✨Gerd von Rundstedt

Gerd von Rundstedt

Karl von Rundstedt hay Gerd von Rundstedt (12 tháng 12 năm 1875 – 24 tháng 2 năm 1953) là một Thống chế của quân đội Đức Quốc xã trong thời Thế chiến thứ hai. Ông được cấp dưới đặt biệt hiệu "Hiệp sĩ Đen" vì tính tình trầm lặng và khả năng dùng quân mạnh bạo. Trong suốt cuộc Đại chiến, các tướng lĩnh của quân Đồng Minh trên Mặt trận phía Tây thừa nhận rộng rãi ông là vị Thống chế xuất chúng trong lực lượng Quân đội Đức Quốc xã. Ông là hiện thân của Vương quốc Phổ một thời vang lừng năm xưa, được mệnh danh là "người Phổ cuối cùng".

Ông là sĩ quan duy nhất bị Adolf Hitler cách chức và tái nhậm chức 3 lần trong cuộc thế chiến. Chính do vài bất hòa của ông với vị Lãnh tụ mà những người Đức phản kháng Hitler, nhưng không biết nhiều về Rundstedt coi ông là con người mang đầy đủ các giá trị Phổ xưa. Trong thời kỳ Thế chiến thứ nhất, von Rundstedt lên đến chức thiếu tá năm 1918 và là tham mưu trưởng của sư đoàn.

Sau cuộc chiến, von Rundstedt được cử làm chỉ huy trưởng Sư đoàn 3 bộ binh vào năm 1932. Cùng năm, ông hăm dọa từ chức khi Franz von Papen ra thiết quân luật và ra lệnh cho binh sĩ của ông truy lùng người theo đảng Quốc xã tại các văn phòng chính phủ. Năm 1938 ông được cử giữ chức vụ tư lệnh Tập đoàn quân số 2 nhưng sau đó bỏ việc về hưu khi nghe tin Gestapo đổ tội oan và bắt tổng tư lệnh Lục quân Đức Werner von Fritsch. Tuy vậy, ông vẫn được bổ nhiệm vào chức vụ chỉ huy trưởng danh dự của trung đoàn bộ binh 18 với quân hàm Đại tá.

Thế chiến thứ hai

Tháng 9 năm 1939, von Rundstedt được Adolf Hitler mời tái ngũ và công tác trong bộ chỉ huy Cụm tập đoàn quân Nam trong cuộc tấn công lấn chiếm Ba Lan. Sau đó tại Mặt trận phía Tây, ông chỉ huy 7 sư đoàn xe tăng, 3 sư đoàn mô tô cơ động, và 35 sư đoàn bộ binh, hỗ trợ cho cuộc tấn công "nắm đấm thiết giáp" của tướng Erich von Manstein xâm lăng nước Pháp. thumb|trái|Phác họa quân phục Đại tá danh dự Trung đoàn bộ binh 18 với cấp hiệu Thống chế của von Rundstedt. Ngày 14 tháng 5 năm 1940, tướng Heinz Guderian kéo các sư đoàn thiết giáp sang sông Maas và tạo lỗ hổng trong trận tuyến của quân Đồng Minh. Tướng von Rundstedt sợ các binh đoàn của ông không đủ sức, kêu thêm bộ binh tiếp viện và do đó chần chờ không đánh sớm. Nhờ vậy mà quân Anh có thêm thời gian chạy thoát về Dunkerque. Kế đến, khi Dunkerque thất thủ, von Rundstedt lại ra lệnh không cho quân mình đánh rấn vào bãi biển khi quân Anh đang nhốn nháo bỏ chạy ra biển, tạo cơ hội cho đám bại binh kịp leo lên chiến thuyền chạy thoát lần nữa. Những lỗi lầm chiến thuật này làm các đồng liêu khó chịu, nhưng von Rundstedt bào chữa rằng chính Hitler muốn thế vì biết đâu khi chính phủ Anh thấy quân bại trận của mình được cho đào thoát, có thể sẽ muốn làm hòa với Đức. Tuy điều này không thể chứng minh được, việc Hitler im lặng không xử phạt von Rundstedt có lẽ là một câu trả lời.

