✨Wilhelm von Leeb

Wilhelm von Leeb

Wilhelm Ritter von Leeb (5 tháng 9 năm 1876 – 29 tháng 4 năm 1956) là một trong những thống chế Đức Quốc xã trong Chiến tranh thế giới thứ hai, tư lệnh cụm tập đoàn quân C đánh Pháp và tư lệnh Cụm Tập đoàn quân Bắc bao vây Leningrad trong chiến dịch Barbarossa. Vì thất bại tại Leningrad, ông bị Hitler tước quyền chỉ huy và không còn được trọng dụng nữa, bị tòa án Nürnberg tuyên án 3 năm tù nhưng được trả tự do ngay sau phiên xử vì ông đã bị tạm giam quá thời hạn của bản án mà tòa án đã tuyên.

Cuộc đời

Tuổi trẻ

Ông sinh tại Landsberg am Lech, Bayern với tên Wilhelm Leeb, gia nhập quân đội bang Bayern năm 1895 với quân hàm hạ sĩ quan. Với cấp hàm trung úy pháo binh, Leeb đã từng đến Đại Thanh đế quốc trong cuộc trấn áp phong trào Nghĩa Hòa Đoàn của liên quân tám nước. Sau đó, ông học tại học viện Chiến tranh của Bayern trong 2 năm (1907 - 1909) và phục vụ trong bộ tham mưu tại Berlin (1909 - 1911). Sau khi được phong hàm đại úy, Leeb tham gia chỉ huy một khẩu đội pháo thuộc Trung đoàn Pháo dã chiến số 10 Bavaria tại Erlangen (1912 - 1913).

Chiến tranh thế giới thứ nhất

Khi Chiến tranh thế giới thứ nhất bùng nổ, Leeb là thành viên Bộ tham mưu Quân đoàn I Bavaria, sau đó là trong sư đoàn bộ binh Bavaria số 11. Sau khi được phong hàm thiếu tá, Leeb được điều đến Mặt trận phía Đông vào mùa hè năm 1916. Nhờ những thành tích trong việc chiếm pháo đài Przemysl trong chiến dịch Gorlice-Tarnow và vượt sông Danube trong chiến dịch Serbia năm 1915, Leeb nhận được Chữ thập Hiệp sĩ của Huân chương Max Joseph. Đây là huân chương tương đương với huân chương Pour le Mérite của vương quốc Phổ. Nhờ huân chương này, ngày 21 tháng 6 năm 1916, ông được đưa lên địa vị quý tộc với việc thêm tước hiệu "Ritter" ("hiệp sĩ") vào tên của mình.

Từ tháng 5 năm 1917 cho đến khi chiến tranh kết thúc, ông được điều đến Mặt trận phía Tây và được bổ nhiệm làm tham mưu cho Thái tử Rupprecht xứ Bavaria.

Giữa hai cuộc thế chiến

Sau chiến tranh, Leeb vẫn tiếp tục ở lại trong quân đội của nền cộng hòa Weimar, Reichswehr. Sau khi đảm nhận nhiều chức vụ lần lượt ở Bộ quốc phòng, Sĩ quan tham mưu tại quân khu II (Stettin) và VII (Munich, bao gồm cả vùng Bavaria). Năm 1929, ông được phong quân hàm trung tướng. Trong suốt thập niên 30, Leeb làm chỉ huy quân khu VII và sư đoàn 7.

Sau khi Adolf Hitler lên nắm quyền, Leeb không còn được trọng dụng nhiều do ông có tư tưởng chống Quốc xã và là người theo Công giáo. Tuy nhiên, vào tháng 1 năm 1934, ông được phong quân hàm đại tướng pháo binh. Một năm sau, ông xuất bản sách mang tên "Die Abwehr", một quyển sách viết về chiến thuật phòng thủ, ngược quan điểm với cuốn "Blitzkrieg" (Chiến tranh sấm sét) đang rất thịnh hành vào thời điểm đó.

Sau cuộc khủng hoảng Blomberg-Fritsch, Leeb bị cho về hưu sau khi được phong quân hàm thượng tướng. Tuy nhiên đến tháng 7 năm 1938, khi sự kiện Sudetenland nổ ra, Leeb được gọi lại chỉ huy Tập đoàn quân số 12 (12. Armee) chiếm Sudetenland. Nhưng ngay lập tức sau đó, ông lại tiếp tục bị cho về hưu.

