✨Quân hàm quân đội Liên Xô 1940-1943

Quân hàm quân đội Liên Xô 1940-1943

Quân hàm Hồng quân và Hồng Hải quân từ năm 1940 đến 1943 được đặc trưng bởi những cải cách liên tục đối với các lực lượng vũ trang Liên Xô trong giai đoạn ngay trước Chiến dịch Barbarossa và cuộc chiến vệ quốc vĩ đại sau đó. Sự nghi ngờ Liên Xô về quân hàm như một hệ thống tư sản vẫn còn, nhưng kinh nghiệm ngày càng tăng lực lượng Liên Xô và sự gia tăng lớn quân nhân đều đóng vai trò quan trọng, bao gồm việc tạo ra một số cấp bậc sĩ quan mới và ban hành lại các cấp bậc và xếp hạng hạ sĩ quan.

Những thay đổi quân hàm và cấp hiệu

Bộ Tư lệnh Tối cao

Tướng và Đô đốc

Các cấp bậc Tướng và Đô đốc trong Hồng quân được ban hành vào ngày 7 tháng 5 năm 1940 bởi các Nghị định Đoàn Chủ tịch Xô viết Tối cao Liên Xô "Về việc thiết lập các cấp bậc quân hàm chỉ huy cấp cao Hồng quân" và "Về việc thành lập các cấp bậc quân hàm chỉ huy cấp cao Hồng Hải quân".

Vào ngày 8 và 11 tháng 5 năm 1940, các Lệnh Đoàn chủ tịch Xô viết Tối cao Liên Xô đã được công bố bằng các Lệnh Bộ Dân ủy Quốc phòng Liên Xô số 112 và Bộ Dân ủy Hải quân Liên Xô số 233 tương ứng.

Theo các lệnh này, các cấp bậc quân sự các sĩ quan chỉ huy cấp cao Hồng quân và Hồng Hải quân Liên Xô đã được ban hành:

Các bài viết trên các báo tháng 5 và tháng 6 năm 1940 đã nhấn mạnh tầm quan trọng và quyền hạn cấp tướng và đô đốc Liên Xô, ghi nhận trách nhiệm và vai trò của những người mang cấp bậc này trước đất nước và lịch sử:

Các tướng chuẩn bị chiến đấu và lãnh đạo lực lượng vũ trang của nhân dân ra mặt trận trận. Trên chiến trường, họ thực hiện học thuyết quân sự Liên Xô.

Sinh mạng hàng nghìn, hàng vạn chiến sĩ được giao cho những sĩ quan tối cao. Những người chỉ đạo trận chiến và vận hành tốt nhất các lực lượng và trang thiết bị sẵn có. Những người chịu trách nhiệm về kết quả trận chiến, về sự thất bại quyết định của kẻ thù. Một khối nhân dân khổng lồ, toàn bộ cơ quan mạnh mẽ chiến tranh hiện đại phải kiên quyết tuân theo ý chí người sĩ quan tối cao, thực hiện linh hoạt chính xác các mệnh lệnh và quyết định của họ.

Vào ngày 06/04/1940, Hội đồng Dân ủy Liên Xô, theo sự trình bày ủy ban chính phủ được thành lập đặc biệt, đã phong quân hàm cấp tướng cho 556 sĩ quan đứng đầu Hồng quân và 116 chỉ huy đứng đầu Hồng Hải quân.

Các đại tướng đầu tiên Quân đội Liên Xô là Georgy Konstantinovich Zhukov, Kirill Afanasyevich Meretskov và Ivan Vladimirovich Tyulenev; trước khi chiến tranh bắt đầu, bổ sung lực lượng “bảo vệ biên giới Liên Xô” gồm Iosif Rodionovich Apanasenko (Tư lệnh Phương diện quân Viễn Đông) và Dmitry Grigoryevich Pavlov (Tư lệnh Quân khu đặc biệt phía Tây) và một số Thượng tướng, Đô đốc khác. Tuy nhiên, trong vài tháng đầu tiên, các tướng lĩnh mới được phong quân hàm vẫn tiếp tục mặc đồng phục với cấp hiệu cũ. Cấp hiệu mới đã được phê chuẩn cùng với đồng phục mới các tướng lĩnh vào ngày 12-13 tháng 7 (Nghị quyết Bộ Chính trị và Hội đồng Dân ủy, Lệnh NKO 212). Vào tháng 8 năm 1941, sau khi chiến tranh nổ ra, cấp hiệu được thay thế bằng vải kaki, và những ngôi sao vàng được thay thế bằng những ngôi sao sơn màu xanh lá cây.