Rundstedt muốn để dành lực lượng cơ giới tấn công miền nam và dứt điểm các căn cứ kháng cự tại Pháp nhưng Göring khuyên Hitler cho Luftwaffe thực hiện công tác này.

Von Rundstedt sau đó được thăng cấp Thống chế (Generalfeldmarschall) ngày 19 tháng 7 năm 1940 và tham gia chuẩn bị cho chiến dịch Sư tử Biển (âm mưu đổ bộ tấn công sang Anh Quốc). Khi chiến dịch bị bãi bỏ thì von Rundstedt được cử làm chỉ huy quân lực chiếm đóng vùng Tây Âu với nhiệm vụ tăng cường phòng thủ bờ biển Đại Tây Dương tại Hà Lan, Bỉ và Pháp.

Chiến dịch Barbarossa

nhỏ|trái|Thống chế Gerd von Rundstedt tại mặt trận phía Tây năm 1944 Tháng 6 năm 1941 von Rundstedt tham gia chiến dịch Barbarossa chỉ huy Cụm tập đoàn quân Nam gồm 52 sư đoàn bộ binh và 5 sư đoàn thiết giáp tấn công Liên Xô. Tuy lúc đầu quân của ông tiến chậm nhưng đến tháng 9 thì cánh quân này chiếm được Kiev, bắt được 65000 tù binh Nga. Sau đó von Rundstedt kéo quân đánh Kharkov và Rostov. Ông đề nghị Hitler đừng tiến quân vào mùa đông buốt giá nhưng Hitler không nghe theo lời khuyên này.

Tháng 11 von Rundstedt bị đau tim nhưng không chịu nằm viện, tiếp tục tấn công và kéo đến Rostov ngày 21 tháng 11. Khi bị quân Nga đánh bật ra, von Rundstedt xin cho lui quân. Hitler giận dữ cho tướng Walther von Reichenau lên thay thế cần quân và triệu von Rundstedt về nước. Ban tham mưu gồm tướng Rommel, von Rundstedt, Gause và Zimmermann tại [[Paris]]

Phòng thủ Tây Âu

Hitler lại kêu von Rundstedt trở lại binh nghiệp vào tháng 3 năm 1942 và cho làm chỉ huy mặt trận phía Tây. Von Rundstedt sang Pháp nhưng làm việc khá ù lỳ. Cho đến mùa thu năm 1943 mà ông vẫn chưa làm xong các căn cứ phòng thủ dọc biển Đại Tây Dương. Khi Erwin Rommel được Hitler cử sang làm phụ tá đốc thúc thì công trình xây dựng phòng thủ mới bắt đầu tiến hành khẩn trương theo dự định.

Trong các cuộc tham mưu chống quân Đồng Minh đổ bộ, von Rundstedt cho rằng phải đặt các đoàn thiết giáp bên trong đất Pháp để có thể đem ra bất cứ chỗ nào mà quân Đồng Minh đổ bộ vào. Các tướng thiết giáp là Geyr von Schweppenberg và Heinz Guderian đồng ý. Nhưng Rommel lại chống ý kiến này, đề nghị là nên đem thiết giáp ra gần các bãi biển, chỉ cần xa hơn tầm pháo để tránh khỏi bị tàu chiến từ ngoài khơi bắn vào. Sau kinh nghiệm tại chiến cuộc Bắc Phi, Rommel nghĩ rằng máy bay của Đồng Minh sẽ không bay vào xa hơn thế. Rundstedt cho rằng Đồng Minh sẽ không đổ bộ vào Normandie vì thế chỉ nên để một ít quân thiết giáp trấn giữ khu này. Tuy vì tình thế phải nghe theo, Rommel rất áy náy khi thấy khu Normandie không được phòng thủ vững chắc.

