Tập đoàn quân 25 là một đơn vị quân sự chiến lược cấp tập đoàn quân của Hồng quân Liên Xô phục vụ tại Viễn Đông Nga giai đoạn Chiến tranh Thế giới thứ hai
Được thành lập vào tháng 6 năm 1941, Tập đoàn quân 25 đã không tham chiến cho đến khi Liên Xô tấn công Mãn Châu vào tháng 8 năm 1945, khi lực lượng này tiến vào miền bắc Triều Tiên. Sau Chiến tranh thế giới thứ hai, đơn vị chịu trách nhiệm về Cơ quan quản lý dân sự của Liên Xô ở Bắc Bán đảo Triều Tiên và giúp thiết lập một nhà nước Cộng sản ở Bắc Triều Tiên dưới sự lãnh đạo của Kim Nhật Thành. Lực lượng này vẫn ở lại Triều Tiên cho đến khi rút quân vào năm 1948, và đóng quân tại Primorsky Krai cho đến khi giải tán năm 1957.
Chiến tranh thế giới thứ hai
Đơn vị được thành lập tại Phương diện quân Viễn Đông của Liên Xô trên cơ sở Quân đoàn súng trường 43 (tại Primorsky Krai) vào ngày 20 tháng 6 năm 1941 theo lệnh của ngày 8 tháng 3. Có trụ sở chính tại Voroshilov, do Trung tướng Filipp Parusinov chỉ huy. Đơn vị ban đầu bao gồm Quân đoàn súng trường 39 với Sư đoàn súng trường 32, Sư đoàn súng trường 40 và 92, cũng như Sư đoàn súng trường 105 và các Khu vục phòng thủ kiên cố số 106, 107, 108, 110 và 111 thuộc Lục quân. Đơn vị chịu trách nhiệm bảo vệ biên giới ở Primorsky Krai. Vào ngày 10 tháng 8 năm 1943, đơn vị trở thành một phần của Cụm tác chiến Duyên hải. Ngày 20 tháng 4 năm 1945, lực lượng này trở thành một phần của Phương diện quân Viễn Đông, và nhanh chóng được trực thuộc Stavka.
Vào tháng 6, Đại Tướng Ivan Chistyakov nắm quyền chỉ huy đơn vị. Vào ngày 5 tháng 8, đơn vị trở thành một phần của Phương diện quân Viễn Đông 1, được tái thiết lập từ Cụm tác chiến Duyên hải để chuẩn bị cho cuộc tấn công Mãn Châu của Liên Xô. Vào thời điểm đó, Sư đoàn súng trường 393 và các đơn vị bổ sung số 7 và 113 nằm trong thành phần Tập đoàn quân. Vào đầu cuộc xâm lược vào ngày 9 tháng 8, đơn vị bao gồm Quân đoàn súng trường 39 với các Sư đoàn súng trường 40, 384 và 386, Sư đoàn súng trường 393 và các Sư đoàn 7, 106, 107, 108, 110, Khu vục phòng thủ kiên cố số 111 và 113.