Bộ chỉ huy

Vào ngày 1 tháng 9 năm 1939, Đoàn chủ tịch Xô viết Tối cao Liên Xô đã thông qua Luật nhiệm vụ quân sự và công tác quân sự. Luật đã thay đổi hệ thống cấp bậc quân hàm chỉ huy và chính trị viên, thiết lập các cấp bậc như Trung tá (подполковник) và Chính ủy tiểu đoàn cấp cao (старшего батальонного комиссара). Đây là lý do đầu tiên để thay đổi hệ thống cấp hiệu hiện có, lý do thứ hai là kết quả cuộc chiến với Phần Lan, cho thấy sự cần thiết phải tăng quyền hạn bộ chỉ huy và làm cho hình ảnh sĩ qyab chỉ huy được phân biệt đặc biệt với các sĩ quan khác.

Vào ngày 25 tháng 7 năm 1940, Bộ Chính trị đã xem xét vấn đề cấp hiệu mới. Theo quyết định Bộ Chính trị vào cùng ngày, Nghị định Hội đồng Dân ủy Liên Xô đã được thông qua, và vào ngày 26 tháng 7 - Lệnh Ủy viên Nhân dân Bộ Dân ủy Quốc phòng Liên Xô đã được ban hành. Theo các tài liệu này:

  • cấp hiệu trên tay áo mới được ban hành với chữ V đỏ và vàng kết hợp với nhau;
  • cấp hiệu đeo vai sĩ quan chỉ huy được làm bằng chỉ vàng;
  • phù hiệu các quân binh chủng trên cấp hiệu quân nhân chính trị là bắt buộc;
  • ban hành phù hiệu cho các sĩ quan chính trị (ngôi sao năm cánh) không thay đổi.

Sự gia tăng mạnh về quy mô các lực lượng vũ trang đã dẫn đến sự gia tăng về số lượng trong bộ chỉ huy Hồng quân và quân đội NKVD. Kết quả là, thiếu nguyên liệu vàng để mạ vàng 2% cho cấp hiệu và cấp hiệu tay áo. Vào đầu năm 1941, được phép mạ vàng 1% và cũng được sử dụng chỉ rẻ hơn từ lụa mạ vàng.

Vào tháng 1 năm 1941, trong thời chiến, các nhân viên chỉ huy được trang bị một chiếc áo vét-tông ca-pốt có cấp hiệu bằng vải kaki, phù hiệu bằng đồng quân binh chủng, "hình khối" và "tà vẹt" màu, cũng như cấp hiệu trên tay áo.

Vào tháng 8 năm 1941, tất cả các cấp hiệu có màu đều bị bãi bỏ trong quân đội. Kể từ mùa thu năm 1941, tất cả các hình "tà vẹt", "khối" và "thoi" có màu xanh lục đều được sản xuất tập trung, tuy nhiên, cấp hiệu tạm thời tự chế thường được sử dụng, bao gồm các phương pháp nhuộm màu nền cấp hiệu và phù hiệu quân binh chủng.

Cấp hiệu ở cổ tay áo không thay đổi.

