✨Cấp bậc quân sự Liên Xô (1935–1940)

Cấp bậc quân sự Liên Xô (1935–1940)

Hệ thống cấp bậc quân sự riêng biệt lực lượng lục quân, không quân và hải quân Hồng quân (1935-1940) - cấp bậc quân sự, được ban hành bởi các Nghị quyết của Ủy ban Chấp hành Trung ương Liên Xô số 19 và Hội đồng Dân ủy Liên Xô số 2135 ngày 22 tháng 9 năm 1935 "Về ban hành các quân hàm riêng biệt ban chỉ huy Hồng quân và phê chuẩn Quy chế nhiệm vụ ban chỉ huy và tham mưu cao cấp Hồng quân".

Được công bố theo Lệnh Ủy viên Nhân dân Bộ Dân ủy Quốc phòng Liên Xô (NKO) số 144 ngày 26 tháng 9 năm 1935.

Nghị quyết số 2590 và số 2591 ngày 2 tháng 12 năm 1935 Hội đồng Dân ủy Liên Xô cho Lực lượng Lục quân, Không quân và Hải quân Hồng quân Công Nông đã thiết lập đồng phục và phù hiệu lực lượng chính quy, chỉ huy và tham mưu Hồng quân.

Được công bố theo Lệnh NKO số 176 ngày 3 tháng 12 năm 1935.

Lược sử

Sau Cách mạng tháng 10, hệ thống quân hàm bị bãi bỏ và không được áp dụng trong Hồng quân và Hải quân Xô viết. Tuy nhiên, trước nhu cầu thực tế của tổ chức quân sự, đặc biệt là những kinh nghiệm rút ra từ Nội chiến Nga, các lãnh đạo Liên Xô buộc phải sử dụng lại hệ thống cấp bậc cho các tổ chức quân sự của mình. Ngày 20 tháng 6 năm 1924, Hội đồng Quân sự Cách mạng Liên Xô ra sắc lệnh số 807, quy định hệ thống cấp bậc quân sự áp dụng trong Hồng quân, phân thành 14 bậc từ K-1 (thấp nhất) cho đến K-14 (cao nhất). Hệ thống cấp bậc này áp dụng cho cả các cán bộ công tác trong quân đội tương đương ngạch sĩ quan, bao gồm Cán bộ Chính trị, Kỹ thuật, Hậu cần, Quân y, Tư pháp và các lực lượng vũ trang khác. Hệ thống này đã bãi bỏ một phần quan điểm "bình đẳng" trong quân đội trước đây, theo đó đã bắt đầu phân chia thành các nhóm cán bộ chỉ huy trung cấp, cao cấp, và tối cao. Bên cạnh đó, hệ thống này cũng bắt đầu sử dụng các màu nền và màu viền trên cấp hiệu để phân biệt các nhánh binh chủng khác nhau.

Năm 1935

Các cấp bậc quân sự chỉ huy và tham mưu được tạo ra bằng cách sử dụng hai đặc điểm: chuyên môn quân sự (nghiệp vụ) và chức vụ, xác định mục đích chính thức người mang cấp bậc. Tổng cộng có 63 cấp bậc quân hàm khác nhau dành cho cấp chỉ huy và tham mưu Hồng quân (Lục quân và Không quân) và Hồng Hải quân.

Vào ngày 21 tháng 11 năm 1935, Nghị định Ủy ban Chấp hành Liên Xô và Hội đồng Dân ủy Liên Xô "Về việc trao quân hàm Nguyên soái Liên Xô" cho các chỉ huy Liên Xô Kliment Yefremovich Voroshilov, Aleksandr Ilyich Yegorov, Mikhail Nikolayevich Tukhachevsky, Vasily Konstantinovich Blyukher và Semyon Mikhailovich Budyonny đã được công bố.

