✨Cụm tập đoàn quân Nam

Cụm tập đoàn quân Nam

Cụm tập đoàn quân Nam () là một phiên hiệu đại đơn vị cấp Cụm tập đoàn quân của Đức Quốc xã trong Thế chiến thứ hai. Đơn vị là một trong những cánh quân chủ lực của Đức Quốc xã tham chiến trong hầu như toàn bộ Thế chiến thứ hai, đặc biệt trong Chiến tranh Xô-Đức, đảm trách chiến trường Ukraina, nên diễn ra hầu hết những trận đánh lớn làm thay đổi cục diện tại Mặt trận phía Đông.

Lịch sử

Chiến dịch Ba Lan

Cụm tập đoàn quân Nam được thành lập đầu tiên vào ngày 24 tháng 8 năm 1939 trên cơ sở cơ cấu Bộ Tư lệnh Tập đoàn quân 12 để chuẩn bị cho Chiến dịch Ba Lan. Đại tướng Gerd von Rundstedt được bổ nhiệm làm Tư lệnh và Trung tướng Erich von Manstein làm Tham mưu trưởng Cụm tập đoàn quân. Trong cuộc xâm lược Ba Lan, phối hợp với Cụm tập đoàn quân Bắc, Cụm tập đoàn quân Nam phát động tiến quân vào ngày 1 tháng 9 năm 1939, với phần lớn các sư đoàn thiết giáp và lực lượng cơ động từ các hướng Silesia (Tập đoàn quân 8 từ Niederschlesien, Tập đoàn quân 10 chủ yếu từ Oberschlesien), Moravia và Slovakia (Tập đoàn quân 14) tấn công vào miền Nam Ba Lan.

Sau khi Tập đoàn quân 10 đột phá thành công đến Warszawa, quân đội Ba Lan từ phía Tây Ba Lan dồn về phí sông Bzura và bị tiêu diệt bởi Tập đoàn quân 8 trong trận Bzura. Trong khi Tập đoàn quân 10 sau đó thiết lập liên lạc với Cụm tập đoàn quân Bắc tấn công từ phía Bắc gần Warszawa, thì Tập đoàn quân 14 tấn công Lviv và Lublin qua miền Nam Ba Lan, kết thúc chiến dịch với phần nửa lãnh thổ Ba Lan bị chiếm đóng một cách chóng vánh.

Sau khi chiến dịch Ba Lan kết thúc, Bộ tư lệnh Cụm tập đoàn quân được giải thể, được chuyển đến Mặt trận phía Tây và được đổi tên thành Cụm tập đoàn quân A.

Chiến dịch Barbarossa

thumb|trái|Bản đồ các hướng tiến công chính của quân Đức và đồng minh trân chiến trường phía Đông, 1941. Ukraina là một trung tâm công nghiệp và khai thác mỏ lớn của Liên Xô và có đất canh tác tốt cần thiết cho kế hoạch của Hitler về Lebensraum ('không gian sống'). Vì vậy, sau khi Trận chiến nước Pháp kết thúc, tháng 4 năm 1941, Cụm tập đoàn quân A được bí mật chuyển đến đến Tây Ba Lan để chuẩn bị tấn công Liên Xô trên hướng chiến lược Ukraina và thủ đô Kiev của nó.

