✨Chiến dịch hợp vây Colmar

Chiến dịch hợp vây Colmar

Chiến dịch hợp vây Colmar (mật danh: Chiến dịch Cheerful) là một chiến dịch tấn công của quân đội Đồng Minh phương Tây nhằm vào Tập đoàn quân số 19 (Đức) ở Alsace (Pháp) thời Chiến tranh thế giới thứ hai. Chiến dịch diễn ra từ ngày 20 tháng 1 đến ngày 9 tháng 2 năm 1945, và do Cụm Tập đoàn quân số 6 Mỹ-Pháp (Tư lệnh: Trung tướng Jacob Devers) thực hiện. Mục tiêu của chiến dịch là tiêu diệt lực lượng Đức co cụm ở Colmar, giải phóng hoàn toàn tỉnh Alsace và chấm dứt sự hiện diện của quân đội Đức trên bờ tây sông Rhein. Chiến dịch kết thúc với thắng lợi lớn của quân đội Đồng Minh, họ đã loại được 80% binh lực của Tập đoàn quân số 19.

Trong hàng loạt trận đánh dữ dội vào tháng 11-12 năm 194, Tập đoàn quân số 1 (Pháp) và Tập đoàn quân số 7 (Mỹ) đã trục Tập đoàn quân số 19 (Đức) khỏi hầu hết tỉnh Alsace, trừ khu vực Colmar trên bờ tây sông Rhein. Quân Đức co cụm về giữ Colmar và đánh lui nhiều đợt tấn công liên quân Pháp-Mỹ tháng 12 năm 1944. Từ Colmar, quân Đức mở trận phản kích chiếm lại Alsace vào ngày 1 tháng 1 năm 1945 nhưng không thành công. Sau thất bại này của quân đội Đức, Bộ Tổng tư lệnh Đồng Minh phát lệnh cho Cụm Tập đoàn quân số 6 dùng các Quân đoàn I, II của Tập đoàn quân số 1 (Pháp) bao vây, tiêu diệt cụm cứ điểm Colmar đặng khai thông con đường vượt sông Rhein tiến vào bản thổ Đức.

Cuộc tiến công mở màn của Tập đoàn quân số 1 (Pháp) vào ngày 20 tháng 1 năm 1945, nhưng thời tiết xấu cộng với sự kháng cự bền bỉ của quân đội Đức đã làm chậm đà tiến công của 2 quân đoàn Pháp và gây cho họ nhiều tổn thất. Bộ Tư lệnh Đồng Minh phải chuyển Quân đoàn XXI (Mỹ) sang đội hình Tập đoàn quân số 1 (Pháp) để trợ giúp người Pháp đánh chiếm Colmar. Được tăng cường lực lượng, quân Đồng Minh tăng tốc tiến công, đánh tan các tuyến phòng ngự của địch và cắt đôi cụm cứ điểm Colmar vào ngày 5 tháng 2 năm 1945. Tình hình này buộc Tổng tư lệnh quân đội Đức ở Tây Âu - Thống chế Gerd von Rundstedt phải ra lệnh cho Tập đoàn quân số 19 tháo chạy sang bờ đông sông Rhein. Quân Đức bị thiệt hại rất lớn trên đường rút lui.

Bối cảnh lịch sử

Cụm đề kháng Colmar hình thành

Trên bờ tây sông Rhein, quân đội Đức đã lập một đầu cầu dài 65 km và rộng 50 km vào tháng 11 năm 1944, sau khi Cụm Tập đoàn quân số 6 (Mỹ) gồm Tập đoàn quân số 1 (Pháp) và Tập đoàn quân số 7 (Mỹ) chọc thủng trận địa quân Đức ở dãy Vosges. Tập đoàn quân số 1 (Pháp) do Đại tướng Jean de Lattre de Tassigny chỉ huy đã đánh chiếm khe hở Belfort và tiêu diệt Quân đoàn Không quân IV (Đức) gần thị trấn Burnhaupt phía nam dãy Vosges. Không lâu sau, Tập đoàn quân số 1 (Pháp) áp sát sông Rhein tại khu vực phía bắc biên giới Thụy Sĩ, giữa Mulhouse và Basel. Cùng lúc đó, trên mạn bắc dãy Vosges, Tập đoàn quân số 7 (Mỹ) với mũi nhọn đột kích là Sư đoàn Thiết giáp số 2 (Pháp) đã chọc thủng phòng tuyến Saverne, tiến ra sông Rhein và giải phóng Strasbourg vào ngày 23 tháng 11 năm 944. Thắng lợi của các cuộc hành quân đã hất quân Đức từ khu vực phía nam Alsace về một đầu cầu hơi tròn nằm quanh thị trấn Colmar, gọi là Cái túi Colmar.