Cấp hiệu

Cấp hiệu sĩ quan và hạ sĩ quan Hồng quân và Hồng Hải quân đầu năm 1941

Lục quân và Không quân

Hồng Hải quân

Sĩ quan tham mưu (ngoại trừ chính trị quân sự), sĩ quan Cao cấp Binh chủng Hồng quân và Hồng Hải quân, và Kỹ sư Hải quân Liên Xô vào đầu năm 1941

Các quân nhân thuộc sĩ quan tham mưu quân sự phục vụ cơ cấu kinh tế-quân sự cấp cao Hồng quân và Hồng Hải quân, cũng như các kỹ sư phục vụ tàu biển Hải quân, sớm hơn một chút - vào ngày 7 tháng 5 năm 1940, đã được phân loại là sĩ quan tham mưu, theo đó các cấp bậc quân sự mới tương tự như các cấp bậc quân sự khác của sĩ quan tham mưu đã được thiết lập. Những quân nhân có quân hàm từ năm 1935 đến năm 1940 phải được chứng nhận cấp quân hàm mới; những người không được chứng nhận vì lý do này hay lý do khác bị loại khỏi hàng ngũ quân đội trước đây. Các nhân viên kỹ thuật Lực lượng Duyên hải vẫn giữ các cấp bậc quân sự cũ.

Phù hiệu quân nhân các đơn vị Hải quân

Vào ngày 9 tháng 4 năm 1941, Nghị định Hội đồng Dân ủy Liên Xô số 855-364ss dành cho quân nhân Hàng không Hải quân và Phòng thủ Duyên hải Hải quân đã thiết lập quân phục với phù hiệu phù hợp. Để phân biệt với các quân nhân Hồng quân, quân nhân của Hải quân, theo cùng một nghị định đã thiết lập phù hiệu đặc biệt theo binh chủng giống với phù hiệu các binh chủng Hồng quân đang áp dụng, nhưng gắn thêm mỏ neo. Mỗi phù hiệu, như trong Hồng quân, được chia thành hai phiên bản - đồng thau (dành cho quân nhân và hạ sĩ quan) và vàng (dành cho sĩ quan). Vào ngày 15 tháng 4 năm 1941, lệnh Bộ Dân ủy Hải quân số 0071 công bố sắc lệnh của Hội đồng Dân ủy Liên Xô, phạm vi các binh chủng, quân nhân nhận quân phục, được mở rộng để bao gồm kỹ thuật Phòng thủ Duyên hải và binh chủng thú y, cũng như binh chủng hậu cần. Vào ngày 23 tháng 5, Ủy viên Nhân dân Bộ Dân ủy Hải quân đã phê duyệt danh sách tiêu chuẩn của các đơn vị Hải quân Liên Xô (Phụ lục Lệnh số 00107) với sự phân chia theo quân phục. Các đơn vị sau đã nhận quân phục: thủy quân lục chiến, súng trường, súng máy, công binh, đặc công, kỹ thuật, hóa học, xe tăng, ô tô, kỹ thuật-xây dựng, xây dựng và đường sắt.

Tình trạng này chính thức được duy trì cho đến tháng 3 năm 1943, mặc dù vào tháng 8-tháng 9 năm 1941, một số đơn vị Phòng thủ Duyên hải và Hàng không Hải quân đã được chuyển lại quân phục hải quân.

Thay đổi phù hiệu năm 1941

nhỏ|Các lựa chọn cấp hiệu chiến trường các tướng lĩnh Hồng quân 1941-1942. Vào tháng 8 năm 1941, theo lệnh Ủy viên Nhân dân Bộ Dân ủy Quốc phòng Liên Xô (lệnh NPO số 253 ngày 1 tháng 8 năm 1941), việc mặc quân phục và phù hiệu tất cả các yếu tố màu sắc đã bị hủy bỏ trong quân đội đang hoạt động và các đơn vị hành quân. Tất cả các cấp hiệu và phù hiệu quân binh chủng được phủ một lớp sơn bảo vệ hoặc thay bằng màu xanh lá cây đậm. Năm 1942, các phù hiệu đơn giản hóa xuất hiện - không có cạnh và nếp gấp. Quân phục hành quân dã chiến không đề cập đến việc đeo bất kỳ cấp hiệu tay áo nào, mặc dù các kế hoạch tương ứng đã được phát triển.

Lệnh này thường bị vi phạm hoặc thậm chí lúc đầu không được tuân thủ, theo quy định, do các vấn đề về nguồn cung và liên quan đến thời gian mặc đồng phục chưa hết hạn. Ngoài ra, trong điều kiện chiến đấu, việc mặc kết hợp các yếu tố màu sắc và bảo vệ cấp hiệu và quân phục đã phổ biến.