Ngày 22 tháng 6 năm 1941, Cụm tập đoàn quân A được đổi thành Cụm tập đoàn quân Nam, trở thành một trong mũi tấn công chính của Đức trong Chiến dịch Barbarossa, đảm trách chính hướng tấn công chiến lược phía Nam và Tây Nam Liên Xô, từ Nam Ba Lan qua Slovakia, Hungary và Romania, tấn công tuyến Lvov - Kiev - Sevastopol - Odessa - Rostov-on-Don, tiến đến sông Volga, giao tranh với một bộ phận Hồng quân và do đó dọn đường cho Cụm tập đoàn quân Bắc và Cụm tập đoàn quân Trung tâm trên đường tiếp cận Leningrad và Moskva. Để thực hiện những nhiệm vụ ban đầu này, biên chế của nó bao gồm Cụm thiết giáp số 1 (chỉ huy von Kleist) và các tập đoàn quân 6 (chỉ huy von Reichenau), 11 (chỉ huy von Shobert) và 17 (chỉ huy von Stulpagel), Không lực 1 (chỉ huy Keller) và các tập đoàn quân số 3 và 4 của Romania. Mục tiêu chiến lược của Cụm là tiến tới Dnepr và chiếm lấy Kiev cũng như tiến sâu hơn vào lòng chảo Donets.

Trong những tháng đầu tiên của cuộc chiến, các binh đoàn của Cụm đã giáng cho quân đội Liên Xô hàng loạt thất bại nặng nề. Nhiều đơn vị Hồng quân Liên Xô đã bị xóa sổ trong hai trận đánh lớn gần Uman và Kiev từ tháng 7 đến tháng 9 năm 1941. Sau khi lấy Odessa vào tháng 10, quân Đức tiến vào Krym và bắt đầu bao vây Sevastopol, trong khi các bộ phận khác đã thành công trong việc chiếm Kharkov và chiếm giữ được Rostov-on-Don]] trong một thời gian.

Tuy nhiên, cũng chính trên chiến trường này, bất chấp những thiệt hại to lớn, Hồng quân Liên Xô cũng ngoan cường chống trả, làm phá sản chiến lược tốc chiến của quân Đức, thậm chí còn giáng trả cho quân Đức một thất bai nặng nề trong chiến dịch phòng ngự-phản công ở gần Rostov vào tháng 11-12 năm 1941. Việc phải rút quân khỏi Rostov vào cuối tháng 11 năm 1941 dẫn đến việc Rundstedt bị thay thế bởi Walter von Reichenau rồi Fedor von Bock. Tuy nhiên, vào mùa đông năm 1941-1942, Cụm tập đoàn quân đã kịp chiếm các vị trí phòng thủ dọc sông Mius và sông Donets.

Tháng 1 năm 1942, trong chiến dịch phản công của mình, Hồng quân đã cắt đứt được tuyến phòng thủ của quân Đức trên đoạn Donets giữa Izium và Balakliia, xây dựng một đầu cầu phía Tây vững chắc. Nhân chiến quả, Nguyên soái Semyon Timoshenko tiếp tục cuộc tấn công của mình với hai cánh tấn công vào Kharkov vào ngày 12 tháng 5, nhưng đã bị đánh thiệt hại nặng nề bởi một cuộc phản công bất ngờ của quân Đức ở gần Kharkov. Thành công này là tiền đề cho việc chuẩn bị cho cuộc tấn công mùa hè năm 1942 của quân Đức ("Fall Blau"). Để chuẩn bị cho chiến dịch tấn công mùa hè năm 1942 ở miền nam nước Nga và Kavkaz, tháng 7 năm 1942, Cụm tập đoàn quân Nam được tách thành hai bộ phận: Cụm tập đoàn quân A và Cụm tập đoàn quân B nhằm để phù hợp với địa bàn tác chiến được mở rộng.

Chiến cuộc Ukraina 1943-1944

Ngày 12 tháng 2 năm 1943, sau khi Tập đoàn quân 6 bị tiêu diệt ở Stalingrad và Cụm tập đoàn quân B bị tách khỏi cơ cấu chỉ huy của Mặt trận phía Đông, nhập vào với Cụm tập đoàn quân Sông Don (phát triển từ Tập đoàn quân 11 trước đây) và được đổi tên thành Cụm tập đoàn quân Nam dưới sự chỉ huy của Thống chế Erich von Manstein. Biên chế của nó vào mùa xuân năm 1943 gồm các tập đoàn quân thiết giáp 1 và 4 cùng các binh đoàn Hollidt (đổi tên thành Tập đoàn quân 6 mới vào tháng 3) và Kempf (đổi tên thành Tập đoàn quân 8 vào tháng 8).

Từ đầu năm 1943 đến mùa xuân năm 1944, Cụm tập đoàn quân Nam phải gánh chịu các cuộc giao tranh lớn ở Mặt trận phía Đông. Sau một thời gian ổn định do kết quả của cuộc phản công của Manstein (sau khi được tăng cường thêm Tập đoàn quân thiết giáp 1 được điều từ Kavkaz đến Ukraina) vào tháng 2 / tháng 3 năm 1943, thế chủ động của quân Đức cuối cùng đã bị mất vào tay Hồng quân vào tháng 7 năm 1943 sau thất bại trong Chiến dịch Zitadelle dẫn đến thất bại chiến lược của quân Đức tại Kursk. Tháng 9 năm 1943, quân Đức buộc phải rút khỏi khu vực công nghiệp ở lưu vực sông Donets, đến tháng 11 năm 1943, nỗ lực giữ phòng tuyến Dnepr cũng thất bại. Trong những nỗ lực ngăn cản bước tiến của Hồng quân, ngày 11 tháng 9 năm 1943, von Manstein ra lệnh thực hiện cái gọi là các biện pháp ARLZ, nhằm đốt phá, triệt hạ cơ sở vật chất, nhân lực của Liên Xô ở các khu vực mà quân Đức phải rút bỏ.

Cho đến tháng 4 năm 1944, quân Đức phải chiến đấu với tổn thất nặng nề và phải rút lui trên toàn mặt trận, đặc biệt là sau chiến dịch Dnepr-Carpath, và chỉ có thể dừng lại trên tuyến Galicia sau khi Hồng quân đã phải tạm dừng thế tiến công. Ngày 4 tháng 4 năm 1944, Cụm tập đoàn quân Nam được tái chỉ định thành Cụm tập đoàn quân Bắc Ukraina, do tướng Walter Model làm Tư lệnh.

Cuộc chiến cuối cùng

Tháng 9 năm 1944, Cụm tập đoàn quân Nam Ukraina ở miền Đông Hungary được đổi tên thành Cụm tập đoàn quân Nam. Sau các thất bại liên tiếp trong chiến dịch hồ Balaton, Cụm tập đoàn quân Nam bị buộc đẩy lùi về Tây Hungary, và tiếp tục lùi về Áo. Sau thất bại tại Viên đầu tháng 4 năm 1945, nó được đổi tên thành Cụm tập đoàn quân Ostmark vào ngày 2 tháng 4 năm 1945. Nó đã kết thúc cuộc chiến trong và xung quanh nước Áo cũng như Vùng bảo hộ Bohemia và Moravia. Sau chiến dịch Graz-Amstetten, Cụm tập đoàn quân Ostmark tan rã, một bộ phận của nó rút về phía Tây và đầu hàng trước quân Mỹ, khoảng 122.000 binh sĩ và sĩ quan bị Hồng quân bắt giữ.

Biên chế chủ lực

; Tháng 9 năm 1939

  • Tập đoàn quân số 8
  • Tập đoàn quân số 10
  • Tập đoàn quân số 14

; Tháng 6 năm 1941

  • Tập đoàn quân số 6
  • Tập đoàn quân số 11
  • Tập đoàn quân số 17
  • Tập đoàn quân thiết giáp số 1

; Tháng 2 năm 1942

  • Tập đoàn quân số 2
  • Tập đoàn quân số 6
  • Tập đoàn quân số 11
  • Cụm tác chiến Kleist (Armeegruppe v. Kleist)

; Tháng 6 năm 1942

  • Tập đoàn quân số 2
  • Tập đoàn quân số 6
  • Tập đoàn quân số 17
  • Tập đoàn quân số 11
  • Tập đoàn quân thiết giáp số 1
  • Cụm quân Wietersheim (Gruppe v. Wietersheim)