Trong cuộc tấn công Mãn Châu của Liên Xô, lực lượng này đã chiến đấu trong Chiến dịch tấn công Cáp Nhĩ Tân-Kirin. Đến cuối ngày 10 tháng 8, đơn vị đã vượt qua phòng tuyến của Nhật Bản, đánh chiếm các khu vực Đông Ninh, Dongxin-zhen và Hồn Xuân, cắt đường Đông Ninh-Tumyntsa-Hồn Xuân, tiến sâu 15 km (9,3 mi) đến 20 km (12 dặm). Vào ngày 11 tháng 8, Tập đoàn quân 25 đã chiếm được Laoheishan và Hunchun, và vào ngày hôm sau đã chiếm được các cảng Unggi và Rason trên bờ biển phía đông của Hàn Quốc cùng với lực lượng đổ bộ của Hạm đội Thái Bình Dương. Kết quả của đợt tiến công, đơn vị đã nhận bổ sung Quân đoàn súng trường 17 của Tập đoàn quân 5 cùng Sư đoàn súng trường 88 và quân đoàn cơ giới 10 dự bị từ trước. Với sự tiếp viện, tập đoàn quân cũng nhận được một nhiệm vụ mới: tiến về phía nam và cắt đứt liên lạc giữa quân Nhật ở Hàn Quốc và quân ở Mãn Châu, đồng thời phối hợp với lực lượng đổ bộ của Hạm đội Thái Bình Dương, đánh chiếm các cảng ở bờ biển phía đông Triều Tiên. Để hoàn thành nhiệm vụ này, đơn vị đã đánh bại các bộ phận của Tập đoàn quân 3 và 34 của Nhật Bản và chiếm được Uông Thanh vào ngày 15 tháng 8, Chongjin vào ngày 16 tháng 8, Ranan và Diên Cát ngày 17 tháng 8 cùng các đơn vị khác. Trong khoảng thời gian từ ngày 18 đến ngày 20 tháng 8, đơn vị đã tước vũ khí của quân đội Nhật đầu hàng, và được tái bố trí đến khu vực Bình Nhưỡng vào cuối tháng.
Cuối năm 1948, Tập đoàn quân được lệnh rút khỏi Triều Tiên và đóng quân ở miền nam Primorsky Krai trên biên giới Triều Tiên và Trung Quốc, cũng như trên bờ biển Vịnh Peter Đại đế. Trụ sở chính của đơn vị được đặt tại Shkotovo. Vào tháng 3 năm 1953, lực lượng bao gồm các Sư đoàn Pháo máy-Súng máy 9, 10, 21 và 24. Sư đoàn cơ giới hóa 10 đã trở thành một phần của Quân đoàn súng trường 65 vào thời điểm này, và Sư đoàn súng trường số 40 trực thuộc Tập đoàn quân. Vào tháng 4 năm 1953, Quân khu Primorsky bị giải tán và Tập đoàn quân trở thành một bộ phận của Quân khu Viễn Đông. Tư lệnh cuối cùng của quân đội là Trung tướng (được thăng cấp Đại tá ngày 8 tháng 8 năm 1955) Ivan Rubanyuk, người nắm quyền chỉ huy vào ngày 18 tháng 5 năm 1953. Quân đoàn súng trường số 65 và các sư đoàn của nó đã bị giải tán vào mùa hè năm 1956 và số sư đoàn súng trường còn lại của Tập đoàn quân 25 trở thành các sư đoàn súng trường cơ giới vào mùa xuân năm 1957. Vào ngày 1 tháng 5, Tập đoàn quân bao gồm các Sư đoàn súng trường cơ giới 40, 84, 147 và 148. Vào tháng 12 năm 1957, Tập đoàn quân bị giải tán và các sư đoàn còn lại của nó được chuyển giao cho Quân đoàn 5. Các Sư đoàn 84, 147 và 148 bị giải tán cùng với Tập đoàn quân 25.