Nhìn nhận của Đức

Ngoài Normandie, những vùng đất Pháp mà quân Đức phòng vệ quyết liệt nhất là Alsace và Lorraine.

👁️ 0 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Chiến dịch hợp vây Colmar** (mật danh: _Chiến dịch Cheerful_) là một chiến dịch tấn công của quân đội Đồng Minh phương Tây nhằm vào Tập đoàn quân số 19 (Đức) ở Alsace (Pháp) thời
**Audie Leon Murphy** (20 tháng 6 năm 1925 – 28 tháng 5 năm 1971) là một quân nhân, diễn viên, nhạc sĩ và chủ nông trại người Mỹ. Ông là một trong những quân nhân Lục
Quân Đức diễn hành tại Paris **Mặt trận phía tây** của chiến trường châu Âu trong Chiến tranh thế giới thứ hai bao gồm các trận chiến trên lãnh thổ của Đan Mạch, Na Uy,
Phi cơ [[B-17 Flying Fortress đang bay trên bầu trời châu Âu]] Các giới chức quân sự quan trọng của Mỹ tại châu Âu năm 1945 **Lịch sử quân sự Hoa Kỳ trong Chiến tranh
Sau khi cuộc Chiến tranh thế giới thứ nhất bùng nổ vào năm 1914, Quân đội Đế quốc Đức đã mở ra **Mặt trận phía tây**, khi họ tràn qua Luxembourg và Bỉ, rồi giành
**Jean Joseph Marie Gabriel de Lattre de Tassigny** (, 2 tháng 2 năm 1889 – 11 tháng 1 năm 1952) là đại tướng Pháp trong thời kỳ Chiến tranh thế giới thứ hai và Chiến
**Tiger I** là một loại xe tăng hạng nặng của Đức được sử dụng trong Thế chiến II, được sản xuất từ cuối năm 1942 như một loại tăng đương đầu với sức kháng cự
**Johannes Albrecht Blaskowitz** (10 tháng 7 năm 1883 – 5 tháng 2 năm 1948) là một Đại tướng quân đội Đức Quốc xã trong Chiến tranh thế giới thứ hai. Ông được xem là một
**Đế quốc Ottoman** còn được gọi là **Đế quốc Osman** (; **', ; or **'; ) hay **Đế quốc Thổ Nhĩ Kỳ**, là một Đế quốc trải rộng xuyên suốt Nam Âu, Trung Đông và
**Helmuth Johannes Ludwig von Moltke** (; 23 tháng 5 năm 1848, Biendorf – 18 tháng 6 năm 1916, Berlin), còn được gọi là **Moltke Nhỏ** để phân biệt với người bác của mình là Thống
**Lớp tàu tuần dương _La Galissonnière**_ là một nhóm sáu tàu tuần dương hạng nhẹ được đưa vào hoạt động cùng Hải quân Pháp trong những năm 1930. Chúng là những tàu tuần dương Pháp
**_Lâu đài bay của pháp sư Howl_** (tiếng Nhật: ハウルの動く城, Hepburn: _Hauru no Ugoku Shiro_, tiếng Anh: **_Howl's Moving Castle_**), hay **_Lâu đài di động của Howl_**, là một bộ phim điện ảnh hoạt hình
**Louis XV** (15 tháng 2 năm 1710 – 10 tháng 5 năm 1774), biệt danh **Louis Đáng yêu**, là quân vương của Vương tộc Bourbon, giữ tước hiệu Vua của Pháp từ 1 tháng 9
**Gebhard Leberecht von** **Blücher, Thân vương xứ Wahlstatt** (; 21 tháng 12 năm 1742 – 12 tháng 9 năm 1819), là _Graf_ (Bá tước), sau này được nâng lên thành _Fürst_ (Thân vương có chủ
**Phục bích** (chữ Hán: 復辟), còn được phiên âm là **phục tích** hay **phục tịch**, nghĩa đen là "khôi phục ngôi vua" là trường hợp một quân chủ đã từ nhiệm hoặc đã bị phế
**Câu lạc bộ bóng đá Paris** (), thường được biết đến với tên gọi **Paris FC** hay đơn giản là **PFC**, là một câu lạc bộ bóng đá chuyên nghiệp của Pháp có trụ sở