; Tháng 7 năm 1942

  • Tập đoàn quân số 6
  • Tập đoàn quân số 17
  • Tập đoàn quân số 11
  • Tập đoàn quân thiết giáp số 1
  • Cụm tác chiến Weichs (Armeegruppe v. Weichs)
  • Cụm quân Wietersheim

; Tháng 3 năm 1943

  • Tập đoàn quân thiết giáp số 1
  • Tập đoàn quân thiết giáp số 4
  • Binh đoàn Kempf (Armeeabteilung Kempf)
  • Binh đoàn Hollidt (Armeeabteilung Hollidt)

; Tháng 4 năm 1943

  • Tập đoàn quân số 6
  • Tập đoàn quân thiết giáp số 1
  • Tập đoàn quân thiết giáp số 4
  • Binh đoàn Kempf

; Tháng 7 năm 1943

  • Tập đoàn quân số 6
  • Tập đoàn quân số 8
  • Tập đoàn quân thiết giáp số 1
  • Binh đoàn Kempf

; Tháng 9 năm 1943

  • Tập đoàn quân số 6
  • Tập đoàn quân số 8
  • Tập đoàn quân thiết giáp số 1
  • Tập đoàn quân thiết giáp số 4

; Tháng 10 năm 1943

  • Tập đoàn quân số 8
  • Tập đoàn quân thiết giáp số 1
  • Tập đoàn quân thiết giáp số 4 thumb|Lính Đức tại Nam Ukraina (tháng 12 năm 1943) ; Tháng 11 năm 1943
  • Tập đoàn quân số 8
  • Tập đoàn quân thiết giáp số 1
  • Tập đoàn quân thiết giáp số 4
  • Bộ Tư lệnh Ukraina (Wehrmachtbefehlshaber Ukraine)

; Tháng 1 năm 1944

  • Tập đoàn quân số 6
  • Tập đoàn quân số 8
  • Tập đoàn quân thiết giáp số 1
  • Tập đoàn quân thiết giáp số 4
  • Bộ Tư lệnh Ukraina

; Tháng 2 năm 1944

  • Tập đoàn quân số 6
  • Tập đoàn quân số 8
  • Tập đoàn quân thiết giáp số 1
  • Tập đoàn quân thiết giáp số 4

; Tháng 10 năm 1944

  • Tập đoàn quân số 6
  • Cụm tác chiến Wöhler (Armeegruppe Wöhler)
  • Tập đoàn quân số 3 Hungary

; Tháng 11 năm 1944

  • Cụm tác chiến Wöhler
  • Cụm tác chiến Fretter-Pico (Armeegruppe Fretter-Pico)
  • Tập đoàn quân số 2 Hungary

; Tháng 12 năm 1944

  • Tập đoàn quân số 6
  • Cụm tác chiến Wöhler
  • Tập đoàn quân số 3 Hungary

; Tháng 1 năm 1945

  • Tập đoàn quân số 8
  • Tập đoàn quân thiết giáp số 2
  • Cụm tác chiến Balck (Armeegruppe Balck)

; Tháng 4 năm 1945

  • Tập đoàn quân số 6
  • Tập đoàn quân số 8
  • Tập đoàn quân thiết giáp số 2
  • Tập đoàn quân thiết giáp số 6