Cấp bậc quân sự năm 1935

Năm 1937

Sự thống nhất cuối cùng diễn ra với việc thông qua "Quy chế nghĩa vụ nội vụ mới Hồng quân" (UVS-37) vào cuối năm 1937, phản ánh rõ ràng sự phân chia quân nhân mới thành các nhóm theo chức vụ cấp bậc quân nhân. Cụ thể, dựa trên đoạn 10 Chương I, Phần 2, "Mối quan hệ giữa các Quân nhân", tất cả các quân nhân được chia thành các nhóm theo chức vụ cấp bậc quân nhân thành:

  • Sĩ quan chỉ huy - bao gồm quân nhân có quân hàm chỉ huy;
  • Sĩ quan tham mưu - bao gồm các bộ phận chính trị-quân sự, quân sự-kỹ thuật, quân sự-kinh tế và hành chính, quân y và quân sự-thú y, và quân sự-pháp chế;
  • Chỉ huy trưởng cấp cơ sở và cán bộ chỉ huy cấp cơ sở;
  • Hạ sĩ quan.

Đoạn 14 Quy chế này (UVS-37) liệt kê các cấp bậc quân sự riêng biệt được thành lập theo Nghị quyết Ủy ban Chấp hành Liên Xô và Hội đồng Dân ủy Liên Xô từ ngày 22 tháng 9 năm 1935 với các bổ sung được đưa ra bởi Nghị quyết Ủy ban Chấp hành Liên Xô số 104 và Hội đồng Dân ủy Liên Xô số 1296 từ ngày 5 tháng 8 năm 1937, quy định cấp bậc riêng biệt Thiếu úy (Младший лейтенант) và Kỹ thuật viên Quân sự Sơ cấp (младший воентехник) - "dành cho chỉ huy cấp cơ sở và sĩ quan chỉ huy đã hoàn thành các khóa học ngắn hạn đặc biệt, cũng như cho những người đã hoàn thành nghĩa vụ quân sự theo Mục X Luật nghĩa vụ quân sự bắt buộc", và Chính trị viên Sơ cấp (Младший политрук) - "dành cho những người làm công tác chính trị từ sĩ quan chỉ huy cấp cơ sở và chiến sĩ Hồng quân không được đào tạo trong phạm vi trường chính trị quân sự".

Điểm 14 UVS-37 cũng liệt kê các cấp bậc quân sự cho binh nhì và hạ sĩ quan Lực lượng Hải quân Hồng quân: Lính Hồng Hải quân, Phân đội trưởng, Trung sĩ Hải quân. Đồng thời, UVS-37 vẫn giữ quân hiệu cho chức vụ Thủy thủ trưởng (главный боцман), là vị trí cấp cao trên tàu hạ sĩ quan cho thủy thủ đoàn trên chiến hạm và tàu Hải quân Hồng quân. Là một phần trong biên chế tàu chiến Hải quân Hồng quân, Thượng sĩ Hải quân (главные боцманы) thực hiện các nhiệm vụ tương tự như các nhiệm vụ Chánh Thủy thủ (старших боцманов) Hải quân Đế quốc Nga.

Năm 1938

Theo Lệnh số 19 NKO Liên Xô ngày 25 tháng 1 năm 1938, phụ tá (заместителей) và trợ lý chính trị viên (помощников политруков) được giới thiệu trong các đơn vị Hồng quân và Hồng Hải quân, những người giao trách nhiệm hỗ trợ các chính trị viên đại đội (trận địa, hải đội, v.v.) trong việc giáo dục chính trị cho các binh sĩ trong trung đội. Sau đó, theo Nghị quyết Hội đồng Dân ủy Liên Xô số 426 ngày 1 tháng 4 năm 1938, được công bố theo lệnh Bộ Dân ủy Quốc phòng Liên Xô số 045 ngày 5 tháng 4 năm 1938, ban hành phù hiệu cấp bậc Phó Chính trị viên (замполитруков) cấp bậc riêng biệt, tương tự Chuẩn úy Hồng quân (tương tự cấp bậc Thủy thủ trưởng Hồng Hải quân).

