✨Schutzstaffel
Schutzstaffel (SS; cách điệu hóa bằng chữ Rune Armanen là ᛋᛋ; , nghĩa "Đội phòng vệ") là một tổ chức bán quân sự trực thuộc Đảng Quốc xã (NSDAP) dưới trướng Adolf Hitler, hoạt động tại Đức dưới thời Cộng hòa Weimar và Đệ Tam Đế chế cũng như trên khắp các vùng lãnh thổ châu Âu bị Đức chiếm đóng trong chiến tranh thế giới thứ hai. Khởi nguyên của SS là một đơn vị cảnh vệ nhỏ mang tên Saal-Schutz (An ninh hội trường) gồm các tình nguyện viên thực hiện công tác giữ gìn an ninh cho các cuộc họp đảng ở München. Năm 1925, Heinrich Himmler gia nhập đơn vị mà khi ấy đã được cải tổ và đổi tên thành Schutzstaffel. Dưới sự lãnh đạo của Himmler, SS phát triển từ một đội hình bán quân sự nhỏ thành một trong những tổ chức thế lực nhất tại Đức Quốc Xã. Kể từ ngày đầu Đảng Quốc xã lên nắm quyền cho đến khi sụp đổ vào năm 1945, SS là cơ quan quan trọng nhất về an ninh, giám sát và khủng bố ở Đức cũng như tại các vùng đất ở châu Âu bị nước này chiếm đóng.
Schutzstaffel được cấu thành từ hai nhóm chính là Allgemeine SS (SS Tổng quát) và Waffen-SS (SS Vũ trang). Allgemeine SS đảm nhiệm thực thi chính sách chủng tộc của Đức Quốc Xã và giữ gìn trật tự chung, còn Waffen-SS bao hàm những đơn vị chiến đấu trong quân đội Đức Quốc Xã. Bộ phận thứ ba của SS là SS-Totenkopfverbände (SS-TV; đơn vị Đầu lâu) điều hành các trại tập trung và trại hành quyết. Các phân nhóm bổ sung của SS bao gồm Gestapo và Sicherheitsdienst (SD) đảm trách truy lùng những kẻ thù thực sự và tiềm ẩn của nhà nước, dập tắt mọi hành vi chống đối, giám sát lòng thành của nhân dân với ý thức hệ cũng như cung cấp thông tin tình báo trong và ngoài nước.
SS là tổ chức chịu trách nhiệm lớn nhất cho vụ diệt chủng 5,5 đến 6 triệu người Do Thái cùng hàng triệu nạn nhân khác trong suốt thời kỳ Holocaust. Các thành viên ở mọi phân nhánh của tổ chức đều phạm tội ác chiến tranh và tội ác chống lại loài người trong chiến tranh thế giới thứ hai (1939 – 45). SS còn liên quan đến các doanh nghiệp thương mại và bóc lột sức lao động của tù nhân trại tập trung, bức ép họ làm lao động khổ sai. Sau khi chiến tranh kết thúc, Tòa án Quân sự Quốc tế tại Nürnberg đã phán xử SS và Đảng Quốc Xã là những tổ chức tội phạm trong khi Ernst Kaltenbrunner, trưởng bộ phận chính SS cấp cao nhất còn sống, bị xử treo cổ vì tội ác chống nhân loại vào năm 1946.
Nguồn gốc
Tiền thân
thumb|upright=1.5|Đám đông ủng hộ và quân xung kích [[Đảng Quốc xã tại Marienplatz ở München trong vụ đảo chính nhà hàng bia, 1923]]
Vào năm 1923, Đảng Quốc xã do Adolf Hitler đứng đầu đã thành lập một đơn vị bảo vệ thường trực quy mô nhỏ gọi là Saal-Schutz (An ninh Hội trường) phụ trách công tác đảm bảo an ninh cho các cuộc họp đảng tại München.
Cùng năm đó, Hitler ra lệnh thành lập một đơn vị cận vệ riêng biệt nhỏ để phục vụ bản thân. Hitler mong muốn đơn vị này tách biệt với "số đông đáng ngờ" của đảng, bao gồm lực lượng bán quân sự Sturmabteilung (Binh đoàn bão táp; SA) mà ông không tin tưởng. Đơn vị mới này mang tên Stabswache (Bảo vệ Bộ tham mưu), ban đầu có tám người, gồm hai chỉ huy là Julius Schreck, Joseph Berchtold. Stabswache hoạt động dựa theo mô hình của một Freikorps khi đó là Marinebrigade Ehrhardt (Lữ đoàn Hải quân Ehrhardt). Tháng 5 năm 1923, Stabswache đổi tên thành Stoßtrupp (Lực lượng xung kích).
Sau thất bại của vụ đảo chính nhà hàng bia năm 1923 do Đảng Quốc xã tổ chức nhằm cướp chính quyền ở München, Stoßtrupp bị ép phải giải tán. Vào năm 1925, Hitler sau khi được tại ngoại đã lệnh cho Schreck thành lập một đội cận vệ mới có tên là Schutzkommando (Biệt động bảo an). Đơn vị này có nhiệm vụ bảo vệ Hitler tại các buổi họp hay sự kiện của đảng. Cùng năm đó, Schutzkommando phát triển trên quy mô cả nước và lần lượt đổi tên thành Sturmstaffel (Sư đoàn bão táp) và cuối cùng là Schutzstaffel (Đội phòng vệ; SS). Ngày thành lập chính thức của SS là ngày 9 tháng 11 năm 1925, cũng là ngày kỷ niệm 2 năm của cuộc đảo chính nhà hàng bia. Lực lượng SS mới này có nhiệm vụ bảo vệ giới chức lãnh đạo Đảng Quốc xã trên phạm vi toàn quốc. Đơn vị SS bảo vệ riêng cho Hitler sau đó được mở rộng bao gồm cả các đơn vị chiến đấu.
Các chỉ huy ban đầu
Julius Schreck là thành viên sáng lập SA và đồng thời là một người bạn tâm giao của Hitler. Ông chính thức trở thành lãnh đạo SS vào tháng 3 năm 1925. Ngày 15 tháng 4 năm 1926, Joseph Berchtold lên thay Schreck làm chỉ huy mới của SS. Sau khi nhậm chức, ông đổi tên chức vụ của mình thành Reichsführer-SS (Lãnh đạo Reich-SS). Berchtold được đánh giá là năng nổ hơn người tiền nhiệm song ngày càng nản chí vì SS bị SA áp chế. Điều này dẫn đến sự chuyển giao quyền lực của ông sang phụ tá của mình là Erhard Heiden vào ngày 1 tháng 3 năm 1927. Dưới trướng Heiden, SS áp dụng quy tắc kỷ luật nghiêm khắc hơn so với những gì người ta vẫn thấy trong SA.
Giai đoạn 1925–1929, lực lượng SS chỉ còn được coi đơn thuần là một Gruppe (tiểu đoàn) của SA. Ngoại trừ khu vực München, SS đã không thể duy trì số lượng thành viên của họ. Thành viên của SS giảm từ 1.000 xuống còn 280 do sự phát triển nhanh chóng của SA. Vào tháng 9 năm 1927, Heinrich Himmler trở thành phụ tá của Heiden trong lúc Heiden đang nỗ lực để giúp SS không bị SA sáp nhập. Trong vai trò mới, Himmler bộc lộ khả năng tổ chức tốt hơn Heiden. SS thành lập một số Gau (khu vực hoặc tỉnh). Các SS-Gaus này bao gồm SS-Gau Berlin, SS-Gau Berlin Brandenburg, SS-Gau Franken, SS-Gau Niederbayern, SS-Gau Rheinland-Süd và SS-Gau Sachsen.
Himmler nắm quyền
thumb|[[Heinrich Himmler (người đeo kính, đứng bên trái Adolf Hitler) là một trong những người đầu tiên ủng hộ Đảng Quốc xã.]]
Tháng 1 năm 1929, Hitler phê chuẩn cho Himmler lên làm Reichsführer-SS. Về phía đảng, Heiden được tuyên bố là đã ra đi vì "lý do gia đình". Trong thời gian Himmler lãnh đạo, SS phát triển và có chỗ đứng cao hơn. Himmler nhận định SS là một tổ chức quốc gia xã hội ưu tú, tuân thủ nghiêm chỉnh đường lối, chính sách của đảng, là một "sự kết hợp giữa Hiệp sĩ Teuton, tu sĩ Dòng Tên và Samurai Nhật Bản". Mục tiêu của Himmler là biến lực lượng SS thành tổ chức mạnh nhất tại Đức và phân nhánh ảnh hưởng nhất của đảng. Số thành viên SS đã tăng lên 3.000 chỉ trong năm đầu tiên Himmler trở thành lãnh đạo.
