Tập đoàn quân 28 là một đơn vị quân sự chiến lược cấp tập đoàn quân của Hồng quân Liên Xô. Hình thành ba lần trong giai đoạn 1941-1942, đơn vị này hoạt động tích cực trong chiến tranh thế giới thứ hai và nhiều năm sau trong Quân khu Belorussian.
Thành lập lần đầu tiên
Tập đoàn quân được thành lập lần đầu tiên vào tháng 6 năm 1941 từ Quân khu Arkhangelsk. Nó bao gồm Quân đoàn súng trường 30 và 33, Sư đoàn cơ giới 69, pháo binh và một số đơn vị khác. Tư lệnh Tập đoàn quân là Trung tướng Vladimir Kachalov (trước đây là Tư lệnh Quân khu Arkhangelsk). Các thành viên của Hội đồng quân nhân của Tập đoàn quân là Ủy viên Lữ đoàn Vasily T. Kolesnikov, và Tham mưu trưởngn Tập đoàn quân, Thiếu tướng Pavel G. Egorov.
Vào ngày 14 tháng 7 năm 1941, lệnh thành lập Phương diện quân dự bị đưa ra thành phần của Tập đoàn quân 28 gồm 9 sư đoàn, 1 sư đoàn pháo binh, 1 sư đoàn lựu pháo, 4 trung đoàn pháo binh và 4 trung đoàn pháo chống tăng.
Đợn vị đã tham gia Trận chiến Smolensk. Tập đoàn quân bị bao vây trong túi Smolensk và bị tiêu diệt. Bộ chỉ huy Tập đoàn quân bị giải tán vào ngày 10 tháng 8. Các đơn vị trực thuộc được sử dụng để thành lập Phương diện quân Dự bị, cùng với các đơn vị từ các quân đội khác.
Tướng Kachalov tử trận bởi hỏa lực pháo binh vào ngày 4 tháng 8 năm 1941 trong cuộc đột phá khỏi vòng vây. Ông được chôn cất tại làng Stodolische, quận Pochinkovsky, Smolensk Oblast. Thiếu thông tin chính xác liên quan đến cái chết của ông, Stalin cho phép ông bị coi là kẻ phản bội và bị kết án tử hình vắng mặt theo Lệnh số 270. Chỉ sau cái chết của Stalin, trên cơ sở hoàn cảnh cụ thể về cái chết của người chỉ huy dũng cảm sau chiến tranh, vào ngày 23 tháng 12 năm 1953, bởi Hội đồng quân sự của Tòa án tối cao Liên Xô, bản án năm 1941 đối với Trung tướng Katchalov đã bị hủy bỏ, Katchalov đã được phục hồi danh dự hoàn toàn.
Thành lập lần thứ hai và thứ ba
Tập đoàn quân sau đó được cải tổ một lần nữa vào tháng 11 năm 1941 và tháng 9 năm 1942. Thành lập lần ba bắt đầu vào ngày 9 tháng 9, từ các lực lượng được giao cho Quân khu Stalingrad và Phương diện quân Đông Nam, và được giao nhiệm vụ bảo vệ thành phố cảng Astrakhan trên bờ biển phía bắc của Biển Caspi, cũng như các vùng hạ lưu của sông Volga. Tập đoàn quân đặt dưới quyền chỉ huy của Trung tướng Vasyl Herasymenko, với Chính ủy AN Melnikov và tham mưu trưởng Mjr. Tướng SM Rogachevsky, thành viên còn lại của Hội đồng quân nhân của Tập đoàn quân. Về đội hình, đơn vị chịu sự chỉ huy trực tiếp của STAVKA, nhưng vào ngày 30 tháng 9, nó được trực thuộc Phương diện quân Stalingrad. Vào ngày 19 tháng 11, ngay trước Chiến dịch Sao Thiên Vương bắt đầu từ phía nam Stalingrad, Tập đoàn quân bao gồm:
- Sư đoàn súng trường cận vệ 34
- Sư đoàn súng trường 248
- Lữ đoàn súng trường 52, 152 và 159
- Khu vực kiên cố 78 và 116
- Một trung đoàn kỵ binh độc lập (hoặc tiểu đoàn)
- Lữ đoàn xe tăng cận vệ 6
- Tiểu đoàn xe tăng biệt động 565
- Tiểu đoàn xe bọc thép biệt động số 35
- Các Tiểu đoàn Xe lửa Thiết giáp Biệt động 30, 33 và 46
Tính đến ngày 19 tháng 11, quân số của Tập đoàn quân là 64.265 người, với 47.891 người trong các lực lượng chiến đấu. Đơn vị trang bị 1.196 khẩu súng cối và 80 xe tăng (10 hạng nặng, 26 hạng trung và 44 hạng nhẹ).