Thay đổi cấp hiệu năm 1942-1943

1942

Trong thời gian 1942-1943, Bộ Dân ủy Quốc phòng tiếp tục xây dựng các cấp bậc quân sự sĩ quan cấp cao Hồng quân và Hồng Hải quân Liên Xô. Những thay đổi được quy định bởi thực tế là các cấp bậc quân sự sĩ quan được đặc trưng bởi nhiều vị trí và khác biệt rõ rệt không chỉ với các cấp bậc sĩ quan chỉ huy, mà còn khác biệt đáng kể đối với các quân binh chủng khác nhau.

Các quyết định Bộ Dân ủy Quốc phòng Liên Xô (NCO) về vấn đề này là:

  • Nghị định số 1180s ngày 22/01/1942 "Các vấn đề Lực lượng Không quân Hồng quân" đã đưa các cấp bậc quân sự sau đây vào biên chế kỹ thuật quân sự Lực lượng Không quân: trung úy kỹ thuật, thượng úy kỹ thuật, đại úy kỹ thuật, thiếu tá kỹ thuật, trung tá kỹ thuật, thượng tá kỹ thuật, thiếu tướng kỹ thuật không quân, trung tướng kỹ thuật không quân, thượng tướng kỹ thuật không quân;
  • Nghị định Ủy ban Quốc phòng Nhà nước (GKO) số 1528 ngày 04/04/1942 "Về việc giới thiệu các cấp bậc quân sự riêng biệt cho các quân nhân kỹ thuật lực lượng không quân hải quân" và lệnh Bộ Dân ủy Hải quân (NK) ngày 04/04/1942, các cấp bậc tương tự đã được ban hành trong Hải quân Liên Xô.
  • Vào tháng 3, các quyết định tương tự đã được đưa ra liên quan đến cấp bậc quân sự các nhân viên kỹ thuật: Nghị định của Liên Xô GKO số 1381 ngày 03/03/1942 "Về việc giới thiệu các cấp bậc quân sự riêng biệt cho các quân nhân kỹ thuật pháo binh Hồng quân" và Lệnh của NCO Liên Xô số 68 ngày 04/03/1942 ban hành các cấp bậc sau đây quân nhân kỹ thuật pháo binh: trung úy kỹ thuật, thượng úy kỹ thuật, đại úy kỹ thuật, thiếu tá kỹ thuật, trung tá kỹ thuật, thượng tá kỹ thuật, thiếu tướng kỹ thuật pháo binh, trung tướng kỹ thuật pháo binh, thượng tướng kỹ thuật pháo binh. Nghị quyết GKO Liên Xô số 1408 ngày 03/07/1942 "Về việc giới thiệu các cấp bậc quân sự riêng biệt cho các quân nhân kỹ thuật thiết giáp Hồng quân" và Lệnh NCO Liên Xô số 71 ngày 03/08/1942 ban hành các cấp bậc sau đây quân nhân kỹ thuật lực lượng tăng thiết giáp: trung úy kỹ thuật, thượng úy kỹ thuật, đại úy kỹ thuật, thiếu tá kỹ thuật, trung tá kỹ thuật, thượng tá kỹ thuật, thiếu tướng kỹ thuật thiết giáp, trung tướng kỹ thuật thiết giáp, thượng tướng kỹ thuật thiết giáp. ** Nghị định GKO số 1494 ngày 26/03/1942 ban hành theo sau lệnh NCO số 93 ngày 30/03/1942 tuyên bố các cấp bậc sau đây cho các sĩ quan chỉ huy cao cấp và trung cấp hậu cần: trung úy hậu cần, thượng úy hậu cần, đại úy hậu cần, thiếu tá hậu cần, trung tá hậu cần, thượng tá hậu cần.
  • Lệnh NK Hải quân số 55 ngày 6 tháng 4 năm 1942 ban hành theo Nghị định GKO số 1528 ngày 4 tháng 4 năm 1942, ban hành các cấp bậc quân sự sau cho quân nhân kỹ thuật Lực lượng Hàng không Hải quân: trung úy kỹ thuật, thượng úy kỹ thuật, đại úy kỹ thuật, thiếu tá kỹ thuật, trung tá kỹ thuật, thượng tá kỹ thuật, thiếu tướng kỹ thuật Hàng không, trung tướng kỹ thuật Hàng không, thượng tướng kỹ thuật Hàng không.
  • Nghị định GKO só 1912 ngày 17/06/1942 "Về việc giới thiệu các cấp bậc quân sự riêng biệt cho các quân nhân kỹ thuật Phòng thủ Duyên hải Hải quân Liên Xô" và Lệnh Bộ Dân ủy Hải quân ngày 27/06/1942, các cấp bậc sau đây đã được ban hành: trung úy kỹ thuật, thượng úy kỹ thuật, đại úy kỹ thuật, thiếu tá kỹ thuật, trung tá kỹ thuật, thượng tá kỹ thuật, thiếu tướng kỹ thuật Phòng thủ Duyên hải, trung tướng kỹ thuật Phòng thủ Duyên hải, thượng tướng kỹ thuật Phòng thủ Duyên hải.
  • Ý tưởng phân biệt quân hàm đối với những người có trình độ học vấn kỹ thuật cao cấp và trung cấp so với các cấp bậc hiện có (thiếu úy kỹ thuật và trung úy kỹ thuật) các cấp bậc quân sự mới cho quân nhân chỉ huy pháo binh với giáo dục kỹ thuật trung cấp: Nghị định GKO số 2303 ngày 13/09/1942 "Về việc giới thiệu các cấp bậc riêng biệt sĩ quan pháo binh Hồng quân, có trình độ học vấn kỹ thuật cao" và Lệnh NCO số 278 ngày 14/09/1942: đại úy kỹ sư pháo binh, thiếu tá kỹ sư pháo binh, trung tá kỹ sư pháo binh và thượng tá kỹ sư pháo binh.
  • Nghị định Đoàn chủ tịch Xô viết tối cao Liên Xô ngày 10/9/1942 "Về việc thiết lập sự thống nhất hoàn toàn về chỉ huy và bãi bỏ chế độ chính ủy trong Hồng quân" đã công bố lệnh NKO số 307 ngày 10/9/1942 hủy bỏ hàng ngũ cán bộ chính trị hiện có. Chế độ chính ủy được thay thế bằng cơ quan phó tư lệnh phụ trách các vấn đề chính trị. Nó cũng được cho là: Các hội đồng quân sự Phương diện quân và Tập đoàn quân trong vòng một tháng để chỉ định cấp bậc chỉ huy quân sự cho các chính trị viên trong giới hạn các quyền được trao cho họ; Hội đồng quân sự Phương diện quân trình Bộ Dân ủy Quốc phòng chậm nhất vào ngày 15 tháng 11 năm 1942 thông qua Tổng cục Chính trị Hồng quân tài liệu chứng thực để phong quân hàm chỉ huy cho cán bộ chính trị, bắt đầu từ chính ủy cấp tiểu đoàn trở lên.