Chỉ huy

Tư lệnh

Tham mưu trưởng

👁️ 0 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Cụm tập đoàn quân Nam** () là một phiên hiệu đại đơn vị cấp Cụm tập đoàn quân của Đức Quốc xã trong Thế chiến thứ hai. Đơn vị là một trong những cánh quân
**Cụm tập đoàn quân Nam Ukraina** (, ) là một phiên hiệu đội hình tác chiến chiến lược cấp cụm tập đoàn quân của liên quân Đức Quốc xã và Vương quốc Rumani trên Mặt
**Cụm tập đoàn quân B** (tiếng Đức: __) là một phiên hiệu đại đơn vị cấp Cụm tập đoàn quân của Đức Quốc xã trong Thế chiến thứ hai. Theo thời gian, phiên hiệu này
**Cụm tập đoàn quân A** () là một phiên hiệu đơn vị cấp cụm tập đoàn quân của Đức Quốc xã trong Thế chiến thứ hai. ## Chiến thắng chóng vánh trên Mặt trận phía
**Cụm tập đoàn quân Sông Don** () là một cụm tập đoàn quân tồn tại trong thời gian ngắn của Lục quân Đức Quốc xã trong Thế chiến thứ hai. Ngày 20 tháng 11 năm
**Cụm tập đoàn quân Bắc Ukraina** () là biên chế cấp Cụm tập đoàn quân của Lục quân Đức Quốc xã trong Thế chiến thứ hai, tác chiến tại chiến trường Tây Ukraina trong hơn
**Cụm tập đoàn quân Trung tâm** (tiếng Đức: _Heeresgruppe Mitte_) là tên của tổ chức tác chiến chiến lược cấp cụm tập đoàn quân của Đức Quốc xã tại Mặt trận phía Đông trong Thế
**Cụm tập đoàn quân D** (tiếng Đức: _Heeresgruppe D_) là danh xưng một tổ chức tác chiến cấp Cụm tập đoàn quân Đức trong Thế chiến thứ hai. Trong suốt thời gian tồn tại, cơ
**Cụm tập đoàn quân Bắc** () là một phiên hiệu đội hình tác chiến chiến lược cấp Cụm tập đoàn quân của Đức Quốc xã trong Thế chiến thứ hai, đặt dưới quyền chỉ huy
**Cụm tập đoàn quân C** (tiếng Đức, _Heeresgruppe C_, viết tắt **HGr C**) là một phiên hiệu đại đơn vị cấp Cụm tập đoàn quân của Đức Quốc xã trong Thế chiến thứ hai. Trong
**Cụm tập đoàn quân E** () là một Tập đoàn quân Đức hoạt động trong Thế chiến thứ hai. Nó được thành lập vào ngày 1 tháng 1 năm 1943 trên cơ sở phát triển
**Cụm tập đoàn quân F** () là một đại đơn vị tác chiến chiến lược của Wehrmacht trong Thế chiến thứ hai. Tư lệnh của Cụm tập đoàn quân F có giai đoạn kiêm nhiệm
**Cụm tập đoàn quân Châu Phi** (, ) là một đơn vị chủ lực của phe Trục, tác chiến trên chiến trường Bắc Phi trong Thế chiến thứ hai. Về danh nghĩa, nó trực thuộc
**Cụm tập đoàn quân Weichsel** () là một đơn vị quân sự chiến lược cấp cụm tập đoàn quân của _Wehrmacht_. Được thành lập vào ngày 24 tháng 1 năm 1945 với nhiệm vụ bảo
**Cụm tập đoàn quân G** (, từ tháng 4 năm 1944 đến tháng 9 năm 1944 mang phiên hiệu _Armeegruppe G_) là một đơn vị tác chiến chiến lược cấp cụm tập đoàn quân của
**Cụm tập đoàn quân Ostmark** () là một đơn vị tác chiến chiến lược cấp cụm tập đoàn quân của Đức Quốc Xã hoạt động trong giai đoạn cuối của chiến tranh thế giới thứ
**Tập đoàn quân đoàn số 6** (tiếng Đức: _Armeeoberkommando 6_, viết tắt **6. Armee**/**AOK 6**) là một đại đơn vị của Quân đội Đức Quốc xã. Từng là một