Năm 1929, SS-Hauptamt (văn phòng chính SS) được mở rộng và tái cơ cấu thành 5 văn phòng chính gồm: cơ quan quản lý chung, tài chính, nhân sự, an ninh và các vấn đề chủng tộc. Đồng thời, SS-Gaus được mở rộng thành ba khu vực hoạt động, gọi chung là SS-Oberführerbereiche (tạm dịch: Phân khu Thượng tá SS), với tên gọi SS-Oberführerbereiche Ost, SS-Oberführerbereiche West và SS-Oberführerbereiche Süd. Các cấp độ thấp hơn phần nhiều giữ nguyên không thay đổi. Dù chính thức vẫn là 1 đơn vị trực thuộc SA và chịu trách nhiệm trước Stabschef (Tham mưu trưởng SA), nhưng cũng chính trong thời gian này, Himmler bắt đầu tách SS ra khỏi SA. SS lớn mạnh nhờ sự trung thành tuyệt đối với Hitler, khác với SA được xem là một lực lượng bán tự do và mối đe dọa đến bá quyền của Hitler. Lý do Hitler cảnh giác SA là vì họ yêu cầu phát động một "cuộc cách mạng thứ hai" sau cái lần đã đưa Đảng Quốc xã lên nắm quyền. Tới cuối năm 1933, SS có 209.000 thành viên. Dưới sự lãnh đạo của Himmler, SS không ngừng mở rộng thế lực khi ngày càng nhiều địa bàn và chức năng của đảng rơi vào phạm vi quyền hạn của tổ chức này. Theo thời gian, SS chỉ còn "chấp hành" mỗi mệnh lệnh từ Hitler. Đây là một quá trình phát triển điển hình của cơ cấu tổ chức ở nơi mà quy chuẩn hợp pháp bị thay thế bằng hành động tuân thủ Führerprinzip (nguyên tắc Führer) khi ý muốn của Hitler được xem là có trọng lượng hơn cả luật pháp.
Mùa thu 1934, Himmler đã giám sát việc thành lập 3 SS-Junkerschule (trường Junker), là nơi các sĩ quan SS thế hệ kế tiếp được đào tạo kỹ năng lãnh đạo, quân sự cũng như truyền bá tư tưởng chính trị và các tư tưởng Quốc xã. Công tác đào tạo với trọng tâm là sự đề cao tính tàn nhẫn và bền bỉ là một phần của hệ thống giá trị SS, nó giúp thúc đẩy ý nghĩ ưu việt trong những người được đào tạo và dạy họ sự tự tin. Những ngôi trường đầu tiên được dựng lên tại Bad Tölz và Braunschweig, về sau mở rộng thêm một số cơ sở tại Klagenfurt và Praha trong thời chiến.
Ý thức hệ
SS được xem là đơn vị ưu tú của Đảng Quốc xã. Để phù hợp với chính sách chủng tộc của nhà nước Quốc Xã, ngay từ đầu tất cả ứng viên sĩ quan SS phải cung cấp bằng chứng về gốc gác Arya đến năm 1750, còn cấp bậc khác là đến năm 1800. Vào thời chiến, quy định được sửa lại do việc xác định gốc gác trở nên khó hơn. Cũng chính vì điều này nên một ứng viên chỉ cần chứng minh được ông bà của anh ta là người Arya như ghi rõ trong đạo luật Nürnberg. Một yêu cầu khác mà các ứng viên SS phải tuân thủ đó chính là sự phục tùng tuyệt đối với Führer và sự cam kết trách nhiệm trước nhân dân và đất nước. Himmler còn cố áp đặt tiêu chí hình thể dựa trên ngoại hình và chiều cao nhưng yêu cầu này chỉ được thực thi một cách lỏng lẻo và có trên một nửa thành viên SS không đáp ứng được. Các thành viên SS được cấp nhà lớn, được hưởng mức lương cao ưu đãi vì họ – những thành phần ưu tú – được kỳ vọng sinh nhiều con hơn những gia đình Đức bình thường. Đây được coi là trách nhiệm với học thuyết Đảng Quốc xã của mỗi thành viên SS.
thumb|Hầm mộ ở [[Wewelsburg được Himmler sử dụng làm nơi tưởng nhớ thành viên SS qua đời. Treo trên tường là các tác phẩm nghệ thuật tưởng niệm Holocaust.]]
Trách nhiệm với tư tưởng SS liên tục được nhấn mạnh suốt quá trình tuyển mộ và đào tạo. Các thành viên tiếp thu chính sách chủng tộc của nhà nước Quốc xã. Họ được dạy rằng những người bị chính sách đó xem là hạ đẳng cần phải được loại trừ khỏi nước Đức. Những nghi lễ bí truyền hay việc trao tặng biểu chương và phù hiệu nhân dịp các dấu mốc trong sự nghiệp của một thành viên SS góp phần giúp họ ngày càng thấm nhuần tư tưởng Quốc xã. Thành viên được kỳ vọng từ bỏ đức tin Kitô. Lễ Giáng sinh cũng được thay thế bằng một lễ kỷ niệm điểm chí. Himmler còn sáng chế nên một nghi lễ ngoại giáo gọi là SS Ehewein dùng để thay thế đám cưới trong nhà thờ. Các lễ nghi giả tôn giáo này thường diễn ra gần những tượng đài dành riêng cho SS hay tại những địa điểm đặc biệt được SS chỉ định. Himmler mua lâu đài Wewelsburg ở Westfalen vào năm 1933, ban đầu dự định dùng nó làm trung tâm đào tạo của SS. Tuy nhiên về sau Wewelsburg trở thành nơi tổ chức tiệc và nghi thức tân ngoại giáo.
Năm 1936, trong một cuốn sách nhỏ với tựa đề Die Schutzstaffel als antibolschewistische Kampforganisation (Schutzstaffel là một tổ chức chiến đấu chống chủ nghĩa Bolshevik), Himmler nhấn mạnh:
Áp dụng khủng bố và bạo lực làm giải pháp cho các vấn đề chính trị và quân sự là một phần của đường lối hoạt động SS. Tổ chức này đề cao lòng trung thành tuyệt đối và sự chấp hành mệnh lệnh cho đến chết. Dựa vào đó, Hitler khai thác SS như một công cụ hữu hiệu để xúc tiến mục tiêu của đảng lẫn mục tiêu cá nhân. SS được giao trách nhiệm thực thi các nhiệm vụ tàn độc, hoạt động phi pháp cùng tội ác chiến tranh. Himmler từng viết rằng một thành viên SS "không do dự một nháy mắt, chấp hành mà không cần suy nghĩ" mọi mệnh lệnh từ Führer. Khẩu hiệu chính thức của họ là "Meine Ehre heißt Treue" (Danh dự của tôi là lòng trung thành).
Là một phần của các nhiệm vụ liên quan tới vấn đề chủng tộc trong chiến tranh thế giới thứ hai, SS giám sát hoạt động cách ly và di dời người Do Thái trên các lãnh thổ bị chinh phạt. SS chiếm hữu tài sản và đày ải dân Do Thái đến các trại tập trung và ghetto – nơi họ bị buộc phải lao động khổ sai hoặc bị giết ngay lập tức. Được lựa chọn để thực hiện Endlösung (giải pháp cuối cùng), SS được xem là thủ phạm số một chịu trách nhiệm về việc giết hại và diệt chủng từ 15 tới 20 triệu người trong cuộc diệt chủng Holocaust, bao gồm khoảng 5.2 đến 6 triệu người Do Thái và 10.5 triệu người Slav. Một số lượng nạn nhân đáng kể là người thuộc những nhóm sắc tộc khác như 258.000 người Di-gan. Ngoài ra, SS tham gia giết hại, loại trừ những thành phần dân chúng bao gồm người tâm thần, tàn tật, đồng tính, bất đồng chính kiến vốn được xem là mối đe dọa đến tính ưu việt của chủng tộc Arya hay ý thức hệ của đảng. Thành viên của các tổ chức công đoàn và những người được coi là có liên kết với các nhóm phản động (tôn giáo, chính trị, xã hội...), hay những người bị xem là không phù hợp đã bị vây bắt số lượng lớn; những người này gồm giáo sĩ thuộc mọi tôn giáo, tín đồ Nhân chứng Jehovah, hội viên Hội Tam Điểm, người Cộng sản và thành viên Rotary Club. Theo phán quyết đưa ra tại tòa án Nürnberg cùng nhiều phiên điều tra và xét xử tiến hành sau đó, đa phần tội ác chiến tranh của Đức Quốc Xã là do SS gây ra. Đặc biệt SS cũng là tổ chức chủ đạo thực hiện Holocaust.
Nước Đức thời tiền chiến
thumb|upright|[[Reinhard Heydrich (phải) là protégé của Himmler và là một nhân vật SS hàng đầu đến khi bị ám sát năm 1942.]]