Chiến tranh thế giới thứ hai

Trận chiến nước Pháp

Mùa hè 1939, Leeb lại được gọi trở lại lần hai và được giao nắm quyền cụm Tập đoàn quân C đóng tại biên giới Pháp-Đức, dọc theo sông Rhine và phòng tuyến Maginot. Ở tuổi 62, Leeb cùng với Gerd von Rundstedt là những sĩ quan già nhất quân đội Đức.

Trước Trận chiến nước Pháp, Leeb đã tỏ ra không những nghi ngờ thắng lợi mà còn chống đối việc tấn công qua Bỉ và Hà Lan vì lý do đạo lý. Đích thân ông soạn một bản ghi nhớ dài gửi đến tư lệnh lục quân Đức Walther von Brauchitsch và các tướng lĩnh khác rằng cả thế giới sẽ chống lại Đức:

Khi Đức tấn công Pháp, tập đoàn quân C của Leeb gồm 18 sư đoàn đã mở cuộc tấn công vượt qua phòng tuyến Maginot. Sau thắng lợi, ông được phong hàm thống chế (Generalfeldmarschall) vào tháng 7 năm 1940, và tặng thưởng huân chương Chữ thập Hiệp sĩ của Thập tự Sắt.

Chiến dịch Barbarossa và trận Leningrad

Để chuẩn bị cho cuộc tấn công Liên Xô, tập đoàn quân của Leeb đã được điều từ Pháp đến Dresden. Mùa xuân năm 1941, ông được giao nhiệm vụ chỉ huy Cụm tập đoàn quân Bắc. Trong chiến dịch Barbarossa, Cụm tập đoàn quân Bắc phụ trách hướng tấn công vào Tây Bắc Liên Xô với nhiệm vụ hợp vây các đơn vị thuộc Quân khu Pribaltic của Hồng quân Liên Xô, tấn công dọc theo bờ biển Baltic hướng về Leningrad, bao vây và đánh chiếm thành phố này. Chỉ 3 tuần sau, Cụm Tập đoàn quân Bắc gồm 21 sư đoàn bộ binh và 6 sư đoàn thiết giáp đã tiến nhanh qua các nước vùng Baltic hướng đến thành phố Leningrad. Ngày 15 tháng 9, von Leeb điều tập đoàn quân thiết giáp số 4 của tướng Erich Hoepner đến yểm trợ Cụm Tập đoàn quân Trung tâm đánh chiếm Moskva.

Từ ngày 16 tháng 10 đến ngày 8 tháng 11, Tập đoàn quân 16 của Đức tấn công đánh chiếm Tikhvin, tiến sát thành phố Volkhov, cắt đứt đường sắt Moskva - Leningrad và chỉ bị chặn lại trước tuyến phòng ngự do đại tướng Liên Xô Kirill Afanasievich Meretskov chỉ huy. Vận dụng chiến thuật phòng thủ chủ động và liên tục phản công, Meretskov đã làm quân Đức sa lầy và đến ngày 10 tháng 12 năm 1941 thì Hồng quân do ông chỉ huy đã chiếm lại được Tikhvin. Đến ngày 30 tháng 12, Meretskov đã đẩy được đội quân của Leeb về vị trí trước khi tấn công Tikhvin, theo nhà Sử học David Glantz thì đây là lần đầu tiên trong Chiến tranh thế giới thứ hai ý tưởng về chiến tranh chớp nhoáng (blitzkrieg) của người Đức bị thất bại. Trận Tikhvin còn có ý nghĩa quan trọng trong việc phòng thủ Moskva khi thay vì gửi quân đội đến thủ đô Liên bang Xô viết, Cụm tập đoàn quân Bắc của Đức Quốc xã đã phải bố trí lại ở hướng Leningrad cùng với nhiều đơn vị khác ban đầu cũng được người Đức dự định dành cho mặt trận Moskva. Quân Đức mất 45.000 người trong trận này.

Khi von Leeb thất bại trong việc chiếm Leningrad, Hitler đã chỉ trích ông: "Leeb quá tỉ mỉ trong kế hoạch phòng thủ của mình ở khu vực tây bắc và muốn tiến vào Moscow nên đã không thể chiếm Leningrad như tôi muốn. Ông ấy rõ ràng là đã quá già yếu, quá thiếu nhuệ khí và là một tín đồ Công giáo nên chỉ muốn cầu nguyện chứ không thích chiến đấu."

Vì những bất đồng với Hitler xung quanh vấn đề trận tuyến phòng thủ cuộc phản công của Hồng quân, ông bị mất chức Tư lệnh Cụm tập đoàn quân Bắc vào ngày 18 tháng 1 năm 1942 và từ đó không còn được Hitler trọng dụng nữa.

