✨Chiến dịch phản công Salsk–Rostov
Chiến dịch Salsk-Rostov (có tên mã là "Chiến dịch Sông Đông") Ngày 24 tháng 1, Quân đoàn xe tăng 57 (Đức) được điều từ Tập đoàn quân xe tăng 4 đến đã chặn được cuộc tấn công của Tập đoàn quân cận vệ 2 (Liên Xô) tại Manychskaya trên ngã ba sông Đông và sông Sal, cách Rostov 45 km về phía Đông Từ ngày 25 tháng 1, cuộc phản công tiếp tục với sự tham gia của Tập đoàn quân 44 của Phương diện quân Bắc Kavkaz. Được tăng thêm lực lượng, trong đó có hai quân đoàn kỵ binh và một cụm xe tăng nhưng phải đến ngày 4 tháng 2, quân đội Liên Xô mới buộc được Quân đoàn xe tăng 3 (Đức) phải rút khỏi tuyến sông Manych. Tuy nhiên, ở cánh Bắc, Quân đoàn xe tăng 57 (Đức) vẫn liên tục phản kích vào Tập đoàn quân cận vệ 2 và tập đoàn quân 51 (Liên Xô), không cho các tập đoàn quân này vượt sông đánh sang Rostov. Trên cánh Nam Quân đoàn xe tăng 3 (Đức) cũng lập được một "vành đai thép" xung quanh hai cứ điểm Azov và Bataisk, chặn đứng cuộc tiến quân của các tập đoàn quân 44 và 28 trước cửa ngõ phía Nam Rostov. Phải đến ngày 12 tháng 2, sau khi được tăng cường Quân đoàn xe tăng 3 từ Tập đoàn quân xung kích 5 của tướng P. A. Rotmistrov Các tập đoàn quân 28 và Cận vệ 2 mới chọc thủng được phòng tuyến phía Đông và phía Nam Rostov. Ngày 14 tháng 2, Quân đoàn xe tăng 3 (Liên Xô) đánh chiếm Rostov nhưng đã muộn. Các tập đoàn quân xe tăng 1 và 4 (Đức) đã rút khỏi Rostov. thống chế Erich von Manstein điều động Cụm tác chiến Hollidt cùng các quân đoàn bộ binh 52, sư đoàn cơ giới 16 (Tập đoàn quân xe tăng 1) và sư đoàn đổ bộ đường không 15 (Tập đoàn quân 57) thiết lập tuyến phòng thủ vững chắc dọc theo bờ Tây sông Mius từ Taganrog đến phía Bắc Mataveev - Kurgan. Cuộc phản công đầu năm 1943 của quân đội Liên Xô phải dừng lại trên tuyến sông này.
Cuộc phản công Slask-Rostov đã không đạt được kết quả mong muốn như Bộ Tổng tư lệnh tối cao Liên Xô hoạch định. Cả hai phía đều có những nguyên nhân của phía mình để dẫn đến kết quả chiến dịch này. Đối với người Đức, đó là việc chủ động rút quân để tiếp tục cuộc chiến ở mặt trận Xô-Đức mà theo Adolf Hitler đánh giá, nó mang ý nghĩa sống còn đối với quân đội Đức Quốc xã và cả "Đế chế thứ ba". Điều đó đã dẫn đến hậu quả là các cuộc tấn công của các tập đoàn quân Liên Xô đều bị "hụt hơi" ở giai đoạn cuối. Khi gặp phải đội hình phòng ngự vững chắc của quân Đức trên tuyến sông Manych, sức chiến đấu của quân đội Liên Xô bị giảm sút đáng kể, không còn đủ lực lượng và phương tiện để đột phá tuyến phòng thủ của quân Đức.