Sau khi Hitler và Đảng Quốc xã lên cầm quyền vào ngày 30 tháng 1 năm 1933, SS được xem là một tổ chức nhà nước và đồng thời là một ban ngành chính phủ. Việc chấp pháp dần đi vào phạm vi chức quyền của SS, nhiều tổ chức SS thực tế đã trở thành cơ quan chính phủ.
SS thiết lập một nhà nước cảnh sát, sử dụng lực lượng an ninh và cảnh sát mật do Himmler quản lý để đàn áp mọi hành vi chống đối Hitler. Năm 1933, Hermann Göring trong vai trò Thủ tướng Phổ đã cho lập một lực lượng cảnh sát mật Phổ là Geheime Staatspolizei, viết tắt Gestapo, và bổ nhiệm Rudolf Diels làm chỉ huy. Lo ngại Diels không đủ tàn nhẫn để vận hành Gestapo để có thể triệt tiêu thế lực của SA một cách hiệu quả, Göring đã giao vị trí chỉ huy cho Himmler vào ngày 20 tháng 4 năm 1934. Cũng trong ngày hôm đó, Hitler bổ nhiệm Himmler làm trưởng cục cảnh sát mọi lực lượng cảnh sát trên lãnh thổ Đức bên ngoài nước Phổ, khác với thông lệ lâu đời của Đức rằng chấp pháp là vấn đề địa phương và của từng nước trực thuộc. Himmler chỉ định phụ tá và protégé Reinhard Heydrich làm thủ lĩnh Gestapo vào ngày 22 tháng 4 năm 1934. Heydrich đồng thời vẫn là chỉ huy của Sicherheitsdienst (SD; sở an ninh).
Sự kiện Himmler tiếp quản Gestapo là tiền đề cho Nacht der langen Messer (đêm của những con dao dài), vụ bắt giữ và hành hình số đông lãnh đạo SA mà chủ yếu do SS và Gestapo thực hiện. Vào ngày 20 tháng 7 năm 1934, khi mà SA không còn là một thế lực sau cuộc thanh trừng, Hitler chính thức tách SS ra khỏi SA. SS trở thành một đội quân ưu tú độc lập của Đảng Quốc xã, chỉ tuân theo mệnh lệnh của Hitler. Giờ đây, quân hàm Reichsführer-SS của Himmler trở thành cấp bậc thực tế của ông ta. Đây đồng thời là cấp bậc cao nhất trong SS, tương đương với cấp bậc thống chế trong quân đội (cấp bậc trước đây của ông là Obergruppenführer). Khi địa vị và quyền hạn của Himmler ngày càng tăng, thì cấp bậc của ông cũng tăng theo.
Vào ngày 17 tháng 6 năm 1936, toàn bộ lực lượng cảnh sát ở Đức chịu sự cai quản của Himmler và SS. Vì lẽ đó nên Himmler và Heydrich trở thành hai trong số những nhân vật quyền lực nhất trong chính quyền Quốc xã. Lực lượng cảnh sát và tình báo do họ kiểm soát hành chính bao gồm SD, Gestapo, Kriminalpolizei (Kripo; cảnh sát hình sự), và Ordnungspolizei (Orpo; cảnh sát trật tự hay cảnh sát mặc đồng phục thường). Trên cương vị là chỉ huy lực lượng cảnh sát, Himmler trên danh nghĩa là cấp dưới của Bộ trưởng Nội vụ Wilhelm Frick. Tuy vậy, do SS chỉ tuân thủ mệnh lệnh của Hitler nên sự hợp nhất trên thực tế giữa SS và cảnh sát khiến lực lượng cảnh sát không nằm trong phạm vi kiểm soát của Frick. Vào tháng 9 năm 1939, các cơ quan an ninh và cảnh sát, bao gồm Sicherheitspolizei (SiPo; cảnh sát an ninh) và SD (nhưng không phải Orpo) hợp nhất tạo thành Reichssicherheitshauptamt (RSHA, Cơ quan an ninh trung ương quốc gia) do Heydrich đứng đầu. Chính điều này đã góp phần làm tăng sức mạnh tập thể của SS.
Trong Kristallnacht (9–10 tháng 11 năm 1938), các bộ phận an ninh SS như Gestapo, SD, Kripo, SiPo và lực lượng cảnh sát chính quy đã đã bí mật phối hợp để đảm bảo việc nhà ở và các cơ sở kinh doanh của người Do Thái vẫn nguyên vẹn để sung công, trong khi các giáo đường và những trung tâm hội họp của họ phải bị phá hủy. Trong đêm hôm đó, một lực lượng đông đảo mà đa phần là thành viên SA, đã tham gia phá hoại và cướp bóc hàng nghìn cơ sở kinh doanh, nhà cửa và nghĩa địa Do Thái. Khoảng 500 đến 1.000 giáo đường bị đốt phá. Vào ngày 11 tháng 11, Heydrich báo cáo có 36 người chết trong sự kiện đêm hôm đó. Tuy nhiên, những ước định sau này đưa ra số người thiệt mạng là 2.000. Theo lệnh của Hitler, khoảng 30.000 người Do Thái đã bị bắt và áp giải đến các trại tập trung vào ngày 16 tháng 11. Có tới 2.500 người trong số này đã chết trong những tháng tiếp đó. Chính tại thời điểm này, nhà nước SS đã khởi động gắt gao chiến dịch khủng bố nhằm vào các đối thủ chính trị và tôn giáo, bỏ tù bất kỳ ai bị nghi ngờ không thông qua xét xử hay giám sát tư pháp vì mục đích "an ninh, cải tạo hoặc phòng ngừa".
Tháng 9 năm 1939, quyền lực của SS mở rộng hơn nữa khi sĩ quan SS cao cấp nhất ở mỗi quân khu cũng trở thành chánh cảnh sát quân khu đó. Hầu hết các chỉ huy SS và cảnh sát này đều đeo hàm từ SS-Gruppenführer (Trung tướng bậc 2) trở lên và chịu trách nhiệm trực tiếp với Himmler mọi vấn đề trên địa bàn mình phụ trách. Vai trò của họ là cảnh giới dân chúng, giám sát hoạt động của SS viên trong khu vực. Bằng cách ban bố tình trạng khẩn cấp, họ có thể bỏ qua các cơ quan hành chính địa phương và nắm quyền quản lý trực tiếp hoạt động của SS, SD, SiPo, SS-Totenkopfverbände (SS-TV; lính gác trại tập trung) và Orpo.
Vệ sĩ riêng của Hitler
thumb|Xét duyệt binh sĩ [[Leibstandarte Adolf Hitler tại Berlin, 1938]]
Quy mô và tầm quan trọng của ba nhóm SS chính bảo vệ Hitler ngày càng tăng. Vào năm 1933, đội vệ sĩ riêng đông đảo của Hitler (trước là SS-Standarte số 1) được triệu tập đến Berlin để thay đội Lực lượng Vệ binh Phủ Thủ tướng Đức. Sepp Dietrich chỉ huy đơn vị mới gọi là SS-Sonderkommando Berlin đổi tên từ SS-Stabswache Berlin (Bảo vệ bộ tham mưu SS Berlin). Tháng 11 cùng năm, đơn vị đổi tên thành Leibstandarte Adolf Hitler. Đến tháng 4 năm 1934 Himmler sửa lại thành Leibstandarte SS Adolf Hitler, viết tắt là LSSAH. LSSAH đảm nhận canh gác nơi ở và văn phòng của Hitler, tạo ra một vòng bảo vệ bên ngoài cho Führer và khách khứa. Họ còn lập các chốt gác trên các lối vào Phủ Thủ tướng cũ và mới. Số lính gác LSSAH tăng lên vào mỗi dịp đặc biệt. Tại dinh thự Berghof của Hitler ở Obersalzberg, có một nhóm LSSAH đông đảo đảm nhận tuần tra một khu vực an ninh rộng lớn.
Kể từ năm 1941 trở đi, Leibstandarte được phân làm bốn bộ phận riêng biệt: sư đoàn Waffen-SS (không tham gia bảo vệ Hitler mà là đội hình trực thuộc Waffen-SS), nhóm canh giữ phủ thủ tướng Berlin, trung đoàn an ninh SS được giao đến Obersalzberg và một nhóm vệ sĩ đặt trụ sở tại München giữ trọng trách bảo vệ Hitler mỗi khi ông đến căn hộ riêng và sở chỉ huy Nhà Nâu (Braunes Haus). Tuy danh nghĩa là dưới quyền Himmler nhưng Dietrich mới là chỉ huy thực sự và là người điều hành công việc hàng ngày.
