✨Chiến dịch Rostov (1941)

Chiến dịch Rostov (1941)

Chiến dịch Rostov năm 1941 là trận phòng ngự-phản công tại vùng Rostov trên sông Don của Quân đội Liên Xô. Đây là một trận đánh quan trọng trên khu vực phía Nam chiến trường Xô-Đức thời kỳ đầu Cuộc Chiến tranh vệ quốc vĩ đại. Từ ngày 4 đến ngày 29 tháng 11 năm 1941, các tập đoàn quân 9, 12, 18, 56 của Liên Xô mặc dù có quân số và phương tiện kém xa tập đoàn quân 17 và tập đoàn quân xe tăng 1 của Đức đã tổ chức phản công ở Taganrog - Rostov, đánh thiệt hại nặng tập đoàn quân xe tăng 1, chiếm lại thành phố Rostov lần thứ nhất. Cuộc phản công tại khu vực này mặc dù đã làm cho Bộ Tổng Tư lệnh quân đội Liên Xô phải chuyển đến đây một phần lực lượng dự bị nhưng không những đã giải quyết được nhiệm vụ quan trọng của khu vực mặt trận này mà còn có tác dụng kìm chân hai tập đoàn quân mạnh của quân đội Đức Quốc xã, không cho Bộ Tổng Tư lệnh quân đội Đức điều động lực lượng ở hướng này để tăng cường cho Chiến dịch "Bão táp" tấn công Moskva. Kết quả trận phòng ngự phản công tại Rostov là một trong ba thất bại lớn của Quân đội Đức quốc xã trên mặt trận Xô Đức trong mùa Đông năm 1941, góp phần làm phá sản kế hoạch Chiến dịch Barbarossa.

Tình hình cánh Nam mặt trận Xô-Đức cuối năm 1941

Cuối tháng 9 năm 1941, cùng với việc giải thể Bộ Tổng Tư lệnh ba hướng mặt trận, Bộ Tổng Tư lệnh tối cao quân đội Liên Xô tái lập Bộ chỉ huy Phương diện quân Tây Nam do Nguyên soái S. M. Timoshenko là tư lệnh, tướng A. P. Pokrovski làm tham mưu trưởng; triển khai phòng ngự trên chính diện hơn 300 km từ Vorozhba đến Krasnograd. Phía cực bắc của Phương diện quân là tập đoàn quân 40 của tướng Kuzma Podlas gồm các đơn vị đã bị thiệt hại đáng kể trong các trận đánh mùa hè; gồm 2 sư đoàn bộ binh 227 và 293 và sư đoàn xe tăng 10, giữ tuyến mặt trận rộng 90 km. 80 km mặt trận tiếp theo do tập đoàn quân 21 gồm sư đoàn bộ binh cơ giới cận vệ 1 (nguyên là sư đoàn bộ binh 100), sư đoàn bộ binh 297 và sư đoàn bộ binh 295 (đang thành lập). Trong dải phòng ngự từ Akhtyrka đến Gadyach là cụm kỵ binh cơ giới của tướng Belov với hai sư đoàn kỵ binh 5, 9 và hai lữ đoàn xe tăng. Chếch về phía Nam là quân đoàn bộ binh cơ giới 5 của tướng F. V. Kamkov có hai sư đoàn kỵ binh 3, 4, sư đoàn bộ binh 212, hai lữ đoàn xe tăng và một lữ đoàn kỵ binh cơ giới. Cánh cực nam của mặt trận do 5 sư đoàn bộ binh thuộc tập đoàn quân 38 phòng ngự.