Bối cảnh
Sau Chiến dịch Bão Mùa đông thất bại, cuộc lui quân của các sư đoàn thiết giáp thuộc Tập đoàn quân xe tăng 4 (Đức) do tướng Hermann Hoth chỉ huy đã tạo điều kiện cho quân đội Liên Xô phản công chiếm lại khu vực bàn đạp chiến lược Kotelnikovo. Để cuộc rút lui khỏi trở thành một cuộc tháo chạy đối với Quân đoàn xe tăng 57, tướng Herman Hoth đã phải nhờ đến sự trợ giúp của Sư đoàn cơ giới 16 thuộc Tập đoàn quân xe tăng 1 (Đức) lúc này đã được rút về hoạt động ở phía Nam sông Sal. Đến giữa tháng 12 năm 1942, Sư đoàn cơ giới SS "Wiking" cũng được rút khỏi Bắc Kavkaz để khép chặt sườn trái của Tập đoàn quân xe tăng 1 với Tập đoàn quân xe tăng 4 (Đức) cũng như để bảo vệ các vị trí tiếp giáp nhau giữa các cụm tập đoàn quân "A" và "Sông Đông". Ngày 29 tháng 12 năm 1942, Tập đoàn quân 51 (Liên Xô) mở một cuộc phản đột kích xuyên qua phía Bắc thảo nguyên Kalmyk, đẩy tuyến mặt trận tiến thêm 100 km về phía Tây đến sông Bolshoy Gashun. Cùng thời điểm, Tập đoàn quân 28 cũng rời khỏi khu vực phía Tây Astrakhan tiến quân dọc theo đường cái Khulkhuta - Ulan Erge và đánh chiếm Elista ngày 30 tháng 12. Ngày 1 tháng 1 năm 1943, sau khi chuyển hai tập đoàn quân 57 và 64 cho Phương diện quân Sông Đông, một việc mà tướng A. I. Yeryomenko không hài lòng, Phương diện quân Stalingrad được gỡ bỏ nhiệm vụ tham gia tiêu diệt Tập đoàn quân 6 (Đức) đang bị vây tại Stalingrad để tập trung lực lượng cho cuộc tổng phản công ở Bắc Kavkaz. Khi tính toán binh lược, Bộ Tổng tham mựu Liên Xô phát hiện thấy nguy cơ tách rời nhau giữa cánh trái và cánh phải của Phương diện quân Nam mà ở giữa là Tập đoàn quân xe tăng 4 (Đức) sẽ như một "cái nêm" chèn vào giữa hai cánh quân này và có thể đột kích vào bên sườn của cả hai cánh quân. Hơn nữa, do số phận của Tập đoàn quân 6 (Đức) chưa được định đoạt tại Stalingrad nên I. V. Stalin bác bỏ kế hoạch này. Ông yêu cầu Bộ Tổng tham mưu có một kế hoạch khác, trong đó các tập đoàn quân của cả Cụm Biển Đen và Phương diện quân Nam đều phải hướng đòn công kích vào Rostov để bao vây tại Bắc Kavkaz một lực lượng Đức đông đến 25 sư đoàn, lớn hơn cả cụm quân Đức bị vây tại Stalingrad. Chiến dịch được lấy tên mã là "Sông Đông" gần như trùng khớp với thời lượng mà Bộ Tổng tham mưu Liên Xô xác định cho các hành động tấn công vào Rostov. Để bảo đảm cho cuộc rút quân này không bị những lực lượng lớn hơn của quân đội Liên Xô ngăn chặn, Adolf Hitler đã cấm Tập đoàn quân 6 của tướng Friedrich Paulus đầu hàng và ra lệnh cho đạo quân đang bị vây hãm này phải "chiến đấu đến người lính cuối cùng" tại Stalingrad.
Binh lực
Quân đội Liên Xô
Phương diện quân Nam nguyên là Phương diện quân Stalingrad do thượng tướng A. I. Yeryomenko làn tư lệnh, thiếu tướng I. S. Varennikov làm tham mưu trưởng và Ủy viên Bộ chính trị N. S. Khrushev làm ủy viên hội đồng quân sự là lực lượng chủ công của chiến dịch này với 1 tập đoàn quân cận vệ, 2 tập đoàn quân binh chủng hợp thành và một quân đoàn xe tăng. Biên chế cụ thể gồm có: Tập đoàn quân cận vệ 2 do các trung tướng Ya. G. Kreiser và R. Ya. Malinovsky lần lượt chỉ huy, trong biên chế có: Quân đoàn bộ binh cận vệ 1 gồm các sư đoàn bộ binh cận vệ 24, 33 và sư đoàn bộ binh 98; Quân đoàn bộ binh cận vệ 13 gồm các sư đoàn bộ binh cận vệ 3, 49 và sư đoàn bộ binh 387; Quân đoàn kỵ binh 4 gồm các sư đoàn kỵ binh 68, 81, trung đoàn pháo chống tăng 146 và trung đoàn pháo binh 4; Quân đoàn cơ giới cận vệ 2 gồm các lữ đoàn cơ giới cận vệ 4, 5, 6; các trung đoàn xe tăng cận vệ 21, 22, các tiểu đoàn cơ giới 54, 408 và trung đoàn pháo chống tăng 117 (cận vệ) Quân đoàn xe tăng cận vệ 3 gồm các lữ đoàn xe tăng cận vệ 3, 18, 19, lữ đoàn cơ giới 2, trung đoàn pháo tự hành cận vệ 3, trung đoàn pháo binh 324. Các trung đoàn bộ binh 52, 128, 223 trực thuộc Tập đoàn quân. Quân đoàn cơ giới 6 gồm các lữ đoàn cơ giới 51, 54, 56, các trung đoàn xe tăng 77, 78, trung đoàn cơ giới 63, trung đoàn chống tăng 417, trung đoàn súng cối 41 và tiểu đoàn cơ giới trinh sát 409 Sư đoàn bộ binh 300. Sư đoàn pháo phòng không 15 gồm các trung đoàn 281, 342, 723 và 1264. Các trung đoàn pháo binh hạng nặng 648 và 506; Các trung đoàn pháo phản lực 1059, 1100 và 1101; Các trung đoàn pháo súng cối 23, 48, 88 và 90; Các trung đoàn pháo chống tăng 435, 535 và 1260. Tập đoàn quân 28 do trung tướng V. F. Gerasimenko là tư lệnh, trong biên chế có: **Sư đoàn bộ binh cận vệ 34; Sư đoàn bộ binh 248; Các lữ đoàn bộ binh xung kích 52, 78, 79, 98, 99 và 116 Lữ đoàn xe tăng cận vệ 6; Trung đoàn xe tăng 51; Tiểu đoàn xe tăng 565; Các tiểu đoàn cơ giới 30, 33, 35 và 46. Các trung đoàn pháo binh 483, 484, 485. *Trung đoàn pháo binh cận vệ 76. *Tập đoàn quân 51 do thiếu tướng N. I. Trufanov chỉ huy, trong biên chế có: Các sư đoàn bộ binh 87, 91, 126, 302; Lữ đoàn bộ binh xung kích 76; Quân đoàn cơ giới cận vệ 3 gồm các lữ đoàn cơ giới cận vệ 7, 8, 9, các trung đoàn xe tăng cận vệ 41, 42, trung đoàn cơ giới 61, trung đoàn pháo tự hành 44, trung đoàn pháo chống tăng 334. Quân đoàn xe tăng 13 gồm các lữ đoàn xe tăng 13 và 17, các lữ đoàn cơ giới 61 và 62; Lữ xe tăng 56 trực thuộc Tập đoàn quân. Các trung đoàn pháo binh 491, 492, 665; Trung đoàn pháo chống tăng 1246; Các trung đoàn pháo phản lực 125, 486; Các trung đoàn súng cối cận vệ 2, 51 và 80; *Sư đoàn pháo phòng không 2 gồm các trung đoàn pháo phòng không 1.069, 1.113, 1.117 và trung đoàn phòng không cận vệ 77; *Tập đoàn quân không quân 8 do trung tướng T. T. Khryukin chỉ huy, trong biên chế có: Sư đoàn không quân 2 gồm trung đoàn tiêm kích 201 và trung đoàn cường kích 214 Các trung đoàn tiêm kích 235, 268, 287 Các trung đoàn cường kích 206, 226 Các trung đoàn nám bom cận vệ 270, 289 và 272 Các tung đoàn ném bom ban đêm 8 và 932; Trung đoàn không quân trinh sát 678; Các trung đoàn phục vụ mặt đất 31 và 32. Phương diện quân Bắc Kavkaz (nguyên là Cụm tác chiến Bắc Kavkaz) có một tập đoàn quân tham gia chiến dịch: Tập đoàn quân 44 do thiếu tướng V. A. Khomenko chỉ huy, trong biên chế có: Quân đoàn bộ binh 9 gồm các lữ đoàn bộ binh 43, 157 và 256; Các sư đoàn bộ binh 223, 271, 320, 347, 409, 414 và 416; Lữ đoàn bộ binh cận vệ 7 Các lữ đoàn xe tăng 2, 15, 63; Trung đoàn xe tăng 225; Các tiểu đoàn xe tăng độc lập 132, 249, 488; Lữ đoàn pháo chống tăng 43; Các tiểu đoàn trinh sát co giới 16 và 66; Trung đoàn pháo hạng nặng 960; Trung đoàn pháo phản lực 4; Các trung đoàn pháo binh 268, 1231 và 1232; Các trung đoàn pháo chống tăng 29, 34, 103, 418, 419, 747 và 1115; Các trung đoàn súng cối 14 và 17 ***Các trung đoàn phòng không 133 và 1285.