trong những đại đơn vị thiện
**Binh đoàn Duyên hải** (tiếng Nga: _Приморская армия_), hay **Tập đoàn quân độc lập Duyên hải** (_Отдельная Приморская армия_), là một đơn vị quân đội cấp tập đoàn quân thuộc Hồng quân Liên Xô, tham
**Tập đoàn quân số 8** () là một đơn vị tác chiến cấp Tập đoàn quân của Lục quân Đức Quốc xã trong Thế chiến thứ hai. Nó tồn tại hai lần trong chiến tranh,
**Cụm tập đoàn quân** (tiếng Đức: _Heeresgruppe_) là tổ chức tác chiến cấp chiến lược cao nhất của Quân đội Đức Quốc xã, trên cấp Tập đoàn quân. Cũng giống như biên chế phương diện
**Cụm tập đoàn quân** (tiếng Anh: _Army Group_) là tổ chức tác chiến cấp chiến lược của quân đội các nước phương Tây trong 2 cuộc Thế chiến, trên cấp Tập đoàn quân, có thể
Khi số lượng quân Đức tham gia Mặt trận Bắc Phi trong Thế chiến thứ hai tăng lên so với cam kết ban đầu ở quy cấp quân đoàn, bộ chỉ huy tối cao của
**Tập đoàn quân Không vận số 1 Đồng minh** (tiếng Anh: _First Allied Airborne Army_) là một đại đơn vị tác chiến của lực lượng Đồng minh tại Mặt trận phía Tây trong Thế chiến
**Tập đoàn quân số 1** () là một tập đoàn quân của Đức Quốc xã trong Chiến tranh thế giới thứ hai. ## Lịch sử hoạt động ### **1939** Tập đoàn quân số 1 được
**Tập đoàn quân số 1** (Tiếng Đức**: 1_. Armee / Armeeoberkommando 1 / A.O.K 1**_) là một đơn vị cấp Tập đoàn quân của Đức trong Thế chiến thứ nhất. Quân đội bị giải thể
**Tập đoàn quân 3** () là một đơn vị quân sự chiến lược cấp Tập đoàn quân của Hồng quân Liên Xô hoạt động trong thời gian Chiến tranh Thế giới thứ hai. ## Chiến
**Tập đoàn quân số 8** (Tiếng Đức: **_8. Armee / Armeeoberkommando 8 / A.O.K. 8_**) là một đơn vị cấp Tập đoàn quân của Đức trong Thế chiến thứ nhất. Nó được triển khai ở
**Tập đoàn xung kích số 1** (Nga:_1-я ударная армия_) là một đơn vị quân sự chiến lược cấp tập đoàn quân của Hồng quân Liên Xô trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Được thành
**Tập đoàn quân** hay **Đạo quân** là thuật ngữ chỉ một đại đơn vị cấp chiến dịch – chiến lược trong tổ chức quân đội chính quy tại một số nước có quân đội rất
**Tập đoàn quân 18** là một đơn vị quân sự chiến lược cấp tập đoàn quân của Hồng quân Liên Xô, hoạt động chủ yếu trong chiến tranh thế giới thứ hai. ## Lịch sử
**Cụm tập đoàn quân 11** là đơn vị tác chiến chủ lực của quân đội Anh ở mặt trận Đông Nam Á trong chiến tranh thế giới thứ hai.
**Tập đoàn quân 25** là một đơn vị quân sự chiến lược cấp tập đoàn quân của Hồng quân Liên Xô phục vụ tại Viễn Đông Nga giai đoạn Chiến tranh Thế giới thứ hai
**Tập đoàn quân 28** là một đơn vị quân sự chiến lược cấp tập đoàn quân của Hồng quân Liên Xô. Hình thành ba lần trong giai đoạn 1941-1942, đơn vị này hoạt động tích
**Tập đoàn quân 26** (Nga: армия 26-я _26-ya armiya_) là một đơn vị quân sự chiến lược cấp tập đoàn quân của Hồng quân Liên Xô, được hình thành vào năm 1941 và hoạt động
**Tập đoàn quân binh chủng hợp thành Cận vệ số 5** (tiếng Nga: 5-я гвардейская общевойсковая армия) là một đơn vị quân sự cấp tập đoàn quân của Lực lượng mặt đất Liên bang Nga.