Cuối mùa thu năm 1941, trên vùng thảo nguyên miền Nam Liên Xô, tập đoàn quân xe tăng 1, tập đoàn quân 6, tập đoàn quân 17 và tập đoàn quân 11 (Đức) tiếp tục tấn công về hướng sông Đông, phát huy chiến quả đã đạt được sau chiến dịch Kiev và tả ngạn sông Dniepr với ưu thế áp đảo về binh lực và phương tiện. Ngoại trừ một thắng lợi nhỏ của sư đoàn bộ binh cận vệ 1, sư đoàn kỵ binh 5 và lữ đoàn xe tăng 1 (thuộc cụm kỵ binh của tướng Belov) trong trận đánh tại Shepetovka, các đơn vị còn lại vẫn lùi dần trước sức ép của các sư đoàn xe tăng 9 và 25 (thuộc tập đoàn quân xe tăng 2 - Đức). Cuối tháng 9, tập đoàn quân xe tăng 2 (Đức) đẩy lùi phương diện quân Bryansk sâu thêm về phía Oryol khiến sườn phải của Phương diện quân Tây Nam lại bị hở. Ngày 28 tháng 9, tập đoàn quân xe tăng 1 (Đức) đi vòng qua Novomskovsk đánh chiếm Pavlograd, uy hiếp Taganrog. Tập đoàn quân 9 của Phương diện quân Nam phải rút về Tshimliansk. Song, không như tháng 8 năm 1941, Phương diện quân Tây Nam đã chủ động cho rút các tập đoàn quân 40 và 21 ở sườn phía Bắc và tập đoàn quân 38 ở phía Nam mặt trận để tránh khỏi bị bao vây và tiêu diệt. Ở phương diện quân Nam, hai tập đoàn quân 9 và 18 phải chiến đấu trong tình trạng bị nửa hợp vây. Để phòng thủ thành phố Rostov, Bộ Tổng Tư lệnh tối cao Liên Xô phải gấp rút thành lập tập đoàn quân độc lập 56 với nhiệm vụ bịt chặt cửa ngõ ra vào Kuban và vùng Bắc Kavkaz.

Binh lực và kế hoạch tác chiến của hai bên

Quân đội Đức Quốc xã

  • Tập đoàn quân xe tăng 1 gồm 4 sư đoàn xe tăng: SS "Adolf Hitler", 13, 14, 16; 2 sư đoàn cơ giới: SS "Viking" và 60.
  • Cụm tác chiến Svetler (cánh nam của tập đoàn quân 17) gồm quân đoàn bộ binh sơn chiến số 49 Đức; 4 sư đoàn bộ binh Đức: 76, 94, 97, 198; 3 sư đoàn bộ binh Italia: 3, 9, 52.
  • Sáu trung đoàn pháo dã chiến với 870 khẩu
  • Ba sư đoàn không quân với 246 máy bay.

Quân đội Liên Xô

  • Các tập đoàn quân 9, 12, 18, 56; mỗi tập đoàn quân chỉ có từ 4 đến 5 sư đoàn
  • Các lữ đoàn xe tăng 2, 3, 132, 142; tổng cộng có 92 xe tăng còn chiến đấu được.
  • Các trung đoàn pháo dã chiến 8, 437, 266, 296 với 235 khẩu
  • Các trung đoàn pháo chống tăng 186, 521, 558, 704 với 182 khẩu.
  • Tập đoàn không quân 16 có 92 máy bay tiêm kích, 119 máy bay ném bom, 13 máy bay cường kích.