Năm 1939

Tại phiên họp thứ tư bất thường Xô viết Tối cao Liên Xô khóa I, được tổ chức vào cuối tháng 8 - đầu tháng 9 năm 1939, Luật mới "Về nghĩa vụ quân sự phổ thông" đã được thông qua. Điều 12 của Luật này đã chia các quân nhân sĩ quan (sĩ quan) Hồng quân thành các nhóm: Tối cao, thượng cấp, trung cấpsơ cấp.

Cấp bậc quân sự năm 1939

Cấp bậc quân sự tham mưu Hồng quân và Hồng Hải quân đến 9/1939

Năm 1940

Trong Hồng quân, một hệ thống cấp bậc quân sự các sĩ quan chỉ huy được hình thành, tương ứng với việc xây dựng cơ cấu quân đội theo nguyên tắc nhân ba: mỗi đơn vị lớn bao gồm ba đơn vị nhỏ - một trung đội súng trường sĩ quan chỉ huy trung úy phụ trách bao gồm ba tiểu đội, một đại đội do đại úy (thượng tá) gồm ba trung đội, một tiểu đoàn do thiếu tá phụ trách gồm ba đại đội, một trung đoàn do đại tá phụ trách gồm ba tiểu đoàn.

Các đơn vị lớn hơn, lớn hơn một trung đoàn (lữ đoàn, sư đoàn, quân đoàn, tập đoàn quân và phương diện quân), trở nên phổ biến trong các cuộc chiến tranh với số lượng đáng kể, đòi hỏi một cách tiếp cận đặc biệt. Hệ thống cấp bậc chính trị viên và chỉ huy được phát triển theo cách riêng biệt này.

Theo Điều 41 của Luật "Về nghĩa vụ quân sự phổ thông" ngày 1 tháng 9 năm 1939, các cấp bậc quân sự của trung tá (подполковника) và Chính ủy tiểu đoàn Cao cấp (старшего батальонного комиссара) đã được giới thiệu bởi lệnh Bộ Dân ủy Quốc phòng số 2690 ngày 1 tháng 9 năm 1939 và được phê chuẩn theo sắc lệnh Hội đồng Dân ủy Liên Xô số 226 ngày 26 tháng 7 năm 1940. Theo sắc lệnh số 226 này, các cấp bậc nói trên đã được đưa vào Hồng quân từ ngày 30 tháng 7 năm 1940.

Nhưng vào thời điểm đó, Nghị định Đoàn Chủ tịch Xô viết Tối cao Liên Xô từ ngày 7 tháng 5 năm 1940, được công bố theo lệnh Bộ Dân ủy Quốc phòng Nhân dân số 112 ngày 8 tháng 5 năm 1940 và Bộ Dân ủy Hải quân số 233 ngày 11 tháng 11 năm 1940, cấp bậc tướng và đô đốc được giới thiệu, làm thay đổi toàn bộ hệ thống cấp bậc chỉ huy cao cấp Hồng quân và Hồng Hải quân.

Quân hàm và phù hiệu

Từ tháng 12 năm 1935, các quân hàm mới đã được phê duyệt cho các quân nhân Hồng quân và Hồng Hải quân theo các cấp bậc riêng biệt được ban hành. Tất cả các quân nhân Hồng quân đều nhận được quân hàm ve áo.

Quân hàm ve áo khác nhau tùy theo trang phục: có những ve áo hình thoi trên áo khoác ngoài và áo khoác bông, và ve áo hình bình hành trên đồng phục (ngoại trừ ve áo Nguyên soái Liên Xô). Ve áo sĩ quan chỉ huy Hồng quân (từ trung cấp trở lên) có một dải vàng bao quanh. Ve áo binh lính, hạ sĩ quan và tất cả các cấp chỉ huy (từ trung cấp trở xuống) đều không có dải vàng bao quanh. Ve áo có màu sắc khác nhau tùy theo binh chủng.