Gerd von Rundstedt nghe thông dịch trong cuộc tra vấn về tội ác chiến tranh Ngày 6 tháng 6 năm 1944 quân Đồng Minh đổ bộ vào Normandie và quân Đức đại bại vì thiếu lực lượng phòng thủ. Thấy nguy, von Rundstedt khuyên Hitler cầu hòa với quân Đồng Minh. Hitler giận dữ, đuổi ông ra và cho thống chế Günther von Kluge thay quyền cầm quân.

Sau vụ âm mưu 20 tháng 7, von Rundstedt cùng Guderian và Wilhelm Keitel làm quan tòa của cuộc xử tội các sĩ quan trong nhóm âm mưu giết Hitler. Tóa án quân sự cách chức các sĩ quan tướng lãnh này và trao họ cho tổ chức cảnh sát. Nhiều sĩ quan sau đó bị thủ tiêu hay xử tử.

Giữa tháng 8 năm 1944, von Kluge tự tử và thống chế Walter Model lên chỉ huy Mặt trận phía Tây trong 18 ngày thì Hitler lại cho von Rundstedt lên thay. Ông nhanh chóng điều khiển binh lính và đánh thắng quân Đồng Minh trong chiến dịch Market Garden. Nhưng sau đó ông lại phủi tay không chịu tham gia cuộc tổng phản công tại Ardennes. Tháng 3 năm 1945 khi nghe được von Rundstedt tâm sự với Keitel là Đức Quốc xã nên cầu hòa với Đồng Minh thay vì ráng cầm cự vô ích, Hitler lần nữa lại đuổi von Rundstedt về vườn.

Sau Chiến tranh thế giới thứ hai

Sau khi Berlin thất thủ, von Rundstedt bị quân Hoa Kỳ bắt vào ngày 1 tháng 5 năm 1945. Khi quân Liên Xô hỏi cung ông rằng trận đánh nào là bước ngoặt quan trọng nhất đưa đến thất bại cho Đức, họ rất bực tức vì Rundstedt trả lời là trận đánh nước Anh chứ không phải trận Stalingrad. Trong lúc bị chất vấn, ông bị đau tim và được cho về trại tù quân sự tại xứ Wales (Anh Quốc). Tại đây, ông bị truy tố là tội phạm chiếm tranh vì ông đã bắt chước tướng dưới tay là Walther von Reichenau ra lệnh tàn sát quân và dân phía địch trong cuộc chiến miền Đông Âu năm 1941, và ông có liên hệ mật thiết với đội quân đặc vụ Einsatzgruppen - một tổ chức quân đội chuyên truy lùng và tàn sát dân Do Thái. Tuy nhiên vì lý do von Rundstedt già yếu, ông không bị đem ra tòa xử. Tháng 7 năm 1948, von Rundstedt được thả và về sống tại Hannover cho đến khi chết.