Diễn biến trận đánh

Đức tấn công, Liên Xô chủ động rút quân

Ngày 17 tháng 10, Bộ Tổng Tư lệnh quân đội Liên Xô yêu cầu các phương diện quân Tây Nam và Nam tiếp tục rút sâu hơn nữa về phía Đông đến tuyến Kastornaya, Stary Oskon, Novy Oskon, Valuyki, Kupiansk, Krasny Liman; bỏ lại vùng công nghiệp Donbass, các thành phố Kharkov và Belgorod. Lý do cho cuộc rút quân này là Bộ Tổng Tư lệnh quân đội Liên Xô phải dành lực lượng dự trữ để phòng thủ Moskva, giữ Rostov là cửa ngõ Kavkaz. Việc rút lui diễn ra có tổ chức, các tập đoàn quân Liên Xô khi rút lui đều khép chặt các tuyến bên sườn với các đơn vị "láng giềng" và bố trí các sư đoàn làm nhiệm vụ cản hậu, đánh tiêu hao quân Đức. Ngày 2 tháng 11, việc rút quân của phương diện quân Tây Nam hoàn thành sau khi hai sư đoàn cuối cùng của tập đoàn quân 38 rời Kharkov. Tin tưởng phương diện quân có thể giữ vững được tuyến mặt trận mới trong khi các đơn vị xe tăng Đức đang mất dần sức đột kích trên thảo nguyên Ukraina, Bộ Tổng Tư lệnh quân đội Liên Xô giao cho Tư lệnh Phương diện quân Tây Nam chỉ huy cả Phương diện quân Nam và điều quân đoàn kỵ binh 2 của phương diện quân Tây Nam về tăng cường cho hướng trung tâm của mặt trận phòng thủ Moskva.

Ý đồ tấn công của Tập đoàn quân xe tăng 1 (Đức) vào thành phố Rostov nằm trong tổng thế kế hoạch chiến dịch Barbarossa với mục tiêu đột nhập vào Kavkaz, cắt đứt đường vận chuyển dầu mỏ và đánh chiếm nguồn tài nguyên quý giá này, phục vụ cho các mục tiêu chiến tranh lâu dài của nước Đức Quốc xã. Dầu mỏ được coi là dòng máu của các phương tiện chiến tranh trọng yếu (xe tăng, máy bay, ô tô). Không có nguồn nhiên liệu đặc biệt quan trọng ấy, quân đội Đức Quốc xã không thể tiến hành một cuộc chiến tranh lớn và lâu dài được.

Kế hoạch cuộc tấn công của quân Đức bị lộ do một sĩ quan tham mưu của sư đoàn xe tăng 16 (Đức) bị các binh sĩ của tập đoàn quân 56 (Liên Xô) bắt được khi đang chuyển kế hoạch tác chiến đến các đơn vị. Vì vậy, tướng Kleist phải phát động cuộc tấn công sớm hơn mà không chờ bộ binh cơ giới còn tụt lại phía sau. Ngày 4 tháng 11, Cụm tập đoàn quân Nam (Đức) mở cuộc tổng tấn công trên tuyến phía Nam của mặt trận Xô-Đức. Ở cánh bắc, các sư đoàn bộ binh 76, 94, 97, 198 (Đức), các sư đoàn bộ binh 3, 9, 52 (Italia), quân đoàn sơn chiến 49 (Đức) tấn công các tập đoàn quân 12 (tái lập) và tập đoàn quân 18 (Liên Xô). Tập đoàn quân xe tăng 1 (Đức) gồm các sư đoàn xe tăng SS "Viking", "Adolf Hitler", 13, 14, 16 và sư đoàn cơ giới 60 tấn công trên chính diện của các tập đoàn quân 9 và 56, hướng đột kích chủ yếu đến Rostov có đến 350 xe tăng, trong khi tập đoàn quân 9 (Liên Xô) phòng ngự trên tuyến này chỉ có 50 xe tăng. Bộ Tư lệnh Phương diện quân Tây Nam điều tập đoàn quân 56 tấn công vào sườn trái cánh quân xe tăng của tướng Ewald von Kleist đang lao về Rostov. Tập đoàn quân 9 dựa vào các khu phòng thủ chống tăng đánh chặn đoàn xe tăng Đức trước của ngõ Rostov nhưng không còn lực lượng để đẩy lùi cánh quân này. Mặc dù bị mất 113 xe tăng và 23 khẩu pháo nhưng đến 16 giờ ngày 21 tháng 11, tập đoàn quân xe tăng 1 (Đức) vẫn đột nhập vào Rostov.