Quân đội Đức Quốc xã
Ngay sau khi không hoàn thành nhiệm vụ trong Chiến dịch Bão Mùa đông với những thiệt hại không nhỏ, Tập đoàn quân xe tăng 4 lại phải lao ngay vào mặt trận Bắc Kavkaz để yểm hộ phía sau cho Tập đoàn quân xe tăng 1 rút quân với nhiệm vụ phải giữ được hành lang Bataisk - Rostov - Novocherkassk có ý nghĩa sống còn đối với Cụm tập đoàn quân A. Lần này, Tập đoàn quân xe tăng 4 (Đức) được tăng viện thêm Quân đoàn xe tăng 48 và sư đoàn xe tăng 17 rút từ Cụm tác chiến Hollidt. Các sư đoàn cơ giới 16 và SS "Wiking" trước đây giao cho Tập đoàn quân xe tăng 1 cũng được trả về hạ lưu sông Đông. Binh lực của hai Cụm tập đoàn quân A và Sông Đông tham gia phòng ngự tại dải Salsk - Rostov gồm có: Tập đoàn quân xe tăng 4 do tướng Hermann Hoth chỉ huy, trong biên chế có: Quân đoàn xe tăng 48 của tướng Otto von Knobelsdorff gồm: Sư đoàn xe tăng 11 của tướng Hermann Balck; Sư đoàn xe tăng 6 của tướng Erhard Raus, từ tháng 2 năm 1943 do tướng Walther von Hünersdorff chỉ huy; Sư đoàn bộ binh 336 của tướng Walther Lucht; *Sư đoàn đổ bộ đường không 7 *Quân đoàn xe tăng 57 của tướng Friedrich Kirchner gồm: Sư đoàn xe tăng 17 của tướng Fridolin von Senger und Etterlin; Sư đoàn xe tăng 23 của tướng Nikolaus von Vormann; Sư đoàn xe tăng cận vệ SS "Wiking" của tướng SS Felix Steiner. Quân đoàn bộ binh 29 của tướng Hans von Obstfelder gồm **Sư đoàn bộ binh 79 của tướng Gustav-Adolf von Zangen (điều động từ Tập đoàn quân 7 đóng ở Brittany (Pháp) sang Sư đoàn bộ binh 117. *Sư đoàn đổ bộ đường không 15 của tướng Willibald Spang *Sư đoàn cơ giới 16 của tướng Graf von Schwerin (trực thuộc) Tập đoàn quân xe tăng 1 do tướng Eberhard von Mackensen chỉ huy, trong biên chế có: Quân đoàn xe tăng 3 của tướng Hermann Breith gồm: Sư đoàn xe tăng 7 của tướng Hans Freiherr von Funck (lấy từ lực lượng dự bị của Cụm tập đoàn quân Sông Đông) Sư đoàn xe tăng 13 của tướng Wilhelm Crisolli *Sư đoàn xe tăng 19 của Gustav Schmidt (lấy từ Cụm tác chiến Hollidt) *Quân đoàn cơ giới 40 (nguyên là Quân đoàn xe tăng 40) của tướng Gotthard Heinrici gồm: Sư đoàn xe tăng 3 của tướng Franz Westhoven; Sư đoàn kỵ binh Cossack; Sư đoàn bộ binh 304 của tướng Ernst Sieler. Quân đoàn bộ binh 52 của tướng Eugen Ott gồm: **Sư đoàn bộ binh 50 của Friedrich Schmidt; Sư đoàn bộ binh 370 của tướng Fritz Becker; ***Sư đoàn bộ binh 111 của tướng Hermann Recknagel.