Các đời chỉ huy
Trong thời gian tồn tại, Tập đoàn quân 25 được chỉ huy bởi các sĩ quan sau:
- Trung tướng Filipp Parusinov (11 tháng 3 năm 1941-25 tháng 6 năm 1943)
- Thiếu tướng Alexander Maximov (25 tháng 6 năm 1943-28 tháng 6 năm 1945)
- Đại tá Đại tướng Ivan Chistyakov (28 tháng 6 năm 1945 - 18 tháng 2 năm 1947)
- Trung tướng Gennady Korotkov (19 tháng 2 năm 1947 - 19 tháng 4 năm 1948)\
- Trung tướng Vasily Shvetsov (20 tháng 4 năm 1948 - 17 tháng 5 năm 1953)
- Trung tướng (thăng Đại tá ngày 8 tháng 8 năm 1955) Ivan Rubanyuk (18 tháng 5 năm 1953 - 30 tháng 12 năm 1957)
Tài liệu tham khảo
👁️
1 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Tập đoàn quân 25** là một đơn vị quân sự chiến lược cấp tập đoàn quân của Hồng quân Liên Xô phục vụ tại Viễn Đông Nga giai đoạn Chiến tranh Thế giới thứ hai
**Tập đoàn quân 4** là một đơn vị quân sự chiến lược cấp tập đoàn quân của Hồng quân Liên Xô, hoạt động trong thời gian Chiến tranh thế giới thứ hai tại Mặt trận
**Tập đoàn quân 3** () là một đơn vị quân sự chiến lược cấp Tập đoàn quân của Hồng quân Liên Xô hoạt động trong thời gian Chiến tranh Thế giới thứ hai. ## Chiến
**Tập đoàn quân 23** là một đơn vị quân sự chiến lược cấp tập đoàn quân của Hồng quân Liên Xô trong Thế chiến thứ hai. Nó được thành lập vào tháng 5 năm 1941
**Tập đoàn quân 27** là một đơn vị quân sự chiến lược cấp tập đoàn quân của Hồng quân Liên Xô, hoạt động trong thời gian Chiến tranh thế giới thứ hai. ## Thành lập
**Tập đoàn quân 26** (Nga: армия 26-я _26-ya armiya_) là một đơn vị quân sự chiến lược cấp tập đoàn quân của Hồng quân Liên Xô, được hình thành vào năm 1941 và hoạt động
**Tập đoàn quân 24** là một đơn vị quân sự chiến lược cấp tập đoàn quân của Hồng quân Liên Xô, được hình thành vào năm 1941 và hoạt động trong thời gian Chiến tranh
phải|nhỏ|250x250px|Xe tăng hạng nhẹ [[Xe tăng T-26|T-26 của Tập đoàn quân 7 trong cuộc tiến công vào Phần Lan, ngày 2 tháng 12 năm 1939.]] **Tập đoàn quân 7** (tiếng Nga: _7-я армия_) là một
**Tập đoàn quân 30** là một đơn vị quân sự chiến lược cấp tập đoàn quân của Hồng quân Liên Xô hoạt động trong những năm 1941-1943. Nó được tái tổ chức thành Tập đoàn
**Tập đoàn quân Cờ đỏ 1** (__) là một tập đoàn quân của Hồng Quân trong Thế chiến thứ hai. Tập đoàn quân này đóng tại vùng Viễn Đông Nga. ## Lịch sử hình thành
Trận sông Dniepr là một chuỗi các chiến dịch tấn công chiến lược của Quân đội Liên Xô trong các giai đoạn mở đầu cho thời kỳ thứ ba của cuộc chiến tranh Xô-Đức, đồng
**Cụm tập đoàn quân Trung tâm** (tiếng Đức: _Heeresgruppe Mitte_) là tên của tổ chức tác chiến chiến lược cấp cụm tập đoàn quân của Đức Quốc xã tại Mặt trận phía Đông trong Thế
**Chính ủy Tập đoàn quân bậc 2** ( là một cấp bậc quân sự cao cấp của các sĩ quan chính trị trong Hồng quân và Hải quân Liên Xô. Cấp bậc này chỉ xếp
**Tập đoàn quân đoàn số 6** (tiếng Đức: _Armeeoberkommando 6_, viết tắt **6. Armee**/**AOK 6**) là một đại đơn vị của Quân đội Đức Quốc xã. Từng là một trong những đại đơn vị thiện
nhỏ|259x259px|
Huy hiệu ve áo trao cho các cựu binh Tập đoàn Xe tăng cận vệ 1