    1943

  • Theo lệnh NKO số 10, nghị định GKO số 2685 từ 02/04/1943 "Về việc giới thiệu cấp bậc quân sự riêng biệt cho các quân nhân quân y và thú y Hồng quân" đã được công bố, số GOKO-2822 "Về việc giới thiệu các cấp bậc quân sự riêng biệt cho các quân nhân kỹ thuật, quân pháp và hành chính Hồng quân".
  • Ngày 14/02/1943, ban hành GOKO số 2890 "Về việc thiết lập các cấp bậc quân sự riêng biệt cho các quân nhân hậu cần, y tế, thú y, hành chính và quân pháp Hồng Hải quân Liên Xô" trong Hải quân Liên Xô.
  • Lệnh NKO số 55 ngày 02/06/1943 đã công bố quyết định theo Nghị định GKO số 2822 ngày 02/04/1943, thành lập các cấp bậc sau đây cho các quân nhân kỹ thuật trung cấp, thượng cấp và cao cấp các Binh chủng Thông tin, công binh, Phòng thủ hóa học, Bản đồ, Đường sắt của Hồng quân: trung úy kỹ sư, thượng úy kỹ sư, đại úy kỹ sư, thiếu tá kỹ sư, trung tá kỹ sư, thượng tá kỹ sư, thiếu tướng kỹ sư, trung tướng kỹ sư, thượng tướng kỹ sư.
    và đối với các quân nhân hành chính và quân pháp Hồng quân, các cấp bậc: trung úy quân pháp, thượng úy quân pháp, đại úy quân pháp, thiếu tá quân pháp, trung tá quân pháp, thượng tá quân pháp, thiếu tướng quân pháp, trung tướng quân pháp, thượng tướng quân pháp; trung úy hành chính, thượng úy hành chính, đại úy hành chính, thiếu tá hành chính, trung tá hành chính, thượng tá hành chính, thiếu tướng hành chính, trung tướng hành chính, thượng tướng hành chính.
  • Lệnh NK ngày 27/02/1943, Nghị định GKO số 2890 ngày 14/02/1943 đã được công bố, quy định các cấp bậc quân sự quân nhân hậu cần, y tế, thú y, hành chính và quân pháp Hồng Hải quân Liên Xô.