Ngoài ve áo, các sĩ quan chỉ huy (từ trung cấp trở lên) còn được quân hàm tay áo ở dạng chevron (họa tiết bao gồm nhiều chữ V), được gọi là "lon", được may trên tay áo khoác ngoài và áo khoác bông phía trên cổ tay áo. Đối với các sĩ quan chỉ huy cao hơn, các góc được làm bằng ren vàng rộng 1,5 cm. Đối với Tư lệnh Tập đoàn quân bậc 1 và Nguyên soái Liên Xô - chevron vàng 3 cm, ngoài ra, Nguyên soái Liên Xô còn có một chevron đỏ 1,5 cm thứ hai, được khâu liền bên dưới tấm chevron vàng. Ngôi sao trên cánh tay Tư lệnh Tập đoàn quân bậc 1 và Nguyên soái Liên Xô có đường kính 6 cm trên áo khoác ngoài và 5 cm trên áo khoác bông và áo chẽn. Chevrons bằng vải đỏ cho các sĩ quan chỉ huy Thượng cấp và Trung cấp: cho các sĩ quan Thượng cấp - rộng 1,5 cm (đối với các đại tá - được may liền chevron vàng 5 mm phía trên và dưới), cho các sĩ quan Trung cấp - rộng 0,75 cm.

Đối với các sĩ quan chính trị Hồng quân, thay vì chevron tay áo, những ngôi sao đỏ và đường kính 5,5 cm, viền bằng lụa đỏ rộng 3mm, bên trong có liềm và búa vàng (dành cho Chính ủy Tập đoàn quân bậc 1 - sao vàng không có liềm và búa, hình dạng và đường kính tương tự như ngôi sao tay áo Tư lệnh Tập đoàn quân bậc 1).

Quân hàm Hồng quân 1935-1940.jpg|Các mẫu quân hàm, cấp bậc chỉ huy Lực lượng Lục quân và Không quân Hồng quân.

RA rank insignias – commissars and chiefs 1935-1940.jpg|Các mẫu quân hàm chỉ huy lực lượng lục quân và không quân Hồng quân.
Có điều bất hợp lý trong giai đoạn 1935-1940, cấp bậc "Звеньевой" (Toán trưởng) và theo đó, quân hàm theo Nghị quyết Hội đồng Dân ủy Liên Xô số 2590 ngày 12 tháng 02 năm 1935 không được ban hành.

Các thiếu sinh quân, sĩ quan sơ cấp và chỉ huy các trường quân sự Hồng quân đeo quân hàm ve áo quy định cho binh nhì và sĩ quan sơ cấp quân binh chủng tương ứng, hoặc được đào tạo tại trường quân sự. Các ve áo các học viên cấp bậc được khâu bằng chỉ màu vàng hoặc sơn màu vàng từ viết tắt trường quân sự.

Các học viên hạ sĩ quan và sĩ quan sơ cấp thay vì đánh dấu mã ve áo của họ, họ đeo quân hàm tương ứng với cấp bậc quân sự của họ (hình tam giác hạ sĩ quan và nhân viên chỉ huy).

Phù hiệu Binh chủng

nhỏ|phải|Phù hiệu các Lực lượng Hồng quân Trên ve áo quân nhân có các phú hiệu theo binh chủng (lực lượng). Các ve áo của các binh chủng khác nhau Hồng quân có màu sắc và viền khác nhau. Ví dụ: ve áo bộ binh có màu đỏ thẫm, của kỵ binh có màu xanh dương, với cùng một đường viền màu đen cho cả hai binh chủng quân đội.