👁️ 1 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Karl von Rundstedt** hay **Gerd von Rundstedt** (12 tháng 12 năm 1875 – 24 tháng 2 năm 1953) là một Thống chế của quân đội Đức Quốc xã trong thời Thế chiến thứ hai. Ông
**Fedor von Bock** (3 tháng 12 năm 1880 – 4 tháng 5 năm 1945) là một Thống chế quân đội Đức thời Chiến tranh thế giới thứ hai. Ông đã đóng một vai trò quan
**Erich von Manstein** tên đầy đủ là **Fritz Erich Georg Eduard von Lewinski** (24 tháng 11 năm 1887 – 10 tháng 7 năm 1973) là một chỉ huy cấp cao của quân đội Đức thời
**Job Wilhelm Georg Erdmann Erwin von Witzleben** (4 tháng 12 năm 1881 - 8 tháng 8 năm 1944) là một Thống chế Đức Quốc xã trong Thế chiến thứ hai. Ông là chủ mưu hàng
**Maximilian Maria Joseph Karl Gabriel Lamoral Reichsfreiherr von und zu Weichs an der Glon** (12 tháng 11 năm 1881 - 27 tháng 9 năm 1954) là một thống chế Wehrmacht của Đức Quốc xã trong
**Henning Hermann Karl Robert von Tresckow** (; sinh ngày 10 tháng 1 năm 1901 - mất 21 tháng 7 năm 1944) là một sĩ quan Wehrmacht hàm thiếu tướng. Ông là người đã tổ chức
**Günther "Hans" von Kluge** (30 tháng 10 năm 1882 – 19 tháng 8 năm 1944) là một Thống chế Quân đội Đức Quốc xã. Ông sinh tại Posen trong một gia đình quân đội người
**Wilhelm Ritter von Leeb** (5 tháng 9 năm 1876 – 29 tháng 4 năm 1956) là một trong những thống chế Đức Quốc xã trong Chiến tranh thế giới thứ hai, tư lệnh cụm tập
**Paul Ludwig Ewald von Kleist** (8 tháng 8 năm 1881 – 13 tháng 11 năm 1954) là một thống chế Đức Quốc Xã trong Thế chiến thứ hai. ## Sự nghiệp Paul von Kleist sinh
Quân kỳ của Quân đội Đức quốc xã**Lịch sử quân sự Đức trong Chiến tranh thế giới thứ hai** bắt đầu từ quân số 100.000 do Hòa ước Versailles hạn chế, không được quyền có
**Erwin Johannes Eugen Rommel** (15/11/1891 - 14/10/1944) còn được biết đến với tên **Cáo Sa mạc**, _Wüstenfuchs_ , là một trong những vị Thống chế lừng danh nhất của nước Đức trong cuộc Chiến tranh
**Trận Kiev năm 1941** là trận công kích lớn thứ ba của Đức Quốc Xã vào mặt trận Tây Nam của Hồng quân Liên Xô (ngả qua Urkraina) trong Chiến dịch Barbarossa, sau Trận Dubno
**Trận Dunkerque** (hay **Trận Dunkirk**) là một trận đánh quan trọng nổi tiếng trong Chiến tranh thế giới thứ hai, diễn ra tại xã Dunkerque, Pháp từ ngày 26 tháng 5 cho đến ngày 4
**Hermann Hoth** (1885-1971) là một Đại tướng Lục quân Đức trong Chiến tranh thế giới thứ hai. Ông là một trong những chỉ huy hàng đầu của binh chủng Tăng-Thiết giáp Đức, đã dẫn dắt
**Trận chiến nước Pháp** (), còn được gọi là **Chiến dịch phía Tây** (**'), **Chiến dịch nước Pháp** (, ) và **Nước Pháp thất thủ''', là cuộc xâm lược của Đức nhằm vào Pháp, Bỉ,
**Chiến dịch Overlord**, hay **Cuộc tập trận Hornpipe**, là mật danh của **Trận Normandie,** một chiến dịch quân sự quy mô lớn của quân đội Đồng Minh tại miền Bắc nước Pháp trong Chiến tranh
**Trận Caen** là một trận đánh