Bảng tương đương cấp bậc các sĩ quan tham mưu

Cận vệ Liên Xô

Theo lệnh số 38 Ủy viên Nhân dân Bộ Dân ủy Quốc phòng ngày 18/09/1941, bốn sư đoàn - 100, 127, 153 và 161 được chuyển thành các sư đoàn bộ binh cận vệ 1, 2, 3 và 4.

Theo Sắc lệnh Đoàn Chủ tịch Xô viết Tối cao Liên Xô ngày 21/5/1942 "Về việc ban hành cấp hiệu quân hàm quân nhân các đơn vị Cận vệ Hồng quân và Hồng Hải quân" từ "Cận vệ" được thêm vào trước cấp bậc quân sự các quân nhân đơn vị Hồng quân; quân nhân Cận vệ Hải quân thêm vào - "Cận vệ Thủy thủ", đối với các đơn vị kỵ binh Cận vệ Cossack - "Cận vệ Cossack".

Thực hiện các biện pháp chính trong năm 1942-1943 để cải thiện cấp bậc quân sự, quá trình thành công chiến dịch mùa đông đã đề xuất việc giới thiệu cấp hiệu đặc biệt cho các đơn vị đặc biệt xuất sắc, cận vệ. Ý định này đã không thành hiện thực mà thay vào đó, huy hiệu "Cận vệ" được ban hành.