Cho đến năm 1936, quân nhân Hồng quân tiếp tục đeo các phù hiệu Hồng quân được thiết lập theo Lệnh Hội đồng Quân sự Cách mạng Liên Xô số 807 ngày 20 tháng 6 năm 1924 (tổng cộng có 24 phù hiệu), với các bổ sung được thực hiện bởi Lệnh Hội đồng Quân sự Cách mạng Liên Xô:

  • Số 1058 ngày 19 tháng 8 năm 1924 (thay đổi phù hiệu quân y);
  • Số 721 ngày 7 tháng 12 năm 1926 (ban hành phù hiệu lực lượng hóa học);
  • Số 220 ngày 18 tháng 11 năm 1932 (ban hành phù hiệu tùy viên quân sự).

Tuy nhiên, không có việc sản xuất và cung cấp quân đội hàng loạt với các phù hiệu, việc sản xuất và cung cấp được giao cho chính các đơn vị quân đội. Chỉ huy các đơn vị này đã ra lệnh sản xuất các phù hiệu, theo quy định, trong các tổ chức hợp tác địa phương khác nhau như công xưởng nhỏ và artel, thường tự điều chỉnh thiết kế - dựa trên ý muốn cá nhân hoặc các phiên bản mẫu năm 1922 trước dó. Ví dụ, quân nhân Lực lượng Cơ giới thay vì 3 biểu tượng khác nhau được phê duyệt vào năm 1924 theo Lệnh số 807 Hội đồng Quân sự Cách mạng Liên Xô cho xe lửa thiết giáp, xe tăng và thiết giáp - nhưng lại chỉ đeo một phù hiệu duy nhất Lực lượng Thiết giáp Hồng quân đã được phê duyệt theo Lệnh số 1312 Hội đồng Quân sự Cách mạng Liên Xô ngày 29 tháng 5 năm 1922. Trong hầu hết các trường hợp, cấp trên đã làm ngơ trước sự "sáng tạo" này.

Vào ngày 10 tháng 3 năm 1936, theo Lệnh số 33 Bộ Dân ủy Quốc phòng Liên Xô, các phù hiệu mới đã được thành lập cho các quân nhân Lực lượng Hồng quân, số lượng đã giảm xuống còn 17. Bộ phù hiệu này thực tế tồn tại không thay đổi cho đến năm 1942 (chỉ vào ngày 31 tháng 8 năm 1936, theo Lệnh của NPO Liên Xô số 165, phù hiệu Lực lượng Đường sắt và Vận tải quân sự đã được thay thế bằng một biểu tượng khác).

Bộ binh, kỵ binh và chính trị quân sự, theo Lệnh số 33 Bộ Dân ủy Quốc phòng Liên Xô ngày 10 tháng 3 năm 1936, không có phù hiệu. Phù hiệu đặc biệt lực lượng chính trị quân sự Hồng quân là ngôi sao năm cánh màu đỏ có búa và liềm (đối với Chính ủy Tập đoàn quân bậc 1 - ngôi sao vàng không có búa liềm).

Sau đó một thời gian thiết lập thêm phù hiệu một số lực lượng khác.