Diễn biến
Cuộc tấn công qua thảo nguyên Kalmyk
Mặc dù vừa chịu những thiệt hại đáng kể về người và phương tiện sau cuộc phòng ngự chống lại Tập đoàn quân xe tăng 4 trên các tuyến sông Aksai và Myskova trong tháng 12 nhưng các tập đoàn quân 51 và cận vệ 2 nhận được lệnh phải tiếp tục tấn công mà không có thời gian trinh sát chiến dịch. Mở đầu cuộc phản công ngày 5 tháng 1 năm 1943, Tập đoàn quân cận vệ 2 đã phá vỡ tuyến phòng thủ của Quân đoàn bộ binh 29 (Đức) ở Dubovskoye và bắt đầu phát triển tấn công dọc tả ngạn sông Đông lần lượt đánh chiếm các thị trấn Novozolotovskaya và Semikarakorsk. Cùng ngày, Tập đoàn quân 51 (Liên Xô) cũng đột phá thành công tuyến phòng thủ mỏng yếu của sư đoàn bộ binh 117 (Đức) tại khu vực Zimovniki và đánh chiếm các làng Tavrichenskim (???), Smetanovskim (???), Velikanov, Parshikov, Sulankovom (???), Loznoy dọc theo bờ Nam sông Sal. Sư đoàn bộ binh 87 chiếm được khu vực Kargalskaya. Ở cánh Bắc, Tập đoàn quân cận vệ 2 cũng không xuyên qua được tuyến phòng thủ của Quân đoàn xe tăng 57 (Đức). Tướng P. A. Rotmistrov phải triển khai công kích vào Manychskaya khi chỉ có 1/4 quân số và xe tăng của hai lữ đoàn đến tập kết. Và kết quả cuộc tấn công đã thất bại khi gặp phải hỏa lực tập trung của Sư đoàn SS "Wiking": 5 xe tăng T-34 và 2 xe tăng T-70 bị bắn cháy. Tướng R. Ya. Malinovsky buộc phải ngừng công kích để chờ tập trung đủ lực lượng.
Kết quả
Kết quả lớn nhất của chiến dịch phản công Salsk-Rostov mà quân đội Liên Xô đạt được là thu hồi thành phố Rostov, một trong các thành phố quan trọng ở miền Nam Nga, cửa ngõ của khu vực Kavkaz. Cùng với Rostov là toàn bộ mạng lưới đường sắt vùng nam Donets từ Stalingrad đi Rostov, từ Rostov lên phía bắc qua các đầu mối giao thông Sverdlovsk, Likhovskoye và toàn bộ tuyến đường thủy ở hạ lưu sông Đông cũng đã được thu hồi. Hệ thống giao thông này đã nối liền và hợp nhất toàn bộ tuyến đường sắt dọc bờ tây sông Đông và sông Bắc Donets từ Moskva xuống phía nam, trừ các khu vực Oryol và Kharkov vẫn còn tạm thời nằm trong vùng quân Đức chiếm đóng. Mặc dù việc khôi phục kéo dài khoảng 3 đến 4 tháng nhưng mạng lưới đường sắt này đã tạo điều kiện thuận lợi cho quân đội Liên Xô có thể cơ động lực lượng ở cánh Nam của mặt trận Xô-Đức, tạo những cơ sở thuận lợi cho cuộc phản công mùa thu năm 1943 trên mặt trận Nam Ukraina.
Tuy nhiên, mục đích chiến dịch cao nhất của quân đội Liên Xô là cô lập Cụm tập đoàn quân A (Đức) ở Bắc Kavkaz đã không thực hiện được. Không có một bằng chứng nào cho thấy ý đồ này của quân đội Liên Xô bị quân đội Đức Quốc xã phát hiện do các hoạt động tình báo. Ngay từ khi Adolf Hitler tách Cụm tập đoàn quân Nam là đội và điều Cụm tập đoàn quân A vào Bắc Kavkaz, nhiều tướng lĩnh Đức đã cảm thấy sự phiêu lưu và bất ổn cho hai hành động quân sự trên hai hướng gần như tách rời nhau như vậy. Cuối cùng thì việc phải đến đã đến. Khi không những không còn đủ lực lượng để tiếp tục tấn công ở Bắc Kavkaz mà cũng không còn đủ lực lượng để cứu Tập đoàn quân 6 (Đức) bị vây hãm tại Stalingrad thì Bộ chỉ huy tối cao quân đội Đức Quốc xã buộc phải lựa chọn một trong 2 mục tiêu cần giữ lại: Tập đoàn quân 6 hoặc Cụm tập đoàn quân A. Sự thất bại của chiến dịch Bão Mùa đông cho thấy không những quân đội Đức Quốc xã không đủ lực lượng để cùng lúc làm hai nhiệm vụ giải cứu mà còn là sự báo hiệu những nguy cơ mới cho quân đội Đức Quốc xã trên cánh Nam của mặt trận Xô-Đức. Không đợi đến khi Tập đoàn quân 6 hoàn toàn bị tan rã, bị tiêu diệt và bị bắt làm tù binh, Bộ Tổng tư lệnh quân đội Đức Quốc xã đã có kế hoạch rút quân khỏi Bắc Kavkaz bất chấp chỉ lệnh của Hitler cấm rút quân. Khác với những lần trách phạt các tướng lĩnh về việc rút quân trước đó ở Moskva, lần này, Adolf Hitler buộc phải đồng ý.