Hai đơn vị SS còn lại tạo nên vòng bảo vệ bên trong của Hitler. SS-Begleitkommando des Führers thành lập tháng 2 năm 1932, gồm tám người luân phiên túc trực theo ca suốt ngày đêm, là nhóm hộ tống Hitler khi di chuyển. SS-Begleitkommando về sau phát triển thành Führerbegleitkommando (FBK, Biệt động tháp tùng Führer), vẫn nhận lệnh riêng và bảo vệ Hitler. Führer Schutzkommando (FSK, Biệt động bảo vệ Führer) là đội cận vệ do Himmler lập vào tháng 3 năm 1933, ban đầu chỉ phụ trách bảo vệ Hitler ở trong địa phận Bayern nhưng đến đầu năm 1934 thì thay thế SS-Begleitkommando để bảo vệ Hitler trên phạm vi toàn quốc. Tháng 8 năm 1935, FSK đổi tên thành Reichssicherheitsdienst (RSD, Cục An ninh Quốc gia). Johann Rattenhuber, giám đốc RSD, gần như chỉ nhận lệnh trực tiếp từ Hitler. Trong khi đó, giám đốc FBK hiện tại chỉ đóng vai trò phụ tá của Rattenhuber. Các thành viên RSD và FBK có mặt tại mọi nơi Hitler cư trú. Người của RSD đảm nhiệm công việc tuần tra xung quanh còn FBK bảo vệ an ninh chặt chẽ bên trong. Vào mỗi chuyến đi hay sự kiện công cộng, người của RSD và FBK phối hợp để đảm bảo an ninh và bảo vệ cá nhân Hitler nhưng vẫn đi theo hai nhóm và sử dụng xe riêng. Đến tháng 3 năm 1938, cả hai đều mặc đồng phục xám ngả lục tiêu chuẩn của SS. Đồng phục của RSD có nút hình thoi với chữ SD ở nửa dưới ống tay áo bên trái.
Thành lập trại tập trung
thumb|Lò thiêu tại [[trại tập trung Dachau, tháng 5 năm 1945 (ảnh chụp sau giải phóng).]]
SS có liên hệ chặt chẽ với hệ thống trại tập trung của Đức Quốc Xã. Vào ngày 26 tháng 6 năm 1933, Himmler bổ nhiệm SS-Oberführer Theodor Eicke làm chỉ huy một trong những trại tập trung đầu tiên tại Đức là Dachau. Trại này ra đời nhằm hợp nhất nhiều trại nhỏ từng được Đảng Quốc xã và nhiều cơ quan cảnh sát dựng lên để giam cầm tù nhân chính trị. Cơ cấu tổ chức Eicke áp dụng tại Dachau đã trở thành hình mẫu cho tất cả trại tập trung sau này. Sau năm 1934, Eicke được chỉ định là chỉ huy của SS-Totenkopfverbände (SS-TV), đội hình SS phụ trách điều hành các trại tập trung do SS và Himmler quản lý. Được biết đến với cái tên "Đơn vị Đầu lâu", ban đầu SS-TV được tổ chức thành nhiều tiểu đoàn, mỗi tiểu đoàn đóng tại một trong những trại tập trung lớn của Đức. Tổ lãnh đạo tại các trại được chia làm gồm năm bộ phận: chỉ huy và phụ tá, bộ phân chuyên trách chính trị, giam giữ bảo vệ, quản lý, và nhân viên y tế. Đến năm 1935, Himmler có được sự phê chuẩn của Hitler và tài chính cần thiết để xây dựng và vận hành các trại bổ sung. Sau bốn năm đã có sáu trại tập trung giam giữ 21.400 tù nhân (chủ yếu là tù nhân chính trị) vào thời điểm tháng 9 năm 1939, cũng là lúc chiến tranh bắt đầu. Khi chiến tranh kết thúc, hàng trăm trại với quy mô và chức năng khác nhau đã mọc lên, chứa gần 715.000 người mà hầu hết bị chính quyền Đức Quốc Xã nhằm vào chỉ vì chủng tộc của họ. Nhân khẩu các trại tập trung tăng lên song song với những thất bại mà Đức Quốc Xã phải hứng chịu; tình hình ngày càng tồi tệ đồng nghĩa với nỗi sợ bị lật đổ càng lớn. Điều này đã thúc đẩy SS tăng cường đàn áp và khủng bố tù nhân.
SS trong Chiến tranh thế giới thứ hai
Vào thời điểm Chiến tranh thế giới thứ hai bùng nổ, SS hợp nhất thành hình hài cuối cùng, cấu thành từ ba tổ chức chính là Allgemeine SS (SS Tổng quát), SS-Totenkopfverbände và Waffen-SS (SS Vũ trang). Lực lượng vũ trang SS được thành lập năm 1934 dưới cái tên SS-Verfügungstruppe (SS-VT), đến năm 1940 thì đổi tên thành Waffen-SS. Trong quá trình diễn ra cuộc chiến, Waffen-SS đã phát triển thành đội quân thứ hai của Đức, hoạt động song song cùng Wehrmacht, đặc biệt là với Lục quân Đức. Tuy nhiên, đơn vị này chưa từng được hoàn toàn độc lập tác chiến hay được xem là "địch thủ đáng gờm" của quân đội Đức. Thành viên SS không thể gia nhập hàng ngũ Bộ Tư lệnh Tối cao Đức và SS buộc phải phụ thuộc vào quân đội để trang bị những loại vũ khí hạng nặng. Dù cấp hàm SS nhìn chung có sự tương đương với những binh chủng khác, tên quân hàm trong hệ thống quân hàm của SS không sao chép các nhánh của Wehrmacht. Thay vào đó, quân hàm của SS được phỏng theo hệ thống do Freikorps và SA thiết lập sau Chiến tranh thế giới thứ nhất. Đây là một cách để nhấn mạnh rằng SS độc lập với Wehrmacht.
Cuộc xâm lược Ba Lan
thumb|left|[[Sicherheitsdienst (SD) và cảnh sát bắt người Do Thái Ba Lan vào tháng 9 năm 1939.]]
Trong cuộc xâm lược Ba Lan vào tháng 9 năm 1939, hai lực lượng LSSAH và SS-VT tham chiến trong vai các trung đoàn bộ binh cơ động riêng biệt. LSSAH trở nên khét tiếng với các vụ đốt phá làng mạc mà không có bất kỳ lý do quân sự chính đáng nào. Thành viên LSSAH ra tay tàn độc tại nhiều thành thị, bao gồm sát hại 50 người Do Thái Ba Lan ở Błonie, dùng súng máy bắn chết 200 người (bao gồm cả trẻ em) ở Złoczew. Các vụ nổ súng còn tiếp diễn Bolesławiec, Torzeniec, Goworowo, Mława, và Włocławek.
Một số thành viên cao cấp của Wehrmacht không tin các đơn vị SS này được chuẩn bị đầy đủ cho chiến đấu. Các đơn vị này thường chấp nhận rủi ro không cần thiết và có tỷ lệ thương vong cao hơn quân đội, một điều mà Generaloberst (Đại tướng) Fedor von Bock phê phán. Sau chuyến thăm sư đoàn SS-Totenkopf vào tháng 4 năm 1940, ông phát hiện họ chưa được đào tạo đủ bài bản để có thể tác chiến trên chiến trường một cách hiệu quả. Về phía Hitler, ông cho rằng lời chỉ trích này đơn thuần chỉ là một "quan niệm tinh thần thượng võ cổ hủ" của giới tướng lĩnh Wehrmacht. Về phần SS, họ lấy lý do rằng các nhóm vũ trang SS phải tác chiến tách rời nhau và không được quân đội Đức trang bị phù hợp.
Sau khi Ba Lan bị chiếm đóng, Hitler giao cho SS thực hiện các hành động trừ khử có mật danh là Chiến dịch Tannenberg và AB-Aktion nhằm loại bỏ các thủ lĩnh tiềm tàng có thể gây dựng phong trào kháng chiến chống quân Đức. Các vụ giết người được Einsatzgruppen (đội đặc nhiệm; các nhóm triển khai) thực hiện và được hỗ trợ bởi các nhóm bán quân sự địa phương. Nhân lực của Einsatzgruppen vốn đa phần lấy từ thành viên của SS, SD và lực lượng cảnh sát. Đến hết năm 1939 đã có khoảng 65.000 công dân Ba Lan bị giết, bao gồm các nhà hoạt động, trí thức, học giả, giáo viên, diễn viên, cựu sĩ quan cùng những người khác. Khi ban lãnh đạo quân đội phàn nàn về sự tàn bạo của Einsatzgruppen, Reinhard Heydrich đáp lại rằng mình chỉ đang hành động "theo mệnh lệnh đặc biệt của Führer". Vụ xử bắn hàng loạt người Do Thái có hệ thống đầu tiên mà Einsatzgruppen thực hiện diễn ra vào ngày 6 tháng 9 năm 1939 khi quân Đức tấn công Kraków.
thumb|upright=1.05|[[Einsatzgruppen xử bắn thường dân ở Kórnik, 1939.]]