👁️ 0 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
Hệ thống cấp bậc quân sự riêng biệt lực lượng lục quân, không quân và hải quân Hồng quân (1935-1940) - cấp bậc quân sự, được ban hành bởi các Nghị quyết của Ủy ban
**Đối chiếu cấp bậc quân sự** hay **So sánh quân hàm tương đương** đề cập đến sự so sánh tương đương của các hệ thống cấp bậc quân sự (hay quân hàm) của lực lượng
Cấp bậc quân đội của Liên bang Xô viết là hệ thống quân hàm được sử dụng trong quân đội Hồng quân Công nông và Quân đội Liên bang Xô viết từ năm 1935 đến
**Quân hàm Hồng quân và Hồng Hải quân từ năm 1940 đến 1943** được đặc trưng bởi những cải cách liên tục đối với các lực lượng vũ trang Liên Xô trong giai đoạn ngay
Đặc trưng giai đoạn này của Liên xô là sự lãnh đạo của **Joseph Stalin**, người đang tìm cách tái định hình xã hội Xô viết với nền kinh tế kế hoạch nhiều tham vọng,
Dưới đây là danh sách các nguyên soái và đại tướng của Lực lượng Vũ trang Liên bang Xô viết trong suốt thời gian tồn tại. Danh sách này cũng liệt kê các cấp bậc
**Lực lượng vũ trang Liên bang Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Xô viết**(tiếng Nga: _Вооружённые Силы Союза Советских Социалистических Республик_) là lực lượng vũ trang của Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Xô viết
**Thanh trừng Hồng quân Liên Xô (1937-1938)** () - thanh trừng chính trị quy mô lớn ("đàn áp") chống lại sĩ quan và nhân viên cấp cao của Hồng quân Công Nông (РККА) và Hải
**Đại tướng lục quân** (, _general armii_), tài liệu tiếng Việt thường gọi tắt là **Đại tướng**, là một cấp bậc cao cấp trong Quân đội Liên Xô, được thành lập lần đầu tiên vào
**Hệ thống cấp bậc của NKVD và MVD** là hệ thống cấp bậc đặc biệt của nhân viên thuộc các cơ quan thực thi pháp luật và an ninh quốc gia chính quyền ở Liên
**Hải quân Liên Xô** () là nhánh hải quân của Lực lượng vũ trang Liên Xô. Thường được gọi là **Hạm đội Đỏ**, Hải quân Liên Xô là lực lượng có số lượng tàu chiến
**Liên Xô** hay **Liên bang Xô viết**, tên chính thức là **Liên bang Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Xô viết**, là một cựu quốc gia nằm ở phía bắc lục địa Á-Âu, tồn tại
**Tổng cục Trại giam** (, _Glavnoe upravlenie lagerei_) còn được gọi tắt là **Gulag** (ГУЛаг) là hệ thống trại cải tạo bằng lao động, lần lượt chịu sự quản lý của Bộ Dân ủy Nội
**Nguyên soái Liên bang Xô viết** (tiếng Nga: Маршал Советского Союза - _Marshal Sovietskogo Soyuza_), thường được gọi tắt là **Nguyên soái Liên Xô**, là quân hàm tướng lĩnh cao cấp bậc nhất của các
**Bộ Dân ủy Nội vụ** (, _Narodnyy komissariat vnutrennikh del_), viết tắt **NKVD** ( ) là một cơ quan hành pháp của Liên Xô, đơn vị trực tiếp thi hành quyền lực của Đảng Cộng
nhỏ|200x200px|Tư lệnh Tập đoàn quân bậc 2 [[Yakov Ivanovich Alksnis|Yakov Alksnis.]] **_Tư lệnh Tập đoàn quân 2_** () là một cấp bậc quân sự trong Lực lượng vũ trang Liên Xô trong giai đoạn 1935