Mối liên hệ giữa Leeb và chế độ Quốc xã

Thái độ của Leeb đối với chế độ Quốc xã là mâu thuẫn. Mặc dù không hài lòng với chế độ độc tài của Hitler, ông cũng đồng ý nhận món quà sinh nhật 250.000 Reichsmarks của Quốc trưởng trong dịp sinh nhật lần thứ 65 vào năm 1941. Năm 1944, von Leeb đã cho phép chế độ Quốc xã sử dụng hình ảnh mình phục vụ cho tuyên truyền và được tặng một bất động sản lớn tại Baravia trị giá 638.000 Reichsmarks. Sau khi kế hoạch ám sát Hitler ngày 20 tháng 7 thất bại, von Leeb đã gửi lời khẳng định sự trung thành của mình tới Quốc trưởng, mặc dù việc này được ông bào chữa là để nhằm cứu mạng sống bản thân và gia đình.

Những ngày cuối đời

Tháng 5 năm 1945, Leeb bị người Mỹ bắt giữ. Ông bị đưa ra xét xử tại Tòa án Nürnberg vào năm 1948, bị tuyên 3 năm tù giam nhưng được trả tự do ngay sau phiên tòa vì đã bị giam quá thời gian này. Ông sống những ngày cuối đời yên tĩnh cùng gia đình tại Füssen và mất vào năm 1956. Leeb còn một người em trai nữa là Thượng tướng Pháo binh Emil Leeb (1881-1969).

Năm 1965, lực lượng vũ trang Tây Đức đã đặt tên một trại lính tại Landsberg am Lech là Ritter von Leeb-Kaserne.

Khen thưởng

  • Thập tự Sắt (1914) Hạng II và I.
  • Huân chương Max Joseph, 2 tháng 5 năm 1915
  • Chữ thập Hiệp sĩ của Thập tự sắt, 24 tháng 6 năm 1940