Vào ngày 1 tháng 7 năm 1944, Tập đoàn quân bao gồm:
- 3 Quân đoàn súng trường cận vệ (50, 54 và 96),
- Quân đoàn súng trườn 20 (Bao gồm hai sư đoàn súng trường cận vệ 48 và 55, Sư đoàn súng trường 20),
- Quân đoàn súng trường 128 (Bao gồm các Sư đoàn súng trường 61, 130 và 152)
- Lực lượng pháo binh bao gồm Lữ đoàn Pháo binh Quân đoàn 3, Lữ đoàn Pháo binh 157, Trung đoàn Pháo binh 377, Trung đoàn Pháo phòng không 530, Lữ đoàn súng cối 1 (thuộc Sư đoàn pháo xung kích số 5), Trung đoàn súng cối cận vệ 133 và 316, Sư đoàn pháo phòng không số 12 (Bao gồm Trung đoàn pháo phòng không 836, 977, 990, 997), Trung đoàn pháo phòng không 607 (зенап),
- Lực lượng xe tăng, công binh và các binh chủng khác.
Các chỉ huy
- Vladimir Kachalov (tháng 6 - tháng 8 năm 1941), tử trận khi chiến đấu.
- Ivan Tyulenev (tháng 11 năm 1941 - tháng 3 năm 1942)
- Dmitry Ryabyshev (tháng 3 - tháng 7 năm 1942)nhỏ|Nghĩa trang Thông điệp Chiến tranh ở [[Warszawa|Warsaw, nơi chôn cất những người lính thuộc Tập đoàn quân 28.]]
- Vasily Kryuchenkin (tháng 7 năm 1942)
- Vasyl Herasymenko (tháng 9 năm 1942 - tháng 11 năm 1943)
- Aleksei Aleksandrovich Grechkin (tháng 11 năm 1943 - tháng 5 năm 1944)
- Alexander Luchinsky (tháng 5 năm 1944 - tháng 2 năm 1946)
- Franz Perkhorovich (tháng 2 - tháng 5 năm 1946)
- Pyotr Shafranov (5/1946 - 1947)
- Nikolai Gusev (1947–1949)
- Ivan Chistyakov (1949–1953)
- Andrey Matveyevich Andreyev (1954–1957)
Thành lập lần thứ tư và sau chiến tranh
Tháng 9 năm 1945, Tập đoàn quân 28 thành lập trụ sở tại Quân khu Baranovichi. Từ năm 1945 đến năm 1947, số lượng các đơn vị súng trường được giảm bớt, và thành phần biên chế của chúng tăng lên.
Vào tháng 9 năm 1954, Sư đoàn cơ giới cận vệ 12 Mozyrskaya và Sư đoàn súng trường cận vệ 50 Stalino, một bộ phận của quân đoàn súng trường 128 Gumbinnenskogo, được sử dụng để tạo thành các đơn vị thử nghiệm được sử dụng tại Totskoye trong quá trình thử nghiệm bom hạt nhân 40 kiloton.[ cần dẫn nguồn ]
Năm 1957, sở chỉ huy quân đoàn súng trường bị bãi bỏ, các sư đoàn súng trường được tổ chức lại thành súng trường cơ giới và các sư đoàn cơ giới hóa thành các sư đoàn xe tăng:
- Sư đoàn cơ giới 8 - Sư đoàn xe tăng 28 Kutuzov phục lệnh cờ đỏ Oleksandriia(Slonim);
** Sư đoàn cơ giới cận vệ 12 - Sư đoàn 33 (trở thành sư đoàn 15 vào năm 1965) cờ đỏ Mozyr thuộc Sư đoàn xe tăng Suvorov (Brest).