Hài lòng với màn thể hiện của SS ở Ba Lan, Hitler cho phép mở rộng thêm các đơn vị SS vũ trang khác, nhưng ông khẳng định các đơn vị mới vẫn phải chịu sự quản lý của quân đội. Trong khi SS-Leibstandarte vẫn là một trung đoàn độc lập hoạt động như đội vệ sĩ riêng của Hitler thì các trung đoàn khác như SS-Deutschland, SS-Germania và SS-Der Führer đã kết hợp thành SS-Verfügungs-Division (vệ binh cơ động). Sư đoàn SS thứ hai, SS-Totenkopf, được cấu thành từ các lính canh trại tập trung của SS-TV. Còn sư đoàn SS thứ ba, SS-Polizei, được thành lập từ các tình nguyện viên cảnh sát. Vào thời điểm này, SS đã giành được quyền quản lý công tác tuyển mộ, hậu cần, và hệ thống cung ứng cho các đội hình vũ trang của mình. SS, Gestapo và SD phụ trách cơ quan hành chính quân sự lâm thời ở Ba Lan cho đến khi Hans Frank được bổ nhiệm làm Toàn quyền vào ngày 26 tháng 10 năm 1939.
Trận chiến nước Pháp
Vào ngày 10 tháng 5 năm 1940, Hitler phát động tấn công Pháp và các nước thuộc vùng đất thấp, mở màn cho trận chiến nước Pháp. SS tham gia tiếp tế hai trong số 89 sư đoàn tham chiến. Lực lượng LSSAH và các đơn vị thuộc SS-VT tham gia cuộc xâm lược trên bộ trong trận Hà Lan. Nhiều lính dù đồng thời được thả để chiếm những sân bay, cây cầu, và cung đường sắt trọng yếu của nước này. Sau năm ngày tham chiến, LSSAH hội ngộ với các đơn vị lục quân và lính dù sau một số phen đụng độ với quân phòng thủ Hà Lan.
thumb|Himmler kiểm tra chiếc [[Sturmgeschütz III thuộc Sư đoàn Panzer SS số 1 Leibstandarte SS Adolf Hitler tại Metz, Pháp, tháng 9 năm 1940.]]
Lính SS không tham gia cuộc tấn công xuyên qua rừng Ardennes và sông Meuse. Thay vào đó, SS-Totenkopf được triệu tập từ nhóm dự bị để hỗ trợ Sư đoàn Panzer số 7 của Generalmajor (Thiếu tướng) Erwin Rommel đang tiến về phía eo biển Manche. Vào ngày 21 tháng 5, quân Anh sử dụng thiết giáp mở một cuộc phản công nhằm vào hai bên sườn của Sư đoàn Panzer số 7 và SS-Totenkopf. Sau đó, quân Đức bẫy quân Anh và Pháp, bao vậy liên quân hai nước trong một vòng vây khổng lồ ở Dunkerque. Vào ngày 27 tháng 5, Đại đội 4, SS-Totenkopf đã gây ra vụ thảm sát Le Paradis – 97 tù binh thuộc Tiểu đoàn 2, Trung đoàn Hoàng gia Norfolk bị sát hại bằng súng máy sau khi đầu hàng. Những người không bị bắn chết đều bị giết bằng lưỡi lê. Trong số những lính Anh, chỉ có duy nhất hai người sống sót. Vào ngày 28 tháng 5, SS-Leibstandarte chiếm được Wormhout nằm cách Dunkerque . Tại đây các binh sĩ thuộc Tiểu đoàn 2 đã giết chết 80 lính Anh và Pháp sau khi họ đầu hàng, gây ra cuộc thảm sát Wormhoudt. Theo nhà sử học Charles Sydnor, "sự liều lĩnh cuồng tín trong tấn công, quyết tử phòng thủ chống lại kẻ thù và sự tàn ác man rợ khi đối mặt với những mục tiêu yếu đuối" mà sư đoàn SS-Totenkopf biểu lộ trong cuộc xâm lược là nét đặc trưng của toàn thể binh sĩ SS.
Vào thời điểm trận chiến nước Pháp đi vào hồi kết, Hitler đã bày tỏ sự hài lòng với màn thể hiện của SS-Leibstandarte. Ông nói với họ rằng "kể từ nay về sau, các bạn, đội quân mang tên tôi, sẽ vinh dự dẫn đầu mọi cuộc tấn công của quân Đức". SS-VT được đổi tên thành Waffen-SS trong một bài phát biểu của Hitler vào tháng 7 năm 1940. Rồi Hitler cho phép tuyển mộ (mà theo cách nói của Himmler là) "những người được cho là có dòng dõi liên quan" nhằm nới rộng hàng ngũ. Nhiều người Đan Mạch, Hà Lan, Na Uy, Thụy Điển và Phần Lan tình nguyện gia nhập Waffen-SS chiến đấu dưới sự chỉ huy của sĩ quan Đức. Họ được tập hợp để lập ra sư đoàn mới mang tên SS-Wiking. Sư đoàn SS-Verfügungs đổi tên thành SS-Reich (sư đoàn cơ giới) vào tháng 1 năm 1941 rồi thành Sư đoàn Panzer SS số 2 Das Reich khi được tái cơ cấu làm một sư đoàn Panzergrenadier (bộ binh cơ giới) năm 1942.
Chiến dịch ở Balkan
Tháng 4 năm 1941, quân Đức xâm lược Nam Tư và Hy Lạp. LSSAH và Das Reich lần lượt tham gia các quân đoàn Panzer riêng biệt của lục quân. Một đại đội trưởng trực thuộc sư đoàn Das Reich là Fritz Klingenberg đã chỉ huy đại đội băng qua Nam Tư đến thủ đô Beograd. Tại đây, một nhóm nhỏ trong đội tiên phong tiếp nhận sự đầu hàng của thành phố vào ngày 13 tháng 4. Vài ngày sau, toàn bộ Nam Tư đầu hàng. Các đơn vị cảnh sát SS ngay lập tức tiến hành bắt giữ con tin và thực hiện các hành động trả thù, một thực tiễn đã trở nên phổ biến. Trong một số trường hợp, Wehrmacht cũng tham gia vào các cuộc trừ khử do SS thực hiện. Tương tự như Ba Lan, chính sách của Đức Quốc Xã ở Balkan dẫn đến sự chiếm đóng tàn bạo và những cuộc tàn sát mang đậm màu sắc phân biệt chủng tộc. Serbia trở thành quốc gia thứ hai (sau Estonia) tuyên bố Judenfrei (không có người Do Thái).
Ở Hy Lạp, Wehrmacht và Waffen-SS vấp phải sự phản kháng từ Lực lượng Viễn chinh Anh (BEF) và quân đội Hy Lạp. Cuộc chiến thêm phần khốc liệt bởi địa hình đồi núi hiểm trở với những con đèo hẹp được cố thủ nghiêm ngặt. LSSAH là lực lượng tiên phong dẫn đầu cuộc tấn công của quân Đức. Trước sự tấn công mạnh mẽ của người Đức, BEF buộc di tản bằng đường biển đến đảo Crete, nhưng phải tháo chạy một lần nữa vào cuối tháng 5 khi quân Đức đổ bộ lên đảo. Tương tự như những gì diễn ra ở Nam Tư, cuộc xâm lược Hy Lạp của Đức mang hiểm nguy đến cho người Do Thái nơi đây vì họ ngay lập tức rơi vào tầm ngắm của Đức Quốc Xã. Ban đầu bị giam giữ trong các khu ghetto, hầu hết người Do Thái Hy Lạp bị áp giải đến trại tập trung Auschwitz vào tháng 3 năm 1943 để rồi bị sát hại trong những căn phòng hơi ngạt. Chỉ 20% trong số 80.000 người Do Thái Hy Lạp sống sót qua chiến tranh.
Mặt trận phía Đông
Vào ngày 22 tháng 6 năm 1941, Hitler phát động chiến dịch Barbarossa xâm lược Liên Xô. Chiến tranh lan rộng và nhu cầu quản lý lãnh thổ chiếm đóng tạo điều kiện để Himmler củng cố thêm các bộ phận quân sự và cảnh sát của SS. Bước tiến vũ bão của quân Đức trên Mặt trận phía Đông gây khó khăn cho các tổ chức cảnh sát SS khi họ phải vật lộn để thích nghi với những thách thức an ninh mới.
Lữ đoàn bộ binh SS số 1 và số 2, được chiêu mộ từ lính canh trại thất nghiệp thuộc SS-TV và Lữ đoàn Kỵ binh SS, theo chân quân đội tiến vào Liên Xô. Ban đầu, hai lữ đoàn này tham gia bình định quân kháng chiến Liên Xô nhưng đến mùa thu năm 1941 thì đảm nhận các công việc liên quan tới Holocaust, chuyển giao nhiệm vụ ban đầu sang các đơn vị khác. Họ lập ra những toán nã súng hỗ trợ Einsatzgruppen thủ tiêu các nhóm dân Do Thái của Liên Xô.