**Phương diện quân Nam** (tiếng Nga: _Южный фронт_) là một tổ chức tác chiến chiến lược của Hồng quân Liên Xô trong Thế chiến thứ hai. ## Lịch sử ### Thành lập Phương diện quân
Quân kỳ của Quân đội Đức quốc xã**Lịch sử quân sự Đức trong Chiến tranh thế giới thứ hai** bắt đầu từ quân số 100.000 do Hòa ước Versailles hạn chế, không được quyền có
**Lục quân** (, ) là thành phần lực lượng trên bộ của _Wehrmacht_, lực lượng vũ trang chính quy của Đức, từ năm 1935 cho đến khi bị tan rã vào năm 1945 và sau
**Phương diện quân Ukraina 2** (tiếng Nga: _2-й Украинский фронт_) là một tổ chức tác chiến chiến lược của Hồng quân Liên Xô trong Thế chiến thứ hai, hoạt động trên hướng Tây Nam Ukraina,
**Phương diện quân Belorussia 2** (tiếng Nga: _2-й Белорусский фронт_) là một tổ chức tác chiến chiến lược của Hồng quân Liên Xô trong Thế chiến thứ hai. Hướng tác chiến chủ yếu của phương
**Khởi nghĩa tháng 8 năm 1944 tại Romania** hay còn gọi là cuộc **Đảo chính tháng Tám** là một sự kiện chính trị-quân sự xảy ra ở Rumani vào cuối tháng 8 năm 1944. Trong
**Tập đoàn Điện lực Việt Nam** (tên giao dịch quốc tế là _Vietnam Electricity_, viết tắt là **EVN** (Électricité du Vietnam) thuộc Bộ Công Thương là một doanh nghiệp nhà nước hạng đặc biệt của
**Tập đoàn Công nghiệp - Năng lượng Quốc gia Việt Nam** (tiếng Anh: **Vietnam National Industry - Energy Group,** tên giao dịch: **Petrovietnam**, tên viết tắt: **PVN**), là một tập đoàn năng lượng quốc gia
**Công ty cổ phần Tập đoàn ThaiGroup** (tiền thân là Tập đoàn Xuân Thành) là một tập đoàn kinh tế tư nhân lớn, đa ngành nghề, có địa bàn hoạt động khắp Việt Nam với
**Sư đoàn Bộ binh 57** (tiếng Đức: 57. Infanterie-Division), là một sư đoàn bộ binh của Đức Quốc xã được thành lập trong chiến tranh thế giới thứ 2. Được thành lập vào ngày 26
**Cuộc xâm lược Nam Tư** (mật danh **Chỉ thị 25** hay **Chiến dịch 25**), còn được biết đến với cái tên **Chiến tranh tháng Tư** (tiếng Serbia-Croatia: _Aprilski rat_, tiếng Slovene: _Aprilska vojna_), là cuộc
**Phương diện quân Bryansk** (tiếng Nga: _Брянский фронт_) là một tổ chức tác chiến chiến lược của Hồng quân Liên Xô trong Thế chiến thứ hai. ## Lịch sử ### Thành lập lần thứ nhất
**Phương diện quân Tây** (tiếng Nga: _Западный фронт_) là một tổ chức tác chiến chiến lược của Hồng quân Liên Xô trong Thế chiến thứ hai. Đây là một trong những phương diện quân chủ
**Phương diện quân Pribaltic 1** (tiếng Nga: _1-й Прибалтийский фронт_), còn gọi là **Phương diện quân Baltic 1**, là một tổ chức tác chiến chiến lược của Hồng quân Liên Xô trong Thế chiến thứ
**Cụm tác chiến Courland** () là một tổ chức quân sự tác chiến chiến lược tạm thời của quân đội Liên Xô trong Chiến tranh Vệ quốc vĩ đại. Đây là tổ chức quân sự