👁️ 0 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
Cấp bậc quân đội của Liên bang Xô viết là hệ thống quân hàm được sử dụng trong quân đội Hồng quân Công nông và Quân đội Liên bang Xô viết từ năm 1935 đến
**Lực lượng vũ trang Liên bang Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Xô viết**(tiếng Nga: _Вооружённые Силы Союза Советских Социалистических Республик_) là lực lượng vũ trang của Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Xô viết
**Hồng Quân** là cách gọi vắn tắt của **Hồng quân Công Nông** (tiếng Nga: Рабоче-крестьянская Красная армия; dạng ký tự Latin: _Raboche-krest'yanskaya Krasnaya armiya_, viết tắt: RKKA), tên gọi chính thức của Lục quân và
**Quân hàm** là hệ thống cấp bậc trong một quân đội. Ở một số quốc gia, hệ thống cấp bậc này còn được áp dụng trong ngành cảnh sát hoặc một số tổ chức dân
**Chiến tranh Xô–Đức 1941–1945** là một cuộc chiến giữa Liên Xô và Đức Quốc xã trong Thế chiến thứ hai, trải dài khắp Bắc, Nam và Đông Âu từ ngày 22 tháng 6 năm 1941
**Quân hàm Hồng quân và Hồng Hải quân từ năm 1940 đến 1943** được đặc trưng bởi những cải cách liên tục đối với các lực lượng vũ trang Liên Xô trong giai đoạn ngay
**Bộ Dân ủy Nội vụ** (, _Narodnyy komissariat vnutrennikh del_), viết tắt **NKVD** ( ) là một cơ quan hành pháp của Liên Xô, đơn vị trực tiếp thi hành quyền lực của Đảng Cộng
**Đại tướng lục quân** (, _general armii_), tài liệu tiếng Việt thường gọi tắt là **Đại tướng**, là một cấp bậc cao cấp trong Quân đội Liên Xô, được thành lập lần đầu tiên vào
Dưới đây là danh sách các nguyên soái và đại tướng của Lực lượng Vũ trang Liên bang Xô viết trong suốt thời gian tồn tại. Danh sách này cũng liệt kê các cấp bậc
Quân kỳ của Quân đội Đức quốc xã**Lịch sử quân sự Đức trong Chiến tranh thế giới thứ hai** bắt đầu từ quân số 100.000 do Hòa ước Versailles hạn chế, không được quyền có
**Tập đoàn quân đoàn số 6** (tiếng Đức: _Armeeoberkommando 6_, viết tắt **6. Armee**/**AOK 6**) là một đại đơn vị của Quân đội Đức Quốc xã. Từng là một trong những đại đơn vị thiện
nhỏ|Lính Úc dùng súng máy tại trận địa gần [[Wewak tháng 6 năm 1945]] Sau khi Đức Quốc xã xâm lăng Ba Lan, chính phủ Úc tuyên chiến với Đức ngày 3 tháng 9 năm
Một hố chôn tập thể tại cánh rừng Katyn nơi hàng nghìn sĩ quan, học giả và tù binh chiến tranh bị giết trong vụ [[Thảm sát Katyn (1940)]] **Tội ác chiến tranh gây ra
Phi cơ [[B-17 Flying Fortress đang bay trên bầu trời châu Âu]] Các giới chức quân sự quan trọng của Mỹ tại châu Âu năm 1945 **Lịch sử quân sự Hoa Kỳ trong Chiến tranh
**Cụm tập đoàn quân Trung tâm** (tiếng Đức: _Heeresgruppe Mitte_) là tên của tổ chức tác chiến chiến lược cấp cụm tập đoàn quân của Đức Quốc xã tại Mặt trận phía Đông trong Thế
**Liên Xô** hay **Liên bang Xô viết**, tên chính thức là **Liên bang Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Xô viết**, là một cựu quốc gia nằm ở phía bắc lục địa Á-Âu, tồn tại
**Nguyên soái Liên bang Xô viết** (tiếng Nga: Маршал Советского Союза - _Marshal Sovietskogo Soyuza_), thường được gọi tắt là **Nguyên soái Liên Xô**, là quân hàm tướng lĩnh cao cấp bậc nhất của các
nhỏ|200x200px|Tư lệnh Tập đoàn quân bậc 2 [[Yakov Ivanovich Alksnis|Yakov Alksnis.]] **_Tư lệnh Tập đoàn quân 2_** () là một cấp bậc quân sự trong Lực lượng vũ trang Liên Xô trong giai đoạn 1935
**Phương diện quân Sông Don** (tiếng Nga: _Донской фронт_) là một tổ chức tác chiến chiến lược của Hồng quân Liên Xô trong Thế chiến thứ hai. ## Lịch sử Phương diện quân Sông Don
nhỏ|276x276px|[[Iona Emmanuilovich Yakir trong quân phục với cấp hiệu Tư lệnh Tập đoàn quân bậc 1 trên cổ áo.]] **_Tư lệnh Tập đoàn quân bậc 1_** () là một cấp bậc quân sự cao cấp