Vào ngày 31 tháng 7 năm 1941, Heydrich được Göring ủy quyền bằng văn bản, nhận nhiệm vụ đảm bảo sự hợp tác giữa các ban ngành chính phủ để có thể tiến hành diệt chủng người Do Thái trên các vùng lãnh thổ do Đức kiểm soát một cách hiệu quả. Heydrich góp công không nhỏ trong việc triển khai các hoạt động thảm sát này khi mà cả hai cơ quan thuộc thẩm quyển ông ta – Gestapo và Einsatzgruppen – lần lượt đảm nhận các nhiệm vụ quan trọng. Ở phía Tây, lực lượng Gestapo tiến hành trục xuất người Do Thái trong khi Einsatzgruppen tiến hành thảm sát trên diện rộng ở phía đông. Vào ngày 20 tháng 1 năm 1942, Heydrich chủ trì một cuộc họp gọi là hội nghị Wannsee nhằm bàn luận cách thực thi kế hoạch.
Waffen-SS hứng chịu thương vong nặng nề trong các trận đánh ở Liên Xô những năm 1941 và 1942. LSSAH và Das Reich mất hơn nửa quân số do giao tranh và bệnh tật. Vì nhu cầu nhân lực, Himmler chấp nhận những binh sĩ không đáp ứng được yêu cầu chủng tộc mà SS đề ra thuở ban đầu. Vào đầu năm 1942, SS-Leibstandarte, SS-Totenkopf, và SS-Das Reich được lệnh rút về phía Tây để tái trang bị và tái tổ chức thành các sư đoàn Panzergrenadier (bộ binh cơ giới). Đầu năm 1943, quân đoàn SS-Panzer quay lại Liên Xô và tham gia Trận Kharkov lần thứ ba diễn ra vào tháng 2 và tháng 3 năm đó.
Holocaust
nhỏ|[[Einsatzgruppen sát hại người Do Thái tại Ivanhorod, Ukraina, 1942]] SS được xây dựng dựa trên nền tảng bạo lực, thể hiện qua hình thái cùng cực nhất bằng việc thảm sát dân thường và tù nhân chiến tranh ở Mặt trận phía Đông. Einsatzgruppen thu nạp thêm nhân sự từ Kripo (cảnh sát hình sự), Orpo (cảnh sát trật tự), Waffen-SS và đạt tổng binh lực là 3.000 người. Các đội Einsatzgruppen A, B và C lần lượt tham gia Cụm tập đoàn quân Bắc, Trung tâm và Nam trong khi Einsatzgruppe D trực thuộc biên chế của Tập đoàn quân số 11. Einsatzgruppe dành cho Mục đích Đặc biệt bắt đầu hoạt động ở miền đông Ba Lan kể từ tháng 7 năm 1941. Sử gia Richard Rhodes mô tả những người này "vượt quá giới hạn đạo đức", "vừa là quan tòa, vừa là bồi thẩm đoàn mà vừa là đao phủ", nắm trong tay mọi quyền sinh sát.
Sau Chiến dịch Barbarossa, các đơn vị Einsatzgruppen kết hợp cùng Waffen-SS và Cảnh sát Trật tự giết hại hàng loạt người Do Thái ở miền đông Ba Lan và tại các vùng đất Liên Xô bị chiếm đóng. Quy mô hoạt động của Einsatzgruppen đạt đỉnh vào năm 1941 và 1942 tại Ukraina và Nga. Trước cuộc xâm lược, khắp cõi Liên Xô có hơn năm triệu người Do Thái đăng ký, khoảng ba triệu trong số đó sống trên những lãnh thổ bị quân Đức chiếm đóng. Khi chiến tranh kết thúc, hơn hai triệu người đã bị sát hại.
Các hoạt động giết chóc của Einsatzgruppen thường tuân theo một quy trình tiêu chuẩn. Một chỉ huy Einsatzgruppen sẽ liên lạc với tư lệnh đơn vị Wehrmacht gần nhất để thông báo về hành động sắp tới, mục đích là để họ có thể phối hợp kiểm soát khu vực hành quyết, tránh người không phận sự xâm nhập. Ban đầu, các nạn nhân bị hành quyết bằng cách xử bắn, nhưng phương pháp này tỏ ra không khả thi đối với một chiến dịch quy mô tầm cỡ. Thêm nữa, sau khi quan sát thấy 100 người Do Thái bị bắn tại Minsk vào tháng 8 năm 1941, Himmler trở nên lo ngại về tác động của việc làm này lên tinh thần của lính. Ông quyết định phải tìm các phương pháp giết người thay thế, kết quả là xe hơi ngạt ra đời. Tuy nhiên, phương pháp này không được ưa chuộng bởi việc chuyển xác chết ra khỏi xe rồi mang đi chôn là một thử thách khủng khiếp đối với những người lính. Tù nhân hoặc người phụ giúp thường được chỉ định làm nhiệm vụ này để tránh binh lính SS bị sang chấn tâm lý.
Tiêu diệt quân kháng chiến
Tháng 7 năm 1942, nhằm giải quyết những khó khăn mà kháng quân Liên Xô gây ra cho quân đội, Hitler quyết định chuyển giao hoạt động chống quân kháng chiến cho phía cảnh sát, khiến vấn đề này lọt vào phạm vi phụ trách của Himmler. Ngày 8 tháng 7 năm 1941, khi Hitler ra lệnh rằng tất cả người Do Thái đều là quân kháng chiến thì cụm từ "chiến dịch chống kháng quân" được dùng làm uyển ngữ ám chỉ hoạt động tàn sát người Do Thái và đấu tranh tiêu diệt những phần tử kháng chiến. Tháng 7 năm 1942, Himmler chỉ thị sử dụng thuật ngữ "kẻ cướp" thay thế "kháng quân" làm từ mô tả những kẻ chống đối chính quyền Đức Quốc Xã.
Himmler chỉ định SS và SD bắt tay phát triển thêm các sách lược chống kháng quân và mở một chiến dịch tuyên truyền. Tháng 6 năm 1943, Himmler ban hành lệnh Bandenbekämpfung (đánh cướp) và thông báo sự tồn tại của Bandenkampfverbände (các đội đánh cướp) với thủ lĩnh là Obergruppenführer Erich von dem Bach-Zelewski. Bandenkampfverbände chủ yếu tuyển mộ nhân sự từ cảnh sát SS và Waffen-SS, gồm bốn bộ phận chính: truyên truyền, quản lý tập trung và điều phối các hoạt động an ninh, huấn luyện quân đội và hoạt động chiến đấu. Ngay sau khi Wehrmacht chiếm được vùng lãnh thổ mới, nhiệm vụ đầu tiên của các Bandenkampfverbände là tiếp quản cơ sở liên lạc, đường bộ, đường sắt, đường thủy. Tiếp đó, họ sẽ tiếp quản các thôn làng, trụ sở hành chính và xí nghiệp địa phương. Ngoài ra, Bandenkampfverbände cũng nhận nhiệm vụ đảm bảo các nguồn tài nguyên nông nghiệp và lâm nghiệp. SS giám sát việc thu hoạch vụ mùa – một điều được cho là rất quan trọng đối với hoạt động chiến lược. Bất kỳ người Do Thái nào sống trong khu vực đều bị vây bắt và sát hại. Những người cộng sản hay người gốc Á đều bị giết theo phương châm "thà giết nhầm còn hơn bỏ sót" nhằm đề phòng mật vụ Liên Xô trà trộn.
Trại tử thần
thumb|left|Người Do Thái từ [[Zakarpattia bị đưa đến trại tập trung Auschwitz, 1944]]
Sau khi chiến tranh bùng nổ, Himmler đẩy mạnh hoạt động của SS tại Đức cũng như trên các vùng lãnh thổ châu Âu do Đức Quốc xã chiếm đóng. Số lượng người Do Thái, công dân Đức bị tình nghi về chính trị, hay người ngoài xã hội, bị bắt ngày một đông. Khi chế độ quốc xã ngày càng trở nên áp chế hơn, hệ thống trại tập trung cũng theo đó mà phát triển về kích thước và quy mô hoạt động giết người.
Cường độ tàn sát trở nên ác liệt hơn vào cuối năm 1941 khi SS bắt đầu xây dựng những cơ sở hơi ngạt để làm công cụ giết người thay thế Einsatzgruppen. Nạn nhân của trại hành quyết bị giết bằng khí cacbon monoxit thải từ động cơ xe hơi. Trong chiến dịch Reinhard do người của Totenkopfverbände điều hành, có ba trại hành quyết được xây mới tại vùng lãnh thổ Ba Lan bị chiếm đóng. Ba trại đó lần lượt là Bełżec (hoạt động vào tháng 3 năm 1942), Sobibór (hoạt động vào tháng 5 năm 1942) và Treblinka (hoạt động vào tháng 7 năm 1942). Các sĩ quan Totenkopfverbände tuyên thệ giữ bí mật, giám sát hàng trăm tù nhân Sonderkommando cùng với các đội Trawnikimänner (cộng tác viên người Đông Âu). Tù nhân Sonderkommando bị bắt làm việc ở phòng hơi ngạt và lò thiêu (thu thập xác chết, áp giải nạn nhân) trước khi chính họ cũng bị giết theo cách tương tự. Theo lệnh của Himmler, trại tập trung tại Auschwitz được nới rộng quy mô vào đầu năm 1942 để xây thêm phòng hơi ngạt để giết các nạn nhân bằng thuốc trừ sâu Zyklon B.