**Tập đoàn quân xe tăng Cận vệ 1 Huân chương Cờ Đỏ** là một đơn vị quân
Hệ thống cấp bậc quân sự riêng biệt lực lượng lục quân, không quân và hải quân Hồng quân (1935-1940) - cấp bậc quân sự, được ban hành bởi các Nghị quyết của Ủy ban
**Tập đoàn quân binh chủng hợp thành số 6 Huân chương Cờ Đỏ** (tiếng Nga: _6-я общевойсковая Краснознамённая армия_) là một đơn vị quân sự chiến lược cấp tập đoàn quân của Lực lượng Mặt
**Cụm tập đoàn quân Bắc** () là một phiên hiệu đội hình tác chiến chiến lược cấp Cụm tập đoàn quân của Đức Quốc xã trong Thế chiến thứ hai, đặt dưới quyền chỉ huy
**Quân hàm Hồng quân và Hồng Hải quân từ năm 1940 đến 1943** được đặc trưng bởi những cải cách liên tục đối với các lực lượng vũ trang Liên Xô trong giai đoạn ngay
**Cụm tập đoàn quân A** () là một phiên hiệu đơn vị cấp cụm tập đoàn quân của Đức Quốc xã trong Thế chiến thứ hai. ## Chiến thắng chóng vánh trên Mặt trận phía
**Cụm tập đoàn quân E** () là một Tập đoàn quân Đức hoạt động trong Thế chiến thứ hai. Nó được thành lập vào ngày 1 tháng 1 năm 1943 trên cơ sở phát triển
**Binh đoàn Duyên hải** (tiếng Nga: _Приморская армия_), hay **Tập đoàn quân độc lập Duyên hải** (_Отдельная Приморская армия_), là một đơn vị quân đội cấp tập đoàn quân thuộc Hồng quân Liên Xô, tham
**Tập đoàn quân binh chủng hợp thành Cận vệ số 5** (tiếng Nga: 5-я гвардейская общевойсковая армия) là một đơn vị quân sự cấp tập đoàn quân của Lực lượng mặt đất Liên bang Nga.
**Ủy trị dân sự Liên Xô** hay **Chính quyền Dân sự Liên Xô** **(Soviet Civil Administration** **- SCA**; ; Tiếng Nga: _Советская зона оккупации Кореи_) là chính quyền của nửa phía bắc bán đảo Triều
**Mặt trận Các tập đoàn quân dự bị** (tiếng Nga: _Фронт резервных армий_) là một tổ chức tác chiến chiến lược của Hồng quân Liên Xô vào đầu Thế chiến thứ hai. ## Hình thành
**Chiến tranh Xô–Đức 1941–1945** là một cuộc chiến giữa Liên Xô và Đức Quốc xã trong Thế chiến thứ hai, trải dài khắp Bắc, Nam và Đông Âu từ ngày 22 tháng 6 năm 1941
**Không quân Liên Xô** (, _Voyenno-vozdushnye sily SSSR_), cũng còn được biết đến dưới tên gọi tắt là **VVS**, chuyển tự từ tiếng Nga là: **ВВС**, Военно-воздушные силы (_Voenno-vozdushnye sily_), đây là tên gọi chỉ
**Lực lượng vũ trang Liên bang Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Xô viết**(tiếng Nga: _Вооружённые Силы Союза Советских Социалистических Республик_) là lực lượng vũ trang của Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Xô viết
**Lực lượng Mặt đất Lực lượng Vũ trang Liên Xô** () là nhánh lục quân của Lực lượng Vũ trang Liên Xô. Là một lực lượng độc lập của Lực lượng Vũ trang Liên Xô,
**Bộ Dân ủy Nội vụ** (, _Narodnyy komissariat vnutrennikh del_), viết tắt **NKVD** ( ) là một cơ quan hành pháp của Liên Xô, đơn vị trực tiếp thi hành quyền lực của Đảng Cộng
**Thanh trừng Hồng quân Liên Xô (1937-1938)** () - thanh trừng chính trị quy mô lớn ("đàn áp") chống lại sĩ quan và nhân viên cấp cao của Hồng quân Công Nông (РККА) và Hải
**Chiến tranh Liên Xô tại Afghanistan**, hay còn được gọi là **Xung đột Afghanistan - Liên Xô** và **Chiến tranh Afghanistan** là cuộc xung đột kéo dài 