✨Chiến dịch Market Garden

Chiến dịch Market Garden

Chiến dịch Market Garden là một chiến dịch quân sự lớn của quân đội Đồng Minh trong Chiến tranh thế giới thứ hai, diễn ra từ ngày 17 tháng 9 năm 1944 tới ngày 25 tháng 9 năm 1944 tại Hà Lan. Mục tiêu của chiến dịch là tạo một hành lang dài 103 kilômét dưới sự kiểm soát của quân Đồng Minh và thiết lập một đầu cầu bắc qua Sông Rhine để có thể tiến công vào lãnh thổ của Đức Quốc Xã. Market Garden bao gồm hai nhiệm vụ chính: Lực lượng lính dù Anh, Mỹ và Ba Lan sẽ nhảy dù và đánh chiếm chín cây cầu (Market), và sẽ được theo sau bởi các lực lượng trên bộ (Garden). Theo kế hoạch dự tính sau khi các cầu được kiểm soát, lục quân Đồng Minh sẽ vượt sông Rhine, tấn công vào sườn của Phòng tuyến Siegfried và bao vây khu công nghiệp trọng yếu Ruhr của Đức.

Chiến dịch đổ bộ đường không được lên kế hoạch và thực hiện bởi Tập đoàn quân Không vận Đồng Minh số 1, và chiến dịch trên bộ sẽ được tiến hành bởi Quân đoàn XXX của Tập đoàn quân số 2 Anh Quốc. Đây là chiến dịch đổ bộ hàng không lớn nhất trong Chiến tranh thế giới thứ hai, và kết quả của chiến dịch đến giờ vẫn còn gây nhiều tranh cãi: Chiến dịch đã thành công trong việc giải phóng các thành phố ở Eindhoven, Nijmegen cùng với nhiều thị trấn khác ở Hà Lan, và hạn chế được các bãi phóng tên lửa V-2. Tuy nhiên, quân Đồng Minh đã không kiểm soát được đầu cầu trên Sông Rhine, và đà tiến công đã bị hoãn lại ở đó.

Bối cảnh

Sau sự thất bại ở Normandie trong mùa hè năm 1944, các lực lượng Đức còn lại đã rút lui dọc nước Pháp và Vùng đất thấp về biên giới Đức vào cuối tháng 8. Ở phía bắc, trong tuần đầu tiên của tháng 9, Cụm tập đoàn quân 21 của Thống chế Bernard Montgomery, đã điều động Tập đoàn quân số 2 của Trung tướng Miles Dempsey tiến công trên con đường chạy từ Antwerp tới biên giới phía bắc của Bỉ, trong khi Tập đoàn quân số 1 Canada của Trung tướng Harry Crerar, đánh chiếm các cảng ở Dieppe, Le Harve và Boulogne-sur-Mer.

Ở phía nam, Cụm tập đoàn quân 12 của Trung tướng Omar Bradley, đang tiến tới gần biên giới Đức thì được lệnh tấn công Aachen cùng với Tập đoàn quân số 1 Hoa Kỳ của Trung tướng Courtney Hodges, để hỗ trợ cho cuộc tiến công của Montgomery vào Ruhr. Trong khi đó, Tập đoàn quân số 3 của Trung tướng George S. Patton, đã tiến về phía đông tới Saarland. Cùng lúc đó, Tập đoàn quân số 6 dưới quyền của Trung tướng Jacob L. Devers đang tiến về phía Đức sau cuộc đổ bộ của họ ở miền nam nước Pháp.

Vấn đề hậu cần

Trước Ngày D, để làm gián đoạn hệ thống hậu cần của Đức, quân Đồng Minh đã tổ chức nhiều đợt không kích đánh phá vào mạng lưới đường sắt ở nước Pháp, mặc dù họ biết rõ điều này cũng sẽ ảnh hưởng tới chính họ trong trường hợp họ tiến công trên đất Pháp. Điều này đã được nhận thức rõ ràng trong quá trình lên kế hoạch cho Chiến dịch Overlord, và hệ thống cảng ở Brittany sẽ được chiếm đóng để tiếp nhận tiếp tế cho các mũi xung kích của quân Đồng Minh ở Pháp. trái|nhỏ|Cảng nhân tạo Mulberry ở ngoài khơi [[Arromanches-les-Bains|Arromanches, Normandie, tháng 9 năm 1944. Đây là một trong những cảng nhập tiếp tế quan trọng của quân Đồng Minh trong quá trình tiến công tại Mặt trận phía Tây.]] Vào tháng 8, nguồn cung ứng cho các lực lượng Đồng Minh vẫn bị hạn chế và bị giới hạn tại các bãi đổ bộ ban đầu của Chiến dịch Overlord, cảng nước sâu Cherbourg ở mũi Bán đảo Cotentin, và một số cảng nhỏ ở Normandie. Mặc dù các hoạt động tiếp tế qua bãi biển đạt nhiều kết quả tốt hơn dự kiến, nhưng thời tiết xấu trong tháng 9 và nước biển dâng cao đã khiến các điểm tiếp tế này dần trở nên vô dụng và kém hiệu quả; và cảng Cherbourg, cảng nước sâu quan trọng ở Normandie, bị quân Đức phá hủy trước khi đầu hàng, chưa để đưa vào hoạt động trở lại lúc đó. Hệ thống cảng ở Brittany, vẫn nằm trong sự kiểm soát của Đức, cũng không còn phù hợp vì chúng nằm dọc theo bờ biển phía Tây nước Pháp, vượt quá tầm tiếp tế cho các cuộc tiến công nhanh chóng của Đồng minh về phía đông.

Vào ngày 4 tháng 9, quân của Montgomery đã chiếm đựoc hệ thống cảng lớn ở Antwerp một cách nguyên vẹn, nhưng khu vực Cửa sông Scheldt dẫn vào cảng vẫn nằm trong sự kiểm soát của quân Đức. Một số người cho rằng việc đánh chiếm thành công Le Havre và Antwerp khiến kế hoạch ban đầu là chiếm đóng các cảng của Pháp xa hơn về phía nam là không cần thiết. Quân đội Canada có thể chiếm được Antwerp sớm hơn nếu Montgomery cho ưu tiên đánh chiếm các đường tiếp cận, nhưng Eisenhower và Montgomery vẫn kiên trì với kế hoạch ban đầu là chiếm được nhiều cảng của Pháp.

Sự thất bại trong việc mở cảng ở Antwerps được coi là "một trong những sai lầm chiến thuật lớn nhất của cuộc chiến". "Sai lầm lớn" này cũng bao gồm việc không bao vây, cắt đứt được hơn 80.000 binh lính của Tập đoàn quân 15 Đức Quốc Xã bị mắc kẹt tại bờ biển phía tây Antwerp, và những họ sau đó được sơ tán về phía bắc qua Cửa sông Scheldt và sau đó là phía đông dọc theo Bán đảo Beveland. Những đơn vị này sau sẽ tham gia các trận chiến giành lấy các cây cầu ở khu vực Eindhoven và Nijmegen. Các cảng quan trọng khác trên bờ Biển Bắc, chẳng hạn như Dunkirk, vẫn nằm trong tay Đức cho đến tháng 5 năm 1945.

Các nỗ lực lớn nhằm mở lại mạng lưới đường sắt ở Pháp đã được tiến hành, và đến cuối tháng 8, 18.000 người, trong đó có hơn 5.000 tù binh chiến tranh, đã tham gia xây dựng các tuyến đường sắt. Sau nhiều lần trì hoãn, chuyến tàu đầu tiên đã tiếp tế thành công các kho quân nhu của Tập đoàn quân số 3 Hoa Kỳ tại Le Mans vào ngày 17 tháng 8. Nhưng những nỗ lực này đã quá muộn để có bất kỳ tác dụng nào đối với các trận chiến diễn ra sau Chiến dịch Cobra và các đợt tiến công tiếp theo vào Pháp. Thay vào đó, tất cả nguồn cung cấp cho quân đội phải được vận chuyển bằng xe tải, và họ không có đủ xe tải cho việc này. Các sư đoàn của Cụm tập đoàn quân 12 đã phải để lại toàn bộ pháo hạng nặng và một nửa số pháo hạng trung của họ ở phía tây Sông