Liên Xô phản công

Từ ngày 22 tháng 11, Phương diện quân Tây Nam và Phương diện quân Nam phối hợp mở cuộc tấn công vào Taganrog, phía sau lưng Tập đoàn quân xe tăng 1 Đức bằng lực lượng của các tập đoàn quân 18 và 37 (tái lập) kết hợp với hai mũi tấn công vỗ mặt của tập đoàn quân 9 từ phía Đông Rostov. Đòn đột kích từ phía Bắc của các tập đoàn quân 18 và 37 đã chia cắt bốn sư đoàn xe tăng Đức đã vào Rostov với ba sư đoàn bộ binh sơn chiến tiến quân chậm hơn ở phía sau. Phát hiện nguy cơ bị vây, ngày 23 tháng 11, tướng Kleist vội điều hai sư đoàn xe tăng SS "Viking" và sư đoàn xe tăng 16 lên phía Bắc Rostov để giữ sườn trái của cánh quân, nhưng không chống nổi sức đột kích của tập đoàn quân 37 có ba lữ đoàn xe tăng yểm hộ. Ngày 29 tháng 11, để tránh bị bao vây và tiêu diệt, tướng Kleist vội vã rút khỏi Rostov. Tập đoàn quân xe tăng 1 (Đức) bị mất sức chiến đấu và được rút về phía sau để bổ sung quân số và trang bị lại. Bộ Tư lệnh Cụm tập đoàn quân Nam (Đức) phải điều tập đoàn quân 17 xuống phía Nam để phòng thủ trên tuyến sông Mius. Việc điều quân này đã làm yếu cánh bắc của Cụm tập đoàn quân Nam, tạo điều kiện cho Phương diện quân Tây Nam (Liên Xô) tiếp tục phản công, hợp vây 3 sư đoàn Đức trên hướng Elets - Livny - Efremov trong tổng thể cuộc phản công của quân đội Liên Xô tại khu vực Moskva và các vùng phụ cận mùa đông 1941-1942.

Kết quả trận đánh

Trong chiến dịch phản công này, quân Đức bị tổn thất nặng. 167 xe tăng, 73 khẩu pháo bị phá huỷ. Quân đội Liên Xô còn thu giữ được 154 xe tăng, 8 xe bọc thép, 244 khẩu pháo còn nguyên vẹn và nhiều vũ khí, khí tài khác. Mặc dù các Tập đoàn quân Tây Nam và Nam không thực hiện được ý định vây hãm Tập đoàn quân xe tăng 1 Đức tại Rostov nhưng trận Rostov đã làm cho Cụm Tập đoàn quân Nam của Đức không thể điều động cụm xe tăng đột kích này cho những hướng khác và buộc phải chuyển sang phòng ngự tại mặt trận Tây Nam cho đến hết mùa đông 1941-1942.