trong trận Normandie lớn hơn giữa quân đội Vương quốc Anh mà ở đây cụ thể là Tập đoàn quân số 2 và Cụm Tập đoàn quân Tây (Tiếng
**Otto Moritz Walter Model** (24 tháng 1 năm 1891 - 21 tháng 4 năm 1945) là một thống chế của quân đội Đức Quốc xã trong Chiến tranh thế giới thứ hai. Model nổi tiếng
**Chiến dịch Kharkov (1941)**, theo cách gọi của Wilhelm Keitel là **Trận Kharkov lần thứ nhất**, còn theo lịch sử của Nga là **Chiến dịch phòng thủ Sumy-Kharkov**, diễn ra từ ngày 1 tháng 10
thumb|Quân hàm Lục quân thumb|Phù hiệu (Hạ sĩ quan và binh sĩ) **_Quân đội Đức_** (Heer), là Lục quân Đức và là một phần lực lượng _Wehrmacht_ rộng lớn hơn, thực sự đã kế thừa
**Chiến dịch Market Garden** là một chiến dịch quân sự lớn của quân đội Đồng Minh trong Chiến tranh thế giới thứ hai, diễn ra từ ngày 17 tháng 9 năm 1944 tới ngày 25
**Heinrich Kurt Alfons Willy Eberbach** (24 tháng 11 năm 1895 – 13 tháng 7 năm 1992) là Thượng tướng Thiết giáp quân đội Đức thời Chiến tranh thế giới thứ hai. Ông là một cộng
**Chiến dịch Neptune** (mã hiệu: **Halcyon**), là mật danh của **cuộc đổ bộ vào Normandie**, chiến dịch đổ bộ đường biển kết hợp với đường hàng không của quân đội Đồng Minh ở Chiến dịch
**Trận Monthermé** là một trong các trận đánh khai màn Chiến dịch nước Pháp thời Chiến tranh thế giới thứ hai, diễn ra từ ngày 13 đến ngày 15 tháng 5 năm 1940 ở bán
**Cụm tập đoàn quân Nam** () là một phiên hiệu đại đơn vị cấp Cụm tập đoàn quân của Đức Quốc xã trong Thế chiến thứ hai. Đơn vị là một trong những cánh quân
Quân Đức diễn hành tại Paris **Mặt trận phía tây** của chiến trường châu Âu trong Chiến tranh thế giới thứ hai bao gồm các trận chiến trên lãnh thổ của Đan Mạch, Na Uy,
**Trận Arras** là một trận đánh trong Chiến dịch Pháp thời Chiến tranh thế giới thứ hai, diễn ra vào ngày 21 tháng 5 năm 1940 ở phía tây nam thị trấn Arras (đông bắc
**Chiến dịch Blau** (tiếng Đức: **_Fall Blau_**) là mật danh của Kế hoạch tổng tấn công từ mùa hè năm 1942 của quân đội Đức Quốc xã trên toàn bộ cánh Nam của mặt trận
nhỏ|Quân kỳ và là cờ hiệu của Kriegsmarine **Wehrmacht** (tiếng Đức: _Lực lượng Quốc Phòng_) là tên thống nhất của các lực lượng vũ trang quân đội Đức Quốc xã từ năm 1935 đến năm
**Chiến dịch Barvenkovo–Lozovaya** (Lozova) (được Thống chế Đức Wilhelm Bodewin Gustav Keitel gọi là **Trận Kharkov lần thứ hai**) là một hoạt động quân sự lớn của quân đội Liên Xô và quân đội Đức
**Thống chế** (, ) là cấp bậc quân sự cao cấp trong Quân đội Đức Quốc xã. Cấp bậc này từ được xem là cấp bậc quân sự cao nhất của Đức Quốc xã. Từ
**Âm mưu 20 tháng 7** là một âm mưu ám sát quốc trưởng Đức Adolf Hitler vào ngày 20 tháng 7 năm 1944 tại căn cứ tư lệnh khu Rastenburg, Đông Phổ. Trong nhóm âm
**Chiến dịch Barbarossa** (), còn được gọi là **Cuộc xâm lược của Đức vào Liên Xô** là mật danh của chiến dịch xâm lược Liên Xô do Quân đội Đức Quốc xã tiến hành trong
**Cuộc xâm lược Ba Lan 1939** – được người Ba Lan gọi là **Chiến dịch tháng Chín** (_Kampania wrześniowa_), **Chiến tranh vệ quốc năm 1939** (_Wojna obronna 1939 roku_); người Đức gọi là **Chiến dịch
nhỏ|Gotthard Heinrici **Gotthardt Heinrici** (25 tháng 12 năm 1886 – 13 tháng 12 năm 1971) là một vị tướng bộ binh và thiết giáp của Đệ tam Đế chế Đức, đã được thăng đến cấp