nhỏ|276x276px|[[Iona Emmanuilovich Yakir trong quân phục với cấp hiệu Tư lệnh Tập đoàn quân bậc 1 trên cổ áo.]] **_Tư lệnh Tập đoàn quân bậc 1_** () là một cấp bậc quân sự cao cấp
**Chính ủy Tập đoàn quân bậc 2** ( là một cấp bậc quân sự cao cấp của các sĩ quan chính trị trong Hồng quân và Hải quân Liên Xô. Cấp bậc này chỉ xếp
Trang cuối văn bản Hiệp ước không xâm phạm Đức – Xô ngày 26 tháng 8 năm 1939 (chụp bản xuất bản công khai năm 1946) **Hiệp ước Xô – Đức**, còn được gọi là
nhỏ|290x290px| Cấp hiệu tay áo của Chỉ huy Hạm đội bậc 2 **Chỉ huy Hạm đội bậc 2** () là cấp bậc quân sự cao cấp của Lực lượng Hải quân Hồng quân công nông
**Tổng ủy viên an ninh nhà nước** (__, thường được viết gọn thành _Генеральный комиссар госбезопасности_) là một cấp bậc đặc biệt dành cho các lãnh đạo cao cấp nhất của NKVD / NKGB của
**Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Liên Xô** (), hay Ủy ban Trung ương Đảng Cộng sản Liên Xô, gọi tắt **Trung ương Đảng Liên Xô** () là cơ quan quyền lực cao
**Chính ủy Tập đoàn quân bậc 1** () là cấp bậc quân sự cao nhất của sĩ quan chính trị trong Hồng quân và Hải quân Liên Xô. Được thành lập vào ngày 22 tháng
Quân kỳ của Quân đội Đức quốc xã**Lịch sử quân sự Đức trong Chiến tranh thế giới thứ hai** bắt đầu từ quân số 100.000 do Hòa ước Versailles hạn chế, không được quyền có
nhỏ|290x290px| Cấp hiệu tay áo của Chỉ huy Hạm đội bậc 1 **Chỉ huy Hạm đội bậc 1** () là cấp bậc quân quân sự cao cấp nhất của Hải quân Hồng quân công nông
**Quân hàm** là hệ thống cấp bậc trong một quân đội. Ở một số quốc gia, hệ thống cấp bậc này còn được áp dụng trong ngành cảnh sát hoặc một số tổ chức dân
**Kombrig** () là từ viết tắt của thuật ngữ **Chỉ huy cấp lữ đoàn** () hay **Lữ đoàn trưởng**; là một cấp bậc quân sự trong Lực lượng Vũ trang Liên Xô từ năm 1935
**Quân khu Kharkov** () là một quân khu của Đế quốc Nga, nước Nga Xô viết và Liên Xô. Trong suốt lịch sử, trụ sở quân khu nằm tại thành phố Kharkov tại phần đông
**Komdiv** () là từ viết tắt của danh xưng **Chỉ huy cấp Sư đoàn** () hay **Sư đoàn trưởng**, là cấp bậc quân sự trong Lực lượng Vũ trang Liên Xô giai đoạn từ năm
thumb|right|[[quân khu Đế quốc Nga|Các quân khu của Đế quốc Nga năm 1913]] **Quân khu Kiev** (; , viết tắt ) là một quân khu của Lục quân Đế quốc Nga và sau đó là
**Ivan Iosifovich Proskurov** (tiếng Nga: Иван Иосифович Проскуров; - 28 tháng 10 năm 1941) là một phi công và Anh hùng Liên Xô. Tuy nhiên, ông được biết đến nhiều nhất với tư cách là
**Grigory Mikhailovich Shtern** (; - 28 tháng 10 năm 1941) là một tướng lĩnh Hồng quân Liên Xô, cố vấn quân sự phe Cộng hòa trong Nội chiến Tây Ban Nha. Ông cũng phục vụ
**Leonid Ilyich Brezhnev** (tiếng Nga: Леони́д Ильи́ч Бре́жнев; phiên âm tiếng Việt: **Brê-giơ-nhép**; 19 tháng 12 năm 1906 – 10 tháng 11 năm 1982) là Tổng bí thư Ủy ban Trung ương Đảng Cộng sản
**Phương diện quân Viễn Đông** (tiếng Nga: _Дальневосточный фронт_) là một tổ chức tác chiến chiến lược của Hồng quân Liên Xô hoạt động ở khu vực Viễn Đông Liên