👁️ 0 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Chiến dịch Rostov năm 1941** là trận phòng ngự-phản công tại vùng Rostov trên sông Don của Quân đội Liên Xô. Đây là một trận đánh quan trọng trên khu vực phía Nam chiến trường
**Chiến dịch Kharkov (1941)**, theo cách gọi của Wilhelm Keitel là **Trận Kharkov lần thứ nhất**, còn theo lịch sử của Nga là **Chiến dịch phòng thủ Sumy-Kharkov**, diễn ra từ ngày 1 tháng 10
**Chiến dịch phản công** là thuật ngữ quân sự sử dụng để mô tả các chiến dịch tấn công quy mô lớn, thường là chiến dịch tiến hành sau khi một đạo quân đã chặn
**Chiến dịch Kavkaz** là tên gọi chung cho một chuỗi các hoạt động quân sự tại khu vực Kavkaz diễn ra giữa quân đội Liên Xô và quân đội Đức Quốc xã trong cuộc Chiến
**Chiến dịch Krym – Sevastopol (1941–1942)** bao gồm toàn bộ các trận chiến đấu của quân đội Xô Viết và quân đội Đức Quốc xã cùng với quân Romania tại bán đảo Krym từ tháng
**Chiến dịch Blau** (tiếng Đức: **_Fall Blau_**) là mật danh của Kế hoạch tổng tấn công từ mùa hè năm 1942 của quân đội Đức Quốc xã trên toàn bộ cánh Nam của mặt trận
**Chiến dịch phòng thủ Tikhoretsk–Stavropol** là một trong các hoạt động quân sự đầu tiên của quân đội Liên Xô tại khu vực Bắc Kavlaz trong Chiến tranh Xô-Đức nhằm chống lại Cuộc hành quân
**Chiến dịch Barbarossa** (), còn được gọi là **Cuộc xâm lược của Đức vào Liên Xô** là mật danh của chiến dịch xâm lược Liên Xô do Quân đội Đức Quốc xã tiến hành trong
**Chiến dịch phòng ngự chiến lược Leningrad** là tổ hợp các hoạt động quân sự của quân đội Liên Xô chống lại các cuộc tấn công của quân đội Đức Quốc xã tại khu vực
**Chiến dịch phòng thủ Tuapse** là một trong các hoạt động quân sự quân trong của quân đội Đức Quốc xã và quân đội Liên Xô trong Chiến dịch Kavkaz, một phần diễn biến của
**Chiến dịch phản công Tikhvin** (10 tháng 11 năm 1941 - 30 tháng 12 năm 1941) là một trận đánh diễn ra giữa quân đội Liên Xô và quân đội Đức quốc xã trong Chiến
**Chiến dịch Barvenkovo–Lozovaya** (Lozova) (được Thống chế Đức Wilhelm Bodewin Gustav Keitel gọi là **Trận Kharkov lần thứ hai**) là một hoạt động quân sự lớn của quân đội Liên Xô và quân đội Đức
**Chiến dịch tấn công Lyuban** () là một trận đánh diễn ra giữa Hồng quân Liên Xô và quân đội Đức xảy ra trong Chiến tranh Xô-Đức thuộc Chiến tranh thế giới thứ hai, kéo
**Trận Moskva** là một trong những trận đánh lớn nhất trong Chiến tranh Xô-Đức và Thế chiến thứ hai vào cuối năm 1941 và đầu năm 1942. Với quân số và vũ khí tham chiến
**Trận Kiev năm 1941** là trận công kích lớn thứ ba của Đức Quốc Xã vào mặt trận Tây Nam của Hồng quân Liên Xô (ngả qua Urkraina) trong Chiến dịch Barbarossa, sau Trận Dubno
**Chiến dịch Sao Hỏa** (_Oперация «Марс»_) là mật danh của **Chiến dịch phản công chiến lược Rzhev-Sychyovka lần thứ hai** do Hồng quân Liên Xô tổ chức nhằm vào quân đội phát xít Đức trong
Các sự kiện quân sự ở Mặt trận phía Đông trong Chiến tranh thế giới thứ hai. Các mốc thời gian ghi theo năm - tháng - ngày. ## 1941 * 1941-06-22 Chiến dịch Barbarossa