Vào tháng 8 năm 1968, Sư đoàn xe tăng cận vệ 15 và Sư đoàn súng trường cơ giới cận vệ 30 (tiền thân là Sư đoàn súng trường 55 năm 1965) của Tập đoàn quân 28 được cử đến Tiệp Khắc để tham gia Chiến dịch Danube, nơi họ vẫn là một phần của Cụm lực lượng Trung tâm. Để thay thế các sư đoàn này, Sư đoàn xe tăng 76 được thành lập tại Brest và Sư đoàn súng trường cơ giới 84 tại Grodno làm sư đoàn động viên. Ngày 15 tháng 1 năm 1974, Tập đoàn quân đã được trao tặng Huân chương Cờ Đỏ. Sư đoàn xe tăng cận vệ 6 Kiev-Berlin chuyển sang Grodno tháng Ba 1980 từ Đông Đức. Để nhường chỗ cho Sư đoàn 6, Sư đoàn súng trường cơ giới 84 được chuyển đến Tập đoàn quân xe tăng 7. Trong những năm 1980, Tập đoàn quân bao gồm các Sư đoàn xe tăng cận vệ 6, 28, 76 và Sư đoàn súng trường cơ giới cận vệ 50. Vào cuối những năm 1980, Sư đoàn 28 bị giải tán và trở thành Căn cứ Kho vũ khí và Trang bị số 6314 và Sư đoàn xe tăng 76 được tổ chức lại thành Cơ sở Kho chứa Vũ khí và Trang bị số 5356.
Khi Liên Xô giải thể, Tập đoàn quân 28, có trụ sở chính tại Grodno, bao gồm Sư đoàn xe tăng cận vệ 6 (Grodno), Cơ sở lưu trữ vũ khí và trang bị số 6314 (Slonim), Sư đoàn súng trường cơ giới cận vệ 50 (Brest), và Căn cứ lưu trữ vũ khí và trang bị số 5356 cũng tại Brest.
Tài liệu tham khảo
👁️
0 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Tập đoàn quân 28** là một đơn vị quân sự chiến lược cấp tập đoàn quân của Hồng quân Liên Xô. Hình thành ba lần trong giai đoạn 1941-1942, đơn vị này hoạt động tích
**Tập đoàn quân 4** là một đơn vị quân sự chiến lược cấp tập đoàn quân của Hồng quân Liên Xô, hoạt động trong thời gian Chiến tranh thế giới thứ hai tại Mặt trận
**Tập đoàn quân 25** là một đơn vị quân sự chiến lược cấp tập đoàn quân của Hồng quân Liên Xô phục vụ tại Viễn Đông Nga giai đoạn Chiến tranh Thế giới thứ hai
**Tập đoàn quân 24** là một đơn vị quân sự chiến lược cấp tập đoàn quân của Hồng quân Liên Xô, được hình thành vào năm 1941 và hoạt động trong thời gian Chiến tranh
**Tập đoàn quân 3** () là một đơn vị quân sự chiến lược cấp Tập đoàn quân của Hồng quân Liên Xô hoạt động trong thời gian Chiến tranh Thế giới thứ hai. ## Chiến
**Tập đoàn quân 17** là một đơn vị quân sự chiến lược cấp tập đoàn quân của Hồng quân Liên Xô. Được thành lập vào năm 1940, Tập đoàn quân phục vụ ở Viễn Đông
**Tập đoàn quân 27** là một đơn vị quân sự chiến lược cấp tập đoàn quân của Hồng quân Liên Xô, hoạt động trong thời gian Chiến tranh thế giới thứ hai. ## Thành lập
**Tập đoàn quân 23** là một đơn vị quân sự chiến lược cấp tập đoàn quân của Hồng quân Liên Xô trong Thế chiến thứ hai. Nó được thành lập vào tháng 5 năm 1941
**Tập đoàn quân 26** (Nga: армия 26-я _26-ya armiya_) là một đơn vị quân sự chiến lược cấp tập đoàn quân của Hồng quân Liên Xô, được hình thành vào năm 1941 và hoạt động
**Tập đoàn quân 62** là một đơn vị quân sự chiến lược cấp Tập đoàn quân của Hồng quân Liên Xô trong Chiến tranh thế giới thứ hai. ## Lịch sử Tiền thân của Tập
**Tập đoàn quân binh chủng hợp thành Cận vệ 20 Huân chương Cờ Đỏ** (tiếng Nga: 20-я гвардейская общевойсковая Краснознамённая армия), số hiệu в/ч 89425, là một đơn vị quân sự cấp tập đoàn quân
Trận sông Dniepr là một chuỗi các chiến dịch tấn công chiến lược của Quân đội Liên Xô trong các giai đoạn mở đầu cho thời kỳ thứ ba của cuộc chiến tranh Xô-Đức, đồng