10 năm giữa các lực lượng quân sự
**Voyska PVO** (tiếng Nga: Войска ПВО, hoặc **PVO strany** từ năm 1981) là quân chủng phòng không của quân đội Liên Xô. PVO là viết tắt của _protivovozdushnaya oborona_ hoặc "Phòng không". Không giống quân
**Trục xuất người Triều Tiên ở Liên Xô** (, ) là việc cưỡng bức di cư gần 172.000 người Triều Tiên từ Viễn Đông Nga sang Trung Á vào năm 1937 theo chỉ thị của
**Hải quân Liên Xô** () là nhánh hải quân của Lực lượng vũ trang Liên Xô. Thường được gọi là **Hạm đội Đỏ**, Hải quân Liên Xô là lực lượng có số lượng tàu chiến
**Sự giải thể của Liên bang Xô viết** hay **Liên Xô tan rã** ( hoặc распад Советского Союза) là quá trình tan rã nội bộ của Liên bang Xô viết bắt đầu trong những năm
Bố trí quân lực hai bên trước chiến dịch. Chiến dịch tấn công Belarus (1944) có tên mã Chiến dịch Bagration là hoạt động tấn công quân sự có quy mô lớn của quân đội
Đặc trưng giai đoạn này của Liên xô là sự lãnh đạo của **Joseph Stalin**, người đang tìm cách tái định hình xã hội Xô viết với nền kinh tế kế hoạch nhiều tham vọng,
thumb|right|[[quân khu Đế quốc Nga|Các quân khu của Đế quốc Nga năm 1913]] **Quân khu Kiev** (; , viết tắt ) là một quân khu của Lục quân Đế quốc Nga và sau đó là
**Chiến tranh Mùa đông** (, , ) hay **Chiến tranh Liên Xô-Phần Lan 1939-1940** là cuộc chiến giữa Liên Xô và Phần Lan do tranh chấp lãnh thổ tại vùng Karelia. Nó diễn ra vào
**Giai đoạn này của Lịch sử Liên Xô** chứng kiến cuộc Chiến tranh Lạnh, khi Liên bang Xô viết và Hoa Kỳ cạnh tranh trực tiếp và gián tiếp để mở rộng ảnh hưởng, trong
**Quá trình sụp đổ của Liên Xô** thành các quốc gia độc lập bắt đầu ngay từ năm 1985. Sau nhiều năm xây dựng quân đội Liên Xô và các chi phí phát triển trong
**Liên Xô** hay **Liên bang Xô viết**, tên chính thức là **Liên bang Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Xô viết**, là một cựu quốc gia nằm ở phía bắc lục địa Á-Âu, tồn tại
nhỏ|Thủ tướng Anh [[Winston Churchill, Tổng thống Hoa Kỳ Franklin D. Roosevelt, và Lãnh tụ Xô viết Joseph Stalin ở Yalta, Krym, Liên Xô vào tháng 2 năm 1945]] **Quan hệ giữa Hợp chúng quốc
**Chiếm đóng quân sự bởi Liên Xô** viết về các vụ chiếm đóng bằng vũ lực của Liên Xô từ lúc mở màn cho tới sau thế chiến thứ hai và sau đó trong thời
**Bộ Quốc phòng Liên Xô (МО)** - () - là cơ quan cấp bộ của Liên Xô. Là cơ quan quản lý nhà nước của các lực lượng vũ trang Liên Xô, ngoại trừ các
**Chiến dịch Đông Carpath** là hoạt động quân sự lớn trong Chiến tranh Xô-Đức thuộc Chiến tranh thế giới thứ hai do Hồng quân Liên Xô tổ chức nhằm tấn công vào các tuyến phòng
**Chiến dịch tấn công Viên** là một trong các chiến dịch quân sự lớn cuối cùng ở châu Âu trong Chiến tranh thế giới thứ hai. Chiến dịch do Phương diện quân Ukraina 3 và
**Chiến dịch đổ bộ đường không Rzhishchev-Bukrin** là một hoạt động quân sự nằm trong khuôn khổ Trận sông Dniepr. Ban đầu, chiến dịch này được coi là hoạt động tiền đề cho Trận Kiev
**Chiến dịch Tây Carpath** là một chiến dịch tấn công chiến lược do quân đội Liên Xô tiến hành nhằm tấn công vào tuyến phòng thủ của quân đội Đức Quốc xã tại miền Tây