quân Thảo nguyên phải dành phần lớn thời gian để chuyển các đơn vị và phương tiện ra tuyến trước, trinh sát của cả hai phương diện quân Voronezh và Tây Nam đều chậm phát hiện việc Cụm Tập đoàn quân Nam (Đức) lấy quân của Tập đoàn quân xe tăng 1 và Cụm tác chiến Hollidt tăng cường cho Tập đoàn quân xe tăng 4 và Cụm tác chiến Kempf; chỉ phát hiện được một vài sư đoàn bộ binh mới (gồm chủ yếu là tân binh) được điều từ nước Đức sang mặt trận phía đông nhưng lại không xác định được vị trí tập kết của các đơn vị này. Vì vậy, sau thắng lợi bước đầu rất nhanh chóng và áp đảo ở Belgorod, tốc độ tiến công của Phương diện quân Voronezh giảm rõ rệt mặc dù nắm trong tay hai tập đoàn quân xe tăng vừa được bổ sung sau giai đoạn phòng ngự.

Đối với quân đội Đức Quốc xã, sai lầm lớn nhất của thống chế Erich von Manstein là đã không dứt khoát giữa giữ đất và giữ quân. Vị trí đầu cầu ở Belgorod chỉ có lợi khi sử dụng làm bàn đạp tấn công nhưng lại là tiền đồn rất dễ bị cắt rời khỏi những lực lượng cơ bản trên cánh Bắc của Cụm tập đoàn quân Nam. Sự trì hoãn rút quân của Adolf Hitler cũng là một trong những nguyên nhân làm cho quân Đức phải chịu thêm một trận thua thiệt ở khu vực Belgorod-Kharkov khi mãi đến ngày 15 tháng 8, ông ta mới ra lệnh rút về chuẩn bị phòng tuyến "Chiến lũy phía đông" trên tuyến sông Dniepr. Trong khi đó thì cả cả tám phương diện quân Liên Xô đã chuẩn bị xong binh lực để tổng phản công vào cánh Nam Cụm tập đoàn quân Trung tâm và toàn bộ Cụm tập đoàn quân Nam (Đức) đã bị tiêu hao nặng. Không đợi đến khi chiến dịch Belgorod-Kharkov đi đến hồi kết, ngày 16 tháng 8, các phương diện quân Tây Nam và Nam đã mở ngay chiến dịch Donbas, đánh chiếm toàn bộ vùng hạ lưu sông Donets, các khu công nghiệp Donbas và Donets, đẩy trận tuyến đến sông Dniepr.

Ảnh hưởng

Chiến dịch Belgorod-Kharkov là dấu chấm cuối cùng cho toàn bộ trận Kursk, trận đánh lớn thứ ba giữa quân đội Liên Xô và quân đội Đức Quốc xã tại mặt trận phía đông kể từ ngày bắt đầu chiến tranh Xô-Đức. Cùng với Chiến dịch Kutuzov, chiến dịch này đã thanh toán được mối nguy cơ bên sườn các phương diện quân Liên Xô đã bắt đầu tấn công hướng về tuyến sông Dniepr từ ngày 13 tháng 8 và mở màn cho cuộc tổng tấn công của quân đội Liên Xô trên toàn bộ cánh Nam mặt trận Xô-Đức, đánh dấu sự khởi đầu giai đoạn ba của cuộc Chiến tranh vệ quốc vĩ đại, giai đoạn tấn công liên tục của quân đội Liên Xô kéo dài thêm 21 tháng nữa để đưa cuộc chiến tranh thế giới thứ hai ở châu Âu về nơi mà nó xuất phát: nước Đức Quốc xã. Đối với quân đội Đức Quốc xã, chiến dịch Belgorod-Kharkov cũng như chiến dịch Kutuzov là hai đòn kiểm nghiệm hiệu quả của giai đoạn phòng ngự trong trận Kursk và nó chứng tỏ một điều chắc chắn rằng, quân đội Đức Quốc xã đã chịu những tổn thất nặng nề gần giống như trận Stalingrad và gần như không còn khả năng phục hồi sức mạnh ban đầu. Thống chế Erich von Manstein thừa nhận:

Còn tướng Heinz Guderian, tổng thanh tra các lực lượng xe tăng - thiết giáp Đức thì đưa ra nhận xét:

Đài tưởng niệm nạn nhân của chế độ Quốc xã tại Drobitskiy, Kharkov

Chiến tranh đã để lại nhiều ảnh hưởng nặng nề với thường dân trong khu vực chiến sự. Tại Belgorod, công binh Liên Xô phải mất ba tháng liền sau trận đánh để gỡ đi hơn 50.000 quả mìn của quân Đức gài lại. Hàng chục năm sau chiến tranh, một vài quả mìn chưa gỡ hết vẫn tiếp tục phát nổ và gây thương vong. Các nhà máy nông sản thực phẩm và cơ khí nông nghiệp tại Belgorod đều bị phá hủy. Chỉ duy nhất một nhà máy sản xuất bia còn hoạt động. Các cây cầu bắc qua sông Bắc Donets và Vezelky đều bị đánh sập. 3.240 ngôi nhà của thành phố bị phá hủy hoàn toàn. Khi Tập đoàn quân cận vệ 7 vào Belgorod, cả thành phố chỉ còn lại 150 người dân. 10.271 người Do Thái, trong đó hơn 75% là phụ nữ, người già và trẻ em tại Kharkov lần lượt bị quân đội Đức Quốc xã bỏ đói đến chết. Đỉnh điểm là trong tháng 7 và tháng 8 năm 1943, quân đội Đức Quốc xã đã hành quyết khoảng 20.000 người dân Kharkov tại Drobitsky. Năm 1991, người ta đã xây dựng tại đây một đài tưởng niệm những nạn nhân của chế độ Quốc xã.