**Ngày Chiến thắng** là ngày lễ kỷ niệm chiến thắng của Liên Xô trước Đức Quốc xã vào năm 1945. Ngày lễ này được tổ chức lần đầu tiên tại 15 nước cộng hòa thuộc
**Công nghệ** đóng một vai trò quan trọng trong việc xác định kết quả của chiến tranh thế giới thứ II. Phần lớn của nó đã được phát triển trong những năm giữa cuộc chiến
**Trận Stalingrad** (23 tháng 8 năm 19422 tháng 2 năm 1943) là một trận đánh lớn diễn ra trong Chiến tranh Xô-Đức giữa Đức Quốc xã cùng với các nước thuộc địa và Hồng quân
**Phương diện quân Nam** (tiếng Nga: _Южный фронт_) là một tổ chức tác chiến chiến lược của Hồng quân Liên Xô trong Thế chiến thứ hai. ## Lịch sử ### Thành lập Phương diện quân
**Hermann Hoth** (1885-1971) là một Đại tướng Lục quân Đức trong Chiến tranh thế giới thứ hai. Ông là một trong những chỉ huy hàng đầu của binh chủng Tăng-Thiết giáp Đức, đã dẫn dắt
Quân kỳ của Quân đội Đức quốc xã**Lịch sử quân sự Đức trong Chiến tranh thế giới thứ hai** bắt đầu từ quân số 100.000 do Hòa ước Versailles hạn chế, không được quyền có
**Cuộc bao vây Leningrad** là cuộc phong tỏa quân sự của quân đội Đức Quốc xã đối với thành phố Leningrad (hiện nay là Sankt-Peterburg), đồng thời là cuộc phòng thủ dài ngày nhất trong
nhỏ|Một chiếc T-26 **T-26** là một xe tăng bộ binh hạng nhẹ của Liên Xô, được sử dụng trong nhiều cuộc chiến hồi những năm 1930 cũng như trong Chiến tranh thế giới thứ hai.
**Erich von Manstein** tên đầy đủ là **Fritz Erich Georg Eduard von Lewinski** (24 tháng 11 năm 1887 – 10 tháng 7 năm 1973) là một chỉ huy cấp cao của quân đội Đức thời
(tiếng Nga: Алексе́й Инноке́нтьевич Анто́нов; 1896-1962) là một Đại tướng trong Hồng quân Liên Xô, tổng tham mưu trưởng Lực lượng vũ trang Liên Xô vào giai đoạn kết thúc Chiến tranh Vệ quốc Vĩ
**Tập đoàn quân 56** là một đơn vị quân sự chiến lược cấp Tập đoàn quân của Hồng quân Liên Xô, được thành lập vào năm 1941 và được giải tán để thành lập Tập
**Aleksandr Mikhailovich Vasilevsky** (tiếng Nga: _Алекса́ндр Миха́йлович Василе́вский_) (1895-1977) là một chỉ huy Hồng quân nổi tiếng, từ năm 1943 là Nguyên soái Liên bang Xô viết. Ông là Tổng Tham mưu trưởng Hồng quân
**Trận sông Dniepr** là một chuỗi các chiến dịch tấn công chiến lược của Quân đội Liên Xô trong giai đoạn mở đầu cho thời kỳ thứ ba của cuộc chiến tranh Xô-Đức, đồng thời
**Yakov Timofeyevich Cherevichenko** (; 12 tháng 10 năm 1894 - 4 tháng 7 năm 1976) là một tướng lĩnh Liên Xô trong Chiến tranh Vệ quốc vĩ đại. ## Tiểu sử ### Thế chiến thứ
Kế hoạch Barbarossa là văn kiện quân sự-chính trị có tầm quan trọng đặc biệt do Adolf Hitler và các cộng sự của ông trong Đế chế Thứ Ba vạch ra. Nằm trong chiến lược