**Hệ thống cấp bậc của NKVD và MVD** là hệ thống cấp bậc đặc biệt của nhân viên thuộc các cơ quan thực thi pháp luật và an ninh quốc gia chính quyền ở Liên
**Phương diện quân Viễn Đông** (tiếng Nga: _Дальневосточный фронт_) là một tổ chức tác chiến chiến lược của Hồng quân Liên Xô hoạt động ở khu vực Viễn Đông Liên Xô trong thời kỳ Thế
**Quản trị vận hành** là một lĩnh vực quản lý liên quan đến việc thiết kế và kiểm soát quá trình sản xuất và thiết kế lại hoạt động kinh doanh trong sản xuất hàng
**Hermann Hoth** (1885-1971) là một Đại tướng Lục quân Đức trong Chiến tranh thế giới thứ hai. Ông là một trong những chỉ huy hàng đầu của binh chủng Tăng-Thiết giáp Đức, đã dẫn dắt
**Chiến tranh thế giới thứ hai** (còn được nhắc đến với các tên gọi **Đệ nhị thế chiến**, **Thế chiến II** hay **Đại chiến thế giới lần thứ hai**) là một cuộc chiến tranh thế
**Chiến tranh Trung – Nhật** (1937–1945) là một cuộc xung đột quân sự giữa Trung Hoa Dân Quốc và Đế quốc Nhật Bản. Hai thế lực đã chiến đấu với nhau ở vùng biên giới
Đế quốc Nhật Bản. Cho tới trước khi [[Chiến tranh thế giới thứ hai kết thúc, thuộc địa của Nhật tại vùng Đông Á đã tăng gấp gần **5 lần** diện tích quốc gia]] là
thumb|right|upright=1.35|[[Trận Little Bighorn được biết đến với cái tên Cuộc tử thủ của Custer]] Thảm họa quân sự là một bên thất bại trong trận chiến hoặc chiến tranh dẫn đến việc bên thua cuộc
**Yakovlev Yak-9** là máy bay tiêm kích một chỗ được Liên Xô sử dụng trong Chiến tranh thế giới II. Đây là một trong số những dòng máy bay chiến đấu nổi tiếng của Liên
Ngày **20 tháng 10** là ngày thứ 293 (294 trong năm nhuận) trong lịch Gregory. Còn 72 ngày trong năm. ## Sự kiện * 1740 – Maria Theresa lên ngôi ở Áo. Pháp, Phổ, Bavaria
nhỏ|Vladimir Konstantinovich Konovalov **Vladimir Konstantinovich Konovalov** (tiếng Nga: _Владимир Константинович Коновалов_, 5 tháng 12 [lịch Nga cũ: 22 tháng 11] năm 1911 – 29 tháng 11 năm 1967]) là một chỉ huy nổi bật của
**Rudolf Franz Ferdinand Höss** (hay **Höß**, **Hoeß** hoặc **Hoess**) (25 tháng 11 năm 1901 – 16 tháng 04 năm 1947) là một quân nhân phục vụ Quân đội Đức Quốc Xã thuộc đơn vị SS-Obersturmbannführer
**Georgy Konstantinovich Zhukov** (; , 1 tháng 12 năm 1896 – 18 tháng 6 năm 1974) là một sĩ quan cấp tướng và là Nguyên soái Liên Xô. Ông cũng từng là Tổng Tham mưu
**Erich von Manstein** tên đầy đủ là **Fritz Erich Georg Eduard von Lewinski** (24 tháng 11 năm 1887 – 10 tháng 7 năm 1973) là một chỉ huy cấp cao của quân đội Đức thời
**Lớp tàu sân bay _Graf Zeppelin**_ là hai tàu sân bay của Hải quân Đức được đặt lườn vào giữa những năm 1930 như một phần của Kế hoạch Z nhằm tái vũ trang. Bốn
**Trại tập trung Auschwitz** ( ) là một mạng lưới các trại tập trung và trại hủy diệt do Đức Quốc Xã dựng lên tại vùng lãnh thổ Ba Lan bị nước này thôn tính
**Sergey Sergeyevich Varentsov** (; , Dmitrov, tỉnh Moskva - 1 tháng 3 năm 1971, Moskva) là một tướng lĩnh cao cấp của quân đội Liên Xô, Chánh nguyên soái Pháo binh (6 tháng 5 năm
**Heinrich Kurt Alfons Willy Eberbach** (24 tháng 11 năm 1895 – 13 tháng 7 năm 1992) là Thượng tướng Thiết giáp quân đội Đức thời Chiến tranh thế giới thứ hai. Ông là một cộng
**Cuộc bao vây Leningrad** là cuộc phong tỏa quân sự của quân đội Đức Quốc xã đối với thành phố Leningrad (hiện nay là Sankt-Peterburg), đồng thời là cuộc phòng thủ dài ngày nhất trong
**_Schutzstaffel_** (**SS**; cách điệu hóa bằng chữ Rune Armanen là