    Cấp hàm

  • Fahnenjunker - 1 tháng 12 năm 1895
  • Fähnrich - 18 tháng 1, 1896
  • Leutnant - 3 tháng 3 năm 1897
  • Oberleutnant - 13 tháng 5 năm 1905
  • Hauptmann - 7 tháng 3 năm 1912
  • Major - 19 tháng 5 năm 1916
  • Oberstleutnant - 28 tháng 12 năm 1920
  • Oberst - 1 tháng 2 năm 1925
  • Generalmajor - 1 tháng 2 năm 1929
  • Generalleutnant - 1 tháng 12 năm 1929
  • General der Artillerie - 1 tháng 1 năm 1934
  • Generaloberst tạm thời - 28 tháng 2 năm 1938
  • Generaloberst - 1 tháng 11 năm 1939
  • Generalfeldmarschall - 19 tháng 7 năm 1940
👁️ 1 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Wilhelm Ritter von Leeb** (5 tháng 9 năm 1876 – 29 tháng 4 năm 1956) là một trong những thống chế Đức Quốc xã trong Chiến tranh thế giới thứ hai, tư lệnh cụm tập
**Erich von Manstein** tên đầy đủ là **Fritz Erich Georg Eduard von Lewinski** (24 tháng 11 năm 1887 – 10 tháng 7 năm 1973) là một chỉ huy cấp cao của quân đội Đức thời
**Trận phòng thủ Luga** diễn ra từ ngày 6 tháng 8 đến giữa tháng 9 năm 1941 là một trong các trận đánh ác liệt nhất tại mặt trận Tây Bắc Liên Xô trong giai
**Cuộc bao vây Leningrad** là cuộc phong tỏa quân sự của quân đội Đức Quốc xã đối với thành phố Leningrad (hiện nay là Sankt-Peterburg), đồng thời là cuộc phòng thủ dài ngày nhất trong
**Chiến dịch phòng ngự chiến lược Leningrad** là tổ hợp các hoạt động quân sự của quân đội Liên Xô chống lại các cuộc tấn công của quân đội Đức Quốc xã tại khu vực
**Chiến dịch tấn công Lyuban** () là một trận đánh diễn ra giữa Hồng quân Liên Xô và quân đội Đức xảy ra trong Chiến tranh Xô-Đức thuộc Chiến tranh thế giới thứ hai, kéo
**Chiến dịch Demyansk** (_Демянская операция_) là tên của một chiến dịch quân sự do Liên Xô tổ chức trong Chiến tranh Xô-Đức, kéo dài từ ngày 7 tháng 1 đến ngày 25 tháng 5 năm
**Chiến dịch phản công Tikhvin** (10 tháng 11 năm 1941 - 30 tháng 12 năm 1941) là một trận đánh diễn ra giữa quân đội Liên Xô và quân đội Đức quốc xã trong Chiến
**Job Wilhelm Georg Erdmann Erwin von Witzleben** (4 tháng 12 năm 1881 - 8 tháng 8 năm 1944) là một Thống chế Đức Quốc xã trong Thế chiến thứ hai. Ông là chủ mưu hàng
Quân kỳ của Quân đội Đức quốc xã**Lịch sử quân sự Đức trong Chiến tranh thế giới thứ hai** bắt đầu từ quân số 100.000 do Hòa ước Versailles hạn chế, không được quyền có
**Hermann Hoth** (1885-1971) là một Đại tướng Lục quân Đức trong Chiến tranh thế giới thứ hai. Ông là một trong những chỉ huy hàng đầu của binh chủng Tăng-Thiết giáp Đức, đã dẫn dắt
**Kirill Afanasievich Meretskov** (tiếng Nga: _Кирилл Афанасьевич Мерецков_; 7 tháng 6 năm 1897 - 30 tháng 12 năm 1968) là một chỉ huy Hồng quân trong Chiến tranh thế giới thứ hai, Nguyên soái Liên
**Georgy Konstantinovich Zhukov** (; , 1 tháng 12 năm 1896 – 18 tháng 6 năm 1974) là một sĩ quan cấp tướng và là Nguyên soái Liên Xô. Ông cũng từng là Tổng Tham mưu
**Trận phản công Staraya Russa** là trận phản công lớn thứ hai của quân đội Liên Xô trên hướng Leningrad trong tháng 8 năm 1941. Diễn ra từ ngày 12 đến ngày 25 tháng 8
**Chiến tranh Xô–Đức 1941–1945** là một cuộc chiến giữa Liên Xô và Đức Quốc xã trong Thế chiến thứ hai, trải dài khắp Bắc, Nam và Đông Âu từ ngày 22 tháng 6 năm 1941
**Cụm tập đoàn quân Bắc** () là một phiên hiệu đội hình tác chiến chiến lược cấp Cụm tập đoàn quân của Đức Quốc xã trong Thế chiến thứ hai, đặt dưới quyền chỉ huy
**Mặt trận Baltic** là một trong ba mục tiêu tấn công đầu tiên của quân đội Đức Quốc xã trong Chiến dịch Barbarossa. Trong tuần lễ đầu tiên của cuộc Chiến tranh Xô-Đức, tại đây
**Chiến dịch Barbarossa** (), còn được gọi là **Cuộc xâm lược của Đức vào Liên Xô** là mật danh của chiến dịch xâm lược Liên Xô do Quân đội Đức Quốc xã tiến hành trong
nhỏ|Quân kỳ và là cờ hiệu của Kriegsmarine **Wehrmacht** (tiếng Đức: _Lực lượng Quốc Phòng_) là tên thống nhất của các lực lượng vũ trang quân đội Đức Quốc xã từ năm 1935 đến năm
**Thống chế** (, ) là cấp bậc quân sự cao cấp trong Quân đội Đức Quốc xã. Cấp bậc này từ được xem là cấp bậc quân sự cao nhất của Đức Quốc xã. Từ
**Kurzeme** (; ; ; Tiếng Đức và ; / ; ; ; ; ; ; ) là một trong những vùng văn hóa lịch sử Latvia. Các vùng Zemgale và Sēlija đôi khi được coi
**Trận Raseiniai** (23–27 tháng 6 năm 1941) là một trận đấu xe tăng diễn ra giữa Tập đoàn quân thiết giáp số 4 của quân phát xít Đức với hai Quân đoàn cơ giới của
**Nguyên soái**, hay **Thống chế**, là danh xưng Việt ngữ dành chỉ quân hàm sĩ quan cao cấp nhất trong quân đội của một số quốc gia. Trong nhiều trường hợp, cấp bậc này được
**Leningrad** (tiếng Nga: **Ленинград. Город живых**, tiếng Anh: **Attack on Leningrad** - **Tấn công Leningrad**) là một bộ phim chiến tranh - lịch sử Nga năm 2007 của đạo diễn Aleksandr Buravsky, khai thác sự
**Bộ Tổng tư lệnh Lục quân** (tiếng Đức: _Oberkommando des Heeres_, viết tắt **OKH**), hay **Bộ Tư lệnh Lục quân**, là cơ quan tối cao của Lục quân Đức Quốc xã. Cơ quan được thành