**Phương diện quân Tây Nam** (tiếng Nga: _Ю́го-За́падный фро́нт_) là một tổ chức tác chiến chiến lược của Hồng quân Liên Xô trong Thế chiến thứ hai. Địa bàn tác chiến của phương diện quân
**Trận bán đảo Kerch (1942)** là tổ hợp ba chiến dịch quân sự lớn của Hồng Quân Liên Xô chống lại quân đội Đức Quốc xã và quân chư hầu România tại bán đảo Kerch
**Karl von Rundstedt** hay **Gerd von Rundstedt** (12 tháng 12 năm 1875 – 24 tháng 2 năm 1953) là một Thống chế của quân đội Đức Quốc xã trong thời Thế chiến thứ hai. Ông
Chiến sự trên **Mặt trận Rzhev-Sychyovka-Vyazma** là hoạt động quân sự lớn trong Chiến tranh Xô-Đức bao gồm nhiều chiến dịch bộ phận do các Phương diện quân Tây, Phương diện quân Kalinin và Phương
**Phương diện quân Tây** (tiếng Nga: _Западный фронт_) là một tổ chức tác chiến chiến lược của Hồng quân Liên Xô trong Thế chiến thứ hai. Đây là một trong những phương diện quân chủ
**Mius** (, ) là một sông tại Đông Âu, chảy qua Ukraina và Nga. Sông dài , diện tích lưu vực là . ## Địa lý Đầu nguồn sông Mius nằm trên dãy núi Donetsk
**Otto Moritz Walter Model** (24 tháng 1 năm 1891 - 21 tháng 4 năm 1945) là một thống chế của quân đội Đức Quốc xã trong Chiến tranh thế giới thứ hai. Model nổi tiếng
**Ivan Khristoforovich Bagramyan** (tiếng Nga: _Иван Христофорович Баграмян_) hay **Hovhannes Khachatury Baghramyan** (tiếng Armenia: _Հովհաննես Խաչատուրի Բաղրամյան_) (sinh ngày 2 tháng 12, lịch cũ ngày 20 tháng 11, năm 1897, mất ngày 21 tháng 9
**Rodion Yakovlevich Malinovsky** (tiếng Nga: _Родион Яковлевич Малиновский_) (sinh ngày: 23 tháng 11 năm 1898, mất ngày 31 tháng 3 năm 1967) là một chỉ huy cao cấp của Hồng quân trong Chiến tranh thế
**Tập đoàn quân 24** là một đơn vị quân sự chiến lược cấp tập đoàn quân của Hồng quân Liên Xô, được hình thành vào năm 1941 và hoạt động trong thời gian Chiến tranh
**Porfiry Chanchibadze** (tiếng Gruzia: პორფილე ჩანჩიბაძე; 13 tháng 12 năm 1901 - 14 tháng 3 năm 1950) hay **Porfiry Georgyevich Chanchibadze** (tiếng Nga: Порфи́рий Гео́ргиевич Чанчиба́дзе) là một Thượng tướng quân đội Liên Xô và
**Siegmund Wilhelm List** (14 tháng 5 năm 1880 – 17 tháng 8 năm 1971) là một trong số các thống chế của quân đội Đức Quốc xã trong Chiến tranh thế giới thứ hai. Ông
**_Close Combat III: The Russian Front_** (tạm dịch: _Chiến đấu gần - Mặt trận nước Nga_) là tựa game chiến thuật thời gian thực do hãng Atomic Games phát triển và Microsoft Game Studios phát
**Ivan Vasilyevich Selivanov** (__; 19 tháng 11 (lịch cũ: 7 tháng 11) năm 1886 - 23 tháng 2 năm 1942) là một chỉ huy kỵ binh Nga và Liên Xô, từng tham gia Nội chiến
Vị trí và phạm vi của Donbas ở Ukraina. **Donbas** (tiếng Ukraina: _Донбас_) hoặc **Donbass** (tiếng Nga: _Донба́сс_) là một khu vực của Ukraina mà Nga đang tìm cách sáp nhập về mình. Về mặt
**Andrey Antonovich Grechko** (; - 26 tháng 4 năm 1976) là một Nguyên soái Liên Xô và Bộ trưởng Bộ Quốc phòng. ## Tiểu sử Ông sinh ngày 17 tháng 10 năm 1903 tại một
**Grigory Petrovich Kotov** (; 21 tháng 10 năm 1902 – 7 tháng 11 năm 1944) là một trung tướng Hồng quân trong Chiến tranh Vệ quốc Vĩ đại. Ngày 7 tháng 11 năm 1944, ông
**Trận Prokhorovka** là một trận đánh diễn ra giữa Quân đoàn xe tăng SS số 2 của Đức Quốc xã với Tập đoàn quân Cận vệ 5 và Tập đoàn quân xe tăng Cận vệ