Vì lý do hành chính, tất cả lính canh trại tập trung và nhân viên hành chính đều trở thành thành viên chính thức của Waffen-SS vào năm 1942. Các trại tập trung đều nằm dưới quyền chỉ huy của SS-Wirtschafts-Verwaltungshauptamt (Văn phòng hành chính và kinh tế chính SS; WVHA) do Oswald Pohl đứng đầu. Richard Glücks từng là Thanh tra Trại tập trung, năm 1942 trở thành văn phòng "D" trực thuộc WVHA. Khi tình hình chiến sự trở nên xấu đi đối với quân Đức, các hoạt động bóc lột và hành quyết được suy xét lại. Vì nhu cầu lao động của nền kinh tế chiến tranh, đặc biệt là lao động có tay nghề cao, nên một số người Do Thái đã may mắn thoát khỏi nạn diệt chủng. Vào ngày 30 tháng 10 năm 1942, tình trạng thiếu hụt nhân công trầm trọng khiến Himmler ra lệnh bắt nhiều người khỏe mạnh từ các vùng lãnh thổ Liên Xô bị chiếm đóng đưa sang Đức làm lao động khổ sai.
Tới năm 1944, SS-TV đã được tổ chức thành ba bộ phận: cán bộ trại tập trung ở Đức và Áo, cán bộ trại tập trung ở lãnh thổ chiếm đóng và cán bộ trại hành quyết ở Ba Lan. Việc thay người ở các trại đã trở thành thông lệ tiêu chuẩn, một phần dựa trên nhu cầu nhân sự nhưng cũng là một phương pháp để phân việc cho những thành viên SS bị thương một cách dễ dàng hơn. Điều này đồng nghĩa với việc gần như toàn thể nhân sự SS biết những gì diễn ra bên trong các trại tập trung khiến cả tổ chức phải chịu trách nhiệm cho tội ác chiến tranh và tội ác chống lại loài người.
Đế chế kinh doanh
Vào năm 1934, Himmler thành lập một nhà xuất bản tài liệu tuyên truyền và sách hướng dẫn đào tạo SS mang tên Nordland-Verlag. Nhà xuất bản này là phi vụ đầu tư kinh doanh đầu tiên của tổ chức. Himmler mua lại hãng gốm sứ Allach và bắt đầu chế tạo kỷ vật SS. Vì thiếu hụt nhân công và bị thúc đẩy bởi mong muốn kiếm lợi, SS bắt đầu trấn lột tù nhân trại tập trung, ép họ lao động khổ sai. Thuở đầu, hầu hết các doanh nghiệp SS đều thua lỗ cho đến khi Himmler nhượng lại cho Verwaltung und Wirtschaftshauptamt Hauptamt (Văn phòng quản lý và kinh doanh; VuWHA) của Oswald Pohl vào năm 1939. Tuy tình hình tài chính có chút khởi sắc nhưng hầu hết các doanh nghiệp đều hoạt động kém hiệu quả vì nhân viên SS thiếu kinh nghiệm kinh doanh còn công nhân phần nhiều đói khổ và không thể làm việc theo năng lực. Tháng 7 năm 1940, Pohl thành lập một tập đoàn bảo trợ mang tên Deutsche Wirtschaftsbetriebe GmbH (Công ty trách nhiệm hữu hạn Kinh tế Đức; DWB) chính thức tiếp quản mọi công ty trực thuộc SS. Trong suốt quá trình tồn tại, SS đã lập tổng cộng gần 200 công ty cổ phần mẹ phục vụ mục tiêu kinh doanh.
thumb|left|upright|[[Hành quyết qua lao động. Tại trại tập trung Mauthausen-Gusen, tù nhân bị ép khuân những khối đá granit nặng ra khỏi mỏ đá trên những "bậc thang chết chóc".]]
Tháng 5 năm 1941, VuWHA thành lập Deutsche Ausrüstungswerke GmbH (Vật liệu thiết bị Đức; DAW) để hợp nhất doanh nghiệp SS với hệ thống trại tập trung đang mọc lên ngày một nhiều. Cũng trong năm đó, Himmler cho dựng bốn trại tập trung lớn là Auschwitz, Gross-Rosen, Natzweiler-Struthof và Neuengamme. Mỗi trại đều có ít nhất một nhà máy hoặc mỏ đá gần đó để các tù nhân làm việc. Himmler đặc biệt quan tâm đến việc cung cấp nhân công cho IG Farben, vốn đang xây dựng một nhà máy sản xuất cao su tổng hợp tại Auschwitz III – Monowitz. Vào thời điểm bị Hồng quân Liên Xô đánh sập năm 1945, nhà máy gần như đã sẵn sàng để đi vào hoạt động. Cũng giống nhiều trại khác, tuổi thọ bình quân của tù nhân sau khi nhập trại Monowitz là ba tháng. Thiếu ăn và có điều kiện sống tồi tàn, lại còn bị ép làm việc quá tải dưới chính sách hành quyết qua lao động là những lý do tại sao tù nhân có tuổi thọ trung bình ngắn đến vậy.
Năm 1942, Himmler hợp nhất mọi cơ quan do Pohl phụ trách làm một, lập ra Văn phòng Hành chính và Kinh tế Chính của SS (Wirtschafts- und Verwaltungshauptamt; viết tắt là WVHA). Toàn bộ hệ thống trại tập trung được đặt dưới quyền của WVHA. SS sở hữu Sudetenquell GmbH, một nhà máy sản xuất nước khoáng ở Sudetenland. Đến năm 1944, SS đã mua 75% hãng nước khoáng tại Đức và có ý đồ nắm độc quyền ngành này. Một số trại tập trung sản xuất vật liệu xây dựng như đá, gạch và xi măng cho Deutsche Erd- und Steinwerke cũng thuộc sở hữu của SS (Nhà máy Đất và Đá Đức; viết tắt là DEST). Tại các vùng lãnh thổ phía Đông bị chiếm đóng, SS giành độc quyền sản xuất gạch bằng cách chiếm giữ tất cả 300 xưởng gạch còn tồn tại. DWB còn lập ra Ost-Deutsche Baustoffwerke (Vật liệu cung ứng xây dựng Đông Đức; GmbH hay ODBS) và Deutsche Edelmöbel GmbH (Nội thất Cao cấp Đức). Các hãng này tiến hành sản xuất vật liệu trong các nhà máy mà SS cưỡng đoạt từ người Do Thái và người Ba Lan.
SS sở hữu các trang trại thử nghiệm, tiệm bánh, nhà máy đóng gói thịt, xưởng da thuộc, nhà máy sản xuất quần áo và đồng phục cùng các nhà máy sản xuất vũ khí nhỏ. Dưới sự chỉ đạo của WVHA, SS đã cho các nhà máy thuê lao động với giá từ 3 đến 6 Reichsmark mỗi tù nhân mỗi ngày. Ngoài việc tịch thu và bán tài sản của các tù nhân trong trại tập trung, SS còn tịch thu danh sách vốn đầu tư và tiền mặt của họ, đồng thời thu lợi từ những người chết bằng việc bán tóc làm nỉ hoặc nấu chảy vàng từ vật liệu trám răng. SS-Gruppenführer (Trung tướng bậc 1) Odilo Globocnik liệt kê tổng giá trị tài sản mà SS cưỡng đoạt từ các nạn nhân trong Chiến dịch Reinhard (không bao gồm Auschwitz) là 178.745.960,59 Reichsmark. Vật dụng chiếm đoạt bao gồm 2.909,68 kg vàng trị giá 843.802,75 RM, 18.733,69 kg bạc, 1.514 kg bạch kim, 249.771,50 đô-la Mỹ, 130 trang sức kim cương, 13.458,62 cara kim cương, 2.511,87 cara kim cương đa mặt, 114 kg ngọc trai. Theo luật thì tài sản của người Do Thái thuộc về nhà nước nhưng nhiều chỉ huy và lính gác trại thường lấy cắp kim cương, tiền mặt để trục lợi. Họ cũng thường tuồn những mặt hàng thực phẩm và rượu bị tịch thu ra thị trường chợ đen.
Tình thế đảo chiều
Vào ngày 5 tháng 7 năm 1943, quân Đức khai màn trận vòng cung Kursk để tiêu diệt chỗ lồi của Hồng quân Liên Xô tại Kursk. Gần như toàn bộ lực lượng Waffen-SS – khi ấy đã mở rộng thành 12 sư đoàn – đều tham gia trận đánh. Trước sự kháng cự quyết liệt của Liên Xô, Hitler lệnh hoãn tấn công vào ngày 12 tháng 7. Tới ngày 17, Hitler quyết định đình chỉ chiến dịch và chỉ thị lui binh. Kể từ đó, người Đức đánh mất thế chủ động, trong khi Hồng quân dần bước giải phóng miền tây nước Nga. Vào thời điểm Waffen-SS và Wehrmacht hứng chịu tổn thất lớn tại Kursk, Đồng Minh phương Tây phát động tấn công Ý, mở ra mặt trận thứ hai cho Đức.
Cuộc đổ bộ Normandie
thumb|right|Lính thuộc Quân đoàn Ấn Độ của Waffen-SS canh gác bức tường Đại Tây Dương ở Bordeaux, 21 tháng 3 năm 1944. Bị báo động bởi những cuộc oanh tạc của Không quân Đồng Minh ở Saint-Nazaire và Dieppe năm 1942, Hitler chỉ thị xây một phòng tuyến công sự mà ông gọi là bức tường Đại Tây Dương bao trùm hết bờ biển Đại Tây Dương từ Tây Ban Nha đến Na Uy nhằm ngăn ngừa Đồng Minh đổ bộ. Các ụ súng bằng bê tông được xây dựng tại các điểm chiến lược dọc theo bờ biển và trên bãi biển có bố trí cọc gỗ, khối kim loại ba chân, mìn, và chướng ngại chống tăng để trì hoãn tàu đổ bộ tiếp cận bờ và cản trở sự di chuyển của xe tăng. 11 sư đoàn Panzer và Panzergrenadier (bộ binh cơ giới) cùng một vài sư đoàn bộ binh cố định được bố trí tại gần bờ biển. Bốn sư đoàn trong đội hình này là các sư đoàn trực thuộc Waffen-SS.
Sau khi tham chiến ở Liên Xô, SS-Das Reich được chuyển đến miền nam nước Pháp và LSSAH được chuyển đến Bỉ đều được tái trang bị. Một sư đoàn Panzer mới lập khác mang tên SS-Hitlerjugend thì đóng quân ở phía tây Paris. Đa phần nhân sự của sư đoàn được chiêu mộ từ những thành viên 17–18 tuổi của Đoàn Thanh niên Hitler và được hỗ trợ bởi các cựu binh và sĩ quan không ủy nhiệm có kinh nghiệm trận mạc. SS-Hitlerjugend thành lập là dấu hiệu cho thấy Hitler đang tuyệt vọng muốn có thêm lính, nhất là những người vâng lời ông ta một cách mù quáng.
Quân đội Đồng Minh phương Tây, yểm trợ bởi hải quân và không quân, bắt đầu triển khai cuộc đổ bộ lớn nhất lịch sử nhân loại kể từ ngày 6 tháng 6 năm 1944. Sư đoàn Panzer số 21 dưới quyền của Generalmajor (Thiếu tướng) Edgar Feuchtinger bố trí ở phía nam Caen là sư đoàn thiết giáp duy nhất đóng gần bờ biển. Sư đoàn này có tổng cộng 150 xe tăng và 50 pháo tự hành tấn công, có bộ binh và pháo binh yểm trợ. Vào lúc 02:00, Generalleutnant (Trung tướng) Wilhelm Richter, tư lệnh Sư đoàn Bộ binh cố định số 716, lệnh cho Sư đoàn Panzer 21 sẵn sàng phản công. Tuy nhiên, vì sư đoàn này là một phần của đội dự bị thiết giáp, Feuchtinger buộc phải có sự cho phép của OKW (Bộ Tư lệnh) mới có thể ra quân. Phải tới gần 09:00 sáng Feuchtinger mới nhận được chỉ thị từ Bộ Tư lệnh. Tuy nhiên, trong thời gian chờ đợi, ông đã điều một nhóm (có xe tăng) đánh chặn quân Anh ở bờ đông sông Orne. SS-Hitlerjugend bắt đầu được triển khai vào chiều ngày 6 tháng 6 và tham gia phòng thủ ngày hôm sau. Sư đoàn này tham gia trận Caen (tháng 6–tháng 8 năm 1944). Vào ngày 7–8 và 17 tháng 6, người của SS-Hitlerjugend đã sát hại 20 tù binh Canada trong vụ thảm sát ở tu viện Ardenne.
Quân Đồng Minh liên tiếp thu về những thắng lợi quan trọng trong chiến dịch giải phóng nước Pháp. Vào ngày 4 tháng 8, Hitler ra lệnh phản công từ Vire về phía Avranches (Chiến dịch Lüttich). Tham chiến lần này có LSSAH, Das Reich, Sư đoàn Panzer số 2, 116 cùng sự yểm trợ của bộ binh và các bộ phận thuộc Sư đoàn Panzergrenadier SS số 17 Götz von Berlichingen do SS-Obergruppenführer (Thượng tướng SS) Paul Hausser chỉ huy. Theo kế hoạch, lực lượng này sẽ tiến hành tấn công quân Đồng Minh ở gần Mortain, sau đó thì tiến về phía tây qua Avranches để ra bờ biển. Tuy nhiên nước đi này bị quân Đồng Minh đoán trước. Không quân Đồng Minh tiến hành oanh tạc đội hình kết hợp, gây ra những tổn thất kinh hoàng cho Đức. Vào ngày 21 tháng 8, 5 vạn lính Đức, trong đó có đa phần lực lượng LSSAH, bị Đồng Minh vây hãm tại Falaise. Tàn quân LSSAH buộc phải tháo chạy về Đức để tái trang bị. Chiến dịch Normandie kết thúc sau khi Paris được giải phóng vào ngày 25 tháng 8 rồi đơn vị Đức cuối cùng thoái lui về hữu ngạn sông Seine vào cuối tháng đó.
Trận chiến nước Đức
Những đơn vị Waffen-SS còn sót lại sau chiến dịch mùa hè được lệnh rút khỏi tiền tuyến để tái trang bị. Hai trong số đó, Sư đoàn Panzer SS số 9 và Sư đoàn Panzer số 10 SS, được tái trang bị tại khu vực Arnhem của Hà Lan đầu tháng 9 năm 1944. Vào ngày 17 tháng 9, khi quân Đồng Minh tổ chức các cuộc tấn công kết hợp cả không lẫn bộ trong khuôn khổ Chiến dịch Market Garden nhằm giành quyền kiểm soát vùng hạ lưu sông Rhein, họ đã bị các lực lượng Đức tại đây (trong đó có cả Panzer SS số 9 và 10) đẩy lui.
thumb|upright|Bộ binh Đức cuốc bộ ở Ardennes, tháng 12 năm 1944.
Tháng 12 năm 1944, Hitler phát động chiến dịch phản công Ardennes với mục đích tiếp cận Antwerpen và bao vây quân Đồng Minh tại Bỉ. Cuộc tấn công mở màn bằng một trận pháo kích ngay rạng sáng ngày 16 tháng 12. Mũi nhọn của cuộc tấn công lần này là hai đội Panzer tập hợp chủ yếu từ các sư đoàn Waffen-SS. Mọi chuyện diễn ra tương đối suôn sẻ đối với người Đức cho đến khi họ phải băng qua khu vực rừng đồi Ardennes trong điều kiện thời tiết mùa đông. Các đơn vị tác chiến Đức nhanh chóng gặp sự phản kháng mạnh mẽ từ Sư đoàn Bộ binh số 2 và 99 của Hoa Kỳ. Đến ngày 23 tháng 12, thời tiết tốt trở lại, không quân Đồng Minh tiến hành không kích quân Đức và bộ phận tiếp tế gây thiếu hụt nhiên liệu. Tình hình trở nên không mấy khả quan đối với người Đức khi mà bước tiến của họ dần chậm lại và chung cuộc bị chặn đứng. Chiến dịch thất bại khiến Hitler mất khoảng 700 xe tăng, gần như toàn bộ lực lượng cơ động còn sót lại ở phía tây, cũng như phần lớn nhân lực và vật lực dự trữ không thể thay thế.
Trước khi lui binh, SS-Obersturmbannführer (Trung tá SS) Joachim Peiper đã gieo rắc nỗi kinh hoàng cho quân Đồng Minh khi binh lính Waffen-SS dưới quyền của ông thảm sát tù binh Mỹ và dân thường Bỉ không có vũ trang trong vụ thảm sát Malmedy. Sau chiến tranh, binh sĩ SS trực thuộc Kampfgruppe Peiper (Đội tác chiến Peiper) bị đưa ra xét xử vì những hành động tàn bạo mà họ gây ra trong khu vực này. Nhiều thủ phạm bị tuyên án tử hì