👁️ 0 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Chiến dịch phản công Belgorod–Kharkov** là một chuỗi các hoạt động quân sự lớn do hai phương diện quân Voronezh và Thảo nguyên của Quân đội Liên Xô làm chủ lực, có sự hỗ trợ
**Chiến dịch phản công** là thuật ngữ quân sự sử dụng để mô tả các chiến dịch tấn công quy mô lớn, thường là chiến dịch tiến hành sau khi một đạo quân đã chặn
**Chiến dịch Donets** hay **Trận Kharkov lần thứ ba** là một chuỗi những chiến dịch phản công của quân đội Đức quốc xã nhằm vào Hồng quân Liên Xô tại gần khu vực Kharkov trong
**Chiến dịch tấn công Dukhovshchina lần thứ nhất** là hoạt động quân sự của quân đội Liên Xô trong khuôn khổ Chiến dịch Smolensk (1943) chống lại quân đội Đức Quốc xã. Diễn ra chỉ
**Chiến dịch Ngôi Sao** (Tiếng Nga: Oпераций «Звезда») là tên mã của **Chiến dịch Belgorod-Kharkov**, hoạt động quân sự lớn thứ ba do Phương diện quân Voronezh (Liên Xô) tiến hành tại miền Trung nước
**Chiến dịch Rostov năm 1941** là trận phòng ngự-phản công tại vùng Rostov trên sông Don của Quân đội Liên Xô. Đây là một trận đánh quan trọng trên khu vực phía Nam chiến trường
**Chiến dịch Kharkov (1941)**, theo cách gọi của Wilhelm Keitel là **Trận Kharkov lần thứ nhất**, còn theo lịch sử của Nga là **Chiến dịch phòng thủ Sumy-Kharkov**, diễn ra từ ngày 1 tháng 10
**Chiến dịch Blau** (tiếng Đức: **_Fall Blau_**) là mật danh của Kế hoạch tổng tấn công từ mùa hè năm 1942 của quân đội Đức Quốc xã trên toàn bộ cánh Nam của mặt trận
**Chiến dịch Barvenkovo–Lozovaya** (Lozova) (được Thống chế Đức Wilhelm Bodewin Gustav Keitel gọi là **Trận Kharkov lần thứ hai**) là một hoạt động quân sự lớn của quân đội Liên Xô và quân đội Đức
**Chiến dịch Ostrogozhsk–Rossosh** (_tiếng Nga: Острогожско-Россошанская операция_) là tên gọi chính thức trong lịch sử Liên Xô (trước đây) và Liên bang Nga (hiện nay) của cuộc tấn công mùa đông 1942-1943 tại khu vực
**Chiến dịch Voronezh–Kastornoye** (từ ngày 24 tháng 1 đến ngày 17 tháng 2 năm 1943) là một hoạt động quân sự chiến thuật của quân đội Liên Xô chống lại 10 sư đoàn Đức và
Mặt trận Xô-Đức năm 1943, tuyến màu đỏ là tuyến Panther-Wotan **Tuyến Panther-Wotan** hay **Tuyến Panther-Stellung** hay **Bức tường phía đông** là một phòng tuyến do quân đội phát xít Đức xây dựng trong năm
**Aleksey Semyonovich Zhadov** (; 1901-1977), họ khai sinh là **Zhidov** () là một tướng lĩnh Hồng quân Liên Xô trong Chiến tranh Vệ quốc vĩ đại, Anh hùng Liên Xô. Ông từng chỉ huy Tập
**Trận vòng cung Kursk** (lịch sử Nga gọi là **_Chiến dịch phòng ngự - phản công Kursk_**) là một trong những chiến dịch lớn nhất trên chiến trường Xô-Đức trong Chiến tranh thế giới thứ
**Erich von Manstein** tên đầy đủ là **Fritz Erich Georg Eduard von Lewinski** (24 tháng 11 năm 1887 – 10 tháng 7 năm 1973) là một chỉ huy cấp cao của quân đội Đức thời
Các sự kiện quân sự ở Mặt trận phía Đông trong Chiến tranh thế giới thứ hai. Các mốc thời gian ghi theo năm - tháng - ngày. ## 1941 * 1941-06-22 Chiến dịch Barbarossa
**Phương diện quân Voronezh** (tiếng Nga: _Воронежский фронт_) là một tổ chức tác chiến chiến lược của Hồng quân Liên Xô trong Thế chiến thứ hai. ## Lịch sử Phương diện quân Voronezh được thành
**Trận sông Dniepr** là một chuỗi các chiến dịch tấn công chiến lược của Quân đội Liên Xô trong giai đoạn mở đầu cho thời kỳ thứ ba của cuộc chiến tranh Xô-Đức, đồng thời
phải|[[Mikhail Nikolayevich Tukhachevsky trong bộ quân phục Tư lệnh Quân khu (_Командующий войсками военного округа_) - một tác giả quan trọng của học thuyết tác chiến chiều sâu.]] **Tác chiến chiều sâu** (Tiếng Nga: _Теория
**Georgy Konstantinovich Zhukov** (; , 1 tháng 12 năm 1896 – 18 tháng 6 năm 1974) là một sĩ quan cấp tướng và là Nguyên soái Liên Xô. Ông cũng từng là Tổng Tham mưu
**Ivan Zakharovich Susaykov** (12 tháng 9 (lịch cũ 30 tháng 8) năm 1903, tại làng Davydkovo, tỉnh Smolensk - 12 tháng 7 năm 1962, Moskva) là một sĩ quan chính trị cao cấp trong quân
**Mikhail Dmitryevich Solomatin** (5 tháng 12 (lịch cũ: 23 tháng 11) năm 1894 - 22 tháng 11 năm 1986) là một tướng lĩnh Hồng quân Liên Xô trong Chiến tranh Vệ quốc Vĩ đại, Thượng
**Cuộc tấn công Kharkiv năm 2024** (_2024 Kharkiv offensive_) đã bắt đầu khi chiến dịch tấn công Kharkiv Oblast của quân Nga đã được mở màn vào ngày 10 tháng 5 năm 2024. Chiến sự
**Hermann Hoth** (1885-1971) là một Đại tướng Lục quân Đức trong Chiến tranh thế giới thứ hai. Ông là một trong những chỉ huy hàng đầu của binh chủng Tăng-Thiết giáp Đức, đã dẫn dắt
**Nikolay Fyodorovich Vatutin** (tiếng Nga: _Николай Федорович Ватутин_; sinh ngày 16 tháng 12 năm 1901, mất ngày 14 tháng 4 năm 1944) là một chỉ huy Hồng quân nổi tiếng trong Chiến tranh thế giới
**Phương diện quân Thảo Nguyên** (tiếng Nga: _Степной фронт_), còn gọi là **Phương diện quân Step**, là một tổ chức tác chiến chiến lược của Hồng quân Liên Xô trong Thế chiến thứ hai. Địa
**Tập đoàn quân 27** là một đơn vị quân sự chiến lược cấp tập đoàn quân của Hồng quân Liên Xô, hoạt động trong thời gian Chiến tranh thế giới thứ hai. ## Thành lập
**Ivan Stepanovich Koniev** (tiếng Nga: _Иван Степанович Конев_; đọc là **Ivan Xtêphanôvích Cônhép**; 28 tháng 12 năm 1897 - 21 tháng 5 năm 1973) là một chỉ huy cao cấp của Hồng quân Liên Xô
Vovchansk ( tiếng Ukraina : Вовчанськ), phát âm là [wou̯ˈt͡ʃɑnʲsʲk] , có nghĩa là thị trấn của sói ) là một thành phố ở Chuhuiv Raion , Tỉnh Kharkiv , Ukraina . Đây là nơi
**Tỉnh Kharkiv** _(, _chuyển tự _Kharkivs'ka oblast_; cũng viết _Kharkivshchyna_ – __) là một tỉnh ở phía đông của Ukraina. Tỉnh này giáp tỉnh Belgorod của Nga về phía bắc, tỉnh Luhansk về phía đông,
**Tập đoàn quân đoàn số 6** (tiếng Đức: _Armeeoberkommando 6_, viết tắt **6. Armee**/**AOK 6**) là một đại đơn vị của Quân đội Đức Quốc xã. Từng là một trong những đại đơn vị thiện
**Hryhorii Savych Skovoroda** (; 3 tháng 12 năm 1722 - 9 tháng 11 năm 1794) là một triết gia người gốc Cossack Ukraine sinh sống và làm việc tại Đế quốc Nga. Ông là một