**Đoàn cố vấn quân sự Liên Xô tại Việt Nam** () là một đội hình quân sự tổng hợp của Lực lượng Vũ trang Liên Xô được đưa đến Việt Nam Dân chủ Cộng hòa
**Chính ủy Tập đoàn quân bậc 2** ( là một cấp bậc quân sự cao cấp của các sĩ quan chính trị trong Hồng quân và Hải quân Liên Xô. Cấp bậc này chỉ xếp
**Cụm tập đoàn quân Trung tâm** (tiếng Đức: _Heeresgruppe Mitte_) là tên của tổ chức tác chiến chiến lược cấp cụm tập đoàn quân của Đức Quốc xã tại Mặt trận phía Đông trong Thế
**Binh đoàn Duyên hải** (tiếng Nga: _Приморская армия_), hay **Tập đoàn quân độc lập Duyên hải** (_Отдельная Приморская армия_), là một đơn vị quân đội cấp tập đoàn quân thuộc Hồng quân Liên Xô, tham
**Tập đoàn quân binh chủng hợp thành Cận vệ số 58** (Nga: _58-я гвардейская общевойсковая ордена Суворова армия_) là một đơn vị quân sự chiến lược cấp tập đoàn quân của Lục quân Nga, thuộc
**Tập đoàn quân binh chủng hợp thành số 6 Huân chương Cờ Đỏ** (tiếng Nga: _6-я общевойсковая Краснознамённая армия_) là một đơn vị quân sự chiến lược cấp tập đoàn quân của Lực lượng Mặt
**Tập đoàn quân số 8** (Tiếng Đức: **_8. Armee / Armeeoberkommando 8 / A.O.K. 8_**) là một đơn vị cấp Tập đoàn quân của Đức trong Thế chiến thứ nhất. Nó được triển khai ở
**Lực lượng Mặt đất Lực lượng Vũ trang Liên Xô** () là nhánh lục quân của Lực lượng Vũ trang Liên Xô. Là một lực lượng độc lập của Lực lượng Vũ trang Liên Xô,
**Mặt trận Các tập đoàn quân dự bị** (tiếng Nga: _Фронт резервных армий_) là một tổ chức tác chiến chiến lược của Hồng quân Liên Xô vào đầu Thế chiến thứ hai. ## Hình thành
**Bộ Dân ủy Nội vụ** (, _Narodnyy komissariat vnutrennikh del_), viết tắt **NKVD** ( ) là một cơ quan hành pháp của Liên Xô, đơn vị trực tiếp thi hành quyền lực của Đảng Cộng
**Không quân Liên Xô** (, _Voyenno-vozdushnye sily SSSR_), cũng còn được biết đến dưới tên gọi tắt là **VVS**, chuyển tự từ tiếng Nga là: **ВВС**, Военно-воздушные силы (_Voenno-vozdushnye sily_), đây là tên gọi chỉ
**Voyska PVO** (tiếng Nga: Войска ПВО, hoặc **PVO strany** từ năm 1981) là quân chủng phòng không của quân đội Liên Xô. PVO là viết tắt của _protivovozdushnaya oborona_ hoặc "Phòng không". Không giống quân
**Chiến tranh Liên Xô tại Afghanistan**, hay còn được gọi là **Xung đột Afghanistan - Liên Xô** và **Chiến tranh Afghanistan** là cuộc xung đột kéo dài 10 năm giữa các lực lượng quân sự
**Lực lượng vũ trang Liên bang Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Xô viết**(tiếng Nga: _Вооружённые Силы Союза Советских Социалистических Республик_) là lực lượng vũ trang của Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Xô viết
**Thanh trừng Hồng quân Liên Xô (1937-1938)** () - thanh trừng chính trị quy mô lớn ("đàn áp") chống lại sĩ quan và nhân viên cấp cao của Hồng quân Công Nông (РККА) và Hải
Dưới đây là danh sách các nguyên soái và đại tướng của Lực lượng Vũ trang Liên bang Xô viết trong suốt thời gian tồn tại. Danh sách này cũng liệt kê các cấp bậc
**Hải quân Liên Xô** () là nhánh hải quân của Lực lượng vũ trang Liên Xô. Thường được gọi là **Hạm đội Đỏ**, Hải quân Liên Xô là lực lượng có số lượng tàu chiến
**Trục xuất người Triều Tiên ở Liên Xô** (, ) là việc cưỡng bức di cư gần 172.000 người Triều Tiên từ Viễn Đông Nga sang Trung Á vào năm 1937 theo chỉ thị của
**Sự giải thể của Liên bang Xô viết** hay **Liên Xô tan rã** ( hoặc распад Советского Союза) là quá trình tan rã nội bộ của Liên bang Xô viết bắt đầu trong những năm
Bố trí quân lực hai bên trước chiến dịch. Chiến dịch tấn công Belarus (1944) có tên mã Chiến dịch Bagration là hoạt động tấn công quân sự có quy mô lớn của quân đội