Xô trong thời kỳ Thế
**Chiến tranh thế giới thứ hai** (còn được nhắc đến với các tên gọi **Đệ nhị thế chiến**, **Thế chiến II** hay **Đại chiến thế giới lần thứ hai**) là một cuộc chiến tranh thế
**Cuộc xâm lược Ba Lan 1939** – được người Ba Lan gọi là **Chiến dịch tháng Chín** (_Kampania wrześniowa_), **Chiến tranh vệ quốc năm 1939** (_Wojna obronna 1939 roku_); người Đức gọi là **Chiến dịch
**Yevgeny Savvich Ptukhin** (__; 3 tháng 3 năm 1902 - 23 tháng 2 năm 1942) là một sĩ quan chỉ huy Không quân Liên Xô, tham gia trong Nội chiến Nga, Nội chiến Tây Ban
**Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Xô viết Liên bang Nga** ( ) hoặc gọi tắt là **Nga Xô viết** là nước cộng hòa Xô viết lớn nhất và đông dân nhất trong số mười
Thượng tướng **Nikandr Evlampyevich Chibisov** (; 5 tháng 11 (lịch cũ 24 tháng 10) năm 1892 tại stanitsa Romanovskaya (tỉnh Rostov) - 20 tháng 9 năm 1959 tại Minsk) là một tướng lĩnh quân sự
**Cáp Nhĩ Tân** là một địa cấp thị và thủ phủ của tỉnh Hắc Long Giang ở phía Đông Bắc Trung Quốc. Cáp Nhĩ Tân là thành phố đông dân thứ 8 của Trung Quốc
**Mikhail Artemievich Parsegov** (tiếng Nga: _Михаил Артемьевич Парсегов_; 15 tháng 6 năm 1899 - 26 tháng 4 năm 1964), tên gốc tiếng Armenia là **Mikael Barseghyan** (Միքայել Բարսեղյան), là một chỉ huy quân sự Liên
**Chiến dịch Kharkov (1941)**, theo cách gọi của Wilhelm Keitel là **Trận Kharkov lần thứ nhất**, còn theo lịch sử của Nga là **Chiến dịch phòng thủ Sumy-Kharkov**, diễn ra từ ngày 1 tháng 10
**Ivan Ivanovich Maslennikov** (; 16 tháng 9 năm 1900 - 16 tháng 4 năm 1954) là một tướng lĩnh quân đội Liên Xô và chỉ huy NKVD cấp Tập đoàn quân và Phương diện quân
**Dmitry Timofeyevich Kozlov** (; 4 tháng 11 (lịch cũ: 23 tháng 10) năm 1896, Razgulyayka, nay thuộc Nizhny Novgorod Oblast - 6 tháng 12 năm 1967, Minsk) là một chỉ huy quân sự Liên Xô,
**Pyotr Semyonovich Klyonov** (; 1894-1942) là một tướng lĩnh Hồng quân Liên Xô trong thời kỳ đầu Chiến tranh Vệ quốc vĩ đại, hàm Trung tướng (1940). ## Tiểu sử Klyonov sinh ngày 4 tháng
**Lục quân** (, ) là thành phần lực lượng trên bộ của _Wehrmacht_, lực lượng vũ trang chính quy của Đức, từ năm 1935 cho đến khi bị tan rã vào năm 1945 và sau
**Đại thanh trừng** là một loạt các biện pháp trấn áp tại Liên Xô kéo dài từ mùa thu năm 1936 cho tới đầu năm 1938. Sự kiện này liên quan tới một cuộc thanh
**Yakov Timofeyevich Cherevichenko** (; 12 tháng 10 năm 1894 - 4 tháng 7 năm 1976) là một tướng lĩnh Liên Xô trong Chiến tranh Vệ quốc vĩ đại. ## Tiểu sử ### Thế chiến thứ
**Sergey Sergeyevich Varentsov** (; , Dmitrov, tỉnh Moskva - 1 tháng 3 năm 1971, Moskva) là một tướng lĩnh cao cấp của quân đội Liên Xô, Chánh nguyên soái Pháo binh (6 tháng 5 năm
**DShK** (tiếng Nga: **Д**егтярёва-**Ш**пагина **К**рупнокалиберный, phiên âm La tinh: _Degtyaryova-Shpagina Krupnokaliberny_) là một trong những mẫu súng máy hạng nặng sử dụng đạn 12,7x108mm nổi tiếng nhất của Liên Xô. Nó được nhìn thấy sử