**Chiến dịch Ý** là chiến dịch tấn công dài và oanh liệt nhất do khối Đồng Minh phương Tây thực hiện trong Chiến tranh thế giới thứ hai. Chiến dịch kéo dài từ ngày 10
**Utah**, hay **Bãi Utah**, là định danh của một trong năm khu vực đổ bộ của quân đội Đồng Minh trong Chiến dịch Neptune, chiến dịch đổ bộ đường biển kết hợp đường không của
**Chiến tranh Xô–Đức 1941–1945** là một cuộc chiến giữa Liên Xô và Đức Quốc xã trong Thế chiến thứ hai, trải dài khắp Bắc, Nam và Đông Âu từ ngày 22 tháng 6 năm 1941
**Omaha**, hay **Bãi Omaha**, là định danh của một trong năm khu vực đổ bộ của quân đội Đồng Minh trong Chiến dịch Neptune - chiến dịch đổ bộ đường biển kết hợp đường không
**Trận Uman** là một phần Chiến dịch Barbarossa trong giai đoạn đầu của Chiến tranh Xô-Đức, diễn ra từ ngày 15 tháng 7 đến ngày 10 tháng 8 năm 1941 diễn ra tại thành phố
** Cuộc tấn công mùa xuân năm 1945 tại Ý**, có tên mã là **Chiến dịch Grapeshot**, là cuộc tấn công cuối cùng của lực lượng Đồng Minh trong Chiến dịch Ý vào giai đoạn
**Trận La Horgne** diễn ra vào ngày 15 tháng 5 năm 1940 trên miền Ardennes (Pháp), sau khi Quân đoàn Thiết giáp XIX (Đức) dưới sự thống lĩnh của Thượng tướng Thiết giáp Heinz Guderian
**Trận Montcornet** diễn ra vào ngày 17 tháng 5 năm 1940, khi Chuẩn tướng Charles de Gaulle dẫn Sư đoàn Thiết giáp số 4 (Pháp) từ Laon phản công vào các đơn vị thuộc Quân
**Sword**, hay **Bãi Sword**, là định danh của một trong năm khu vực đổ bộ của quân Đồng Minh trong Chiến dịch Neptune, mật danh của chiến dịch đổ bộ trong giai đoạn đầu của
Ngày **24 tháng 2** là ngày thứ 55 trong lịch Gregory. Còn 310 ngày trong năm (311 ngày trong năm nhuận). ## Sự kiện *947 – Sau khi diệt Hậu Tấn, Hoàng đế Khiết Đan
Ngày **12 tháng 12** là ngày thứ 346 trong mỗi năm thường (ngày thứ 347 trong mỗi năm nhuận) theo lịch Gregorius; còn lại 19 ngày cho đến cuối năm. ## Sự kiện * 1666
**Chiến dịch Sư tử biển** () là một chiến dịch quân sự của Đức Quốc xã nhằm tấn công và xâm chiếm Anh Quốc bắt đầu vào năm 1940. Kế hoạch này dựa trên điều
**Chiến dịch hợp vây Colmar** (mật danh: _Chiến dịch Cheerful_) là một chiến dịch tấn công của quân đội Đồng Minh phương Tây nhằm vào Tập đoàn quân số 19 (Đức) ở Alsace (Pháp) thời
**Tập đoàn quân số 8** () là một đơn vị tác chiến cấp Tập đoàn quân của Lục quân Đức Quốc xã trong Thế chiến thứ hai. Nó tồn tại hai lần trong chiến tranh,
**Phủ Toàn quyền** (; ; ) chỉ các vùng lãnh thổ của Đệ Nhị Cộng hòa Ba Lan trước đây, bị Đức Quốc xã chiếm đóng quân sự từ năm 1939 đến 1945 nhưng không