**Chiến tranh Mùa đông** (, , ) hay **Chiến tranh Liên Xô-Phần Lan 1939-1940** là cuộc chiến giữa Liên Xô và Phần Lan do tranh chấp lãnh thổ tại vùng Karelia. Nó diễn ra vào
Đặc trưng giai đoạn này của Liên xô là sự lãnh đạo của **Joseph Stalin**, người đang tìm cách tái định hình xã hội Xô viết với nền kinh tế kế hoạch nhiều tham vọng,
**Liên Xô xâm lược Ba Lan năm 1939**, còn được gọi là **Chiến dịch giải phóng Tây Belarus và Tây Ukraina** bởi Liên Xô, là một cuộc xung đột quân sự không có lời tuyên
**Quá trình sụp đổ của Liên Xô** thành các quốc gia độc lập bắt đầu ngay từ năm 1985. Sau nhiều năm xây dựng quân đội Liên Xô và các chi phí phát triển trong
**Viện Kiểm sát Liên Xô** () là một cơ quan liên bang nhà nước thực hiện quyền giám sát tối cao đối với việc thực hiện luật pháp ở Liên Xô. Kể từ ngày 8
**Chiếm đóng quân sự bởi Liên Xô** viết về các vụ chiếm đóng bằng vũ lực của Liên Xô từ lúc mở màn cho tới sau thế chiến thứ hai và sau đó trong thời
liên_kết=https://en.wikipedia.org/wiki/File:George_F._Kennan_1947.jpg|nhỏ|[[George F. Kennan vào năm 1947, cùng năm tạp chí _Foreign Affairs_ đăng bài viết "Lí giải hành vi Liên Xô" của ông dưới bút danh "X".]] "**Lí giải hành vi Liên Xô**" (tiếng Anh:
**Trận sông Dniepr** là một chuỗi các chiến dịch tấn công chiến lược của Quân đội Liên Xô trong giai đoạn mở đầu cho thời kỳ thứ ba của cuộc chiến tranh Xô-Đức, đồng thời
**Chiến dịch Barbarossa** (), còn được gọi là **Cuộc xâm lược của Đức vào Liên Xô** là mật danh của chiến dịch xâm lược Liên Xô do Quân đội Đức Quốc xã tiến hành trong
**Chiến dịch Maikop-Krasnodar** là cuộc tấn công lớn của Quân đội Liên Xô tại Bắc Kavkaz chống lại Tập đoàn quân 17 của Quân đội Đức Quốc xã tại khu vực phía Tây đồng bằng
**Chiến dịch Praha** là chiến dịch lớn cuối cùng của Quân đội Liên Xô và các đồng minh tại châu Âu trong Chiến tranh thế giới thứ hai. Diễn ra từ ngày 5 đến ngày
**Chiến dịch Ngôi Sao** (Tiếng Nga: Oпераций «Звезда») là tên mã của **Chiến dịch Belgorod-Kharkov**, hoạt động quân sự lớn thứ ba do Phương diện quân Voronezh (Liên Xô) tiến hành tại miền Trung nước
Chiến dịch Salsk-Rostov (có tên mã là _"Chiến dịch Sông Đông"_) Ngày 24 tháng 1, Quân đoàn xe tăng 57 (Đức) được điều từ Tập đoàn quân xe tăng 4 đến đã chặn được cuộc
**Chiến dịch tấn công Viên** là một trong các chiến dịch quân sự lớn cuối cùng ở châu Âu trong Chiến tranh thế giới thứ hai. Chiến dịch do Phương diện quân Ukraina 3 và
**Chiến dịch Mozdok–Stavropol** là đòn phản công lớn đầu tiên trong năm 1943 của Cụm tác chiến Bắc Kavkaz (Liên Xô) vào Cụm tập đoàn quân A (Đức) trên một chính diện rộng hơn 150 km,
**Hồng Quân** là cách gọi vắn tắt của **Hồng quân Công Nông** (tiếng Nga: Рабоче-крестьянская Красная армия; dạng ký tự Latin: _Raboche-krest'yanskaya Krasnaya armiya_, viết tắt: RKKA), tên gọi chính thức của Lục quân và
**Trận phản công Soltsy** là hoạt động quân sự lớn đầu tiên của Phương diện quân Bắc (sau này là Phương diện quân Leningrad) trên khu vực phía Tây hồ Ilmen. Đây cũng là trận
**Trận phản công Staraya Russa** là trận phản công lớn thứ hai của quân đội Liên Xô trên hướng Leningrad trong tháng 8 năm 1941. Diễn ra từ ngày 12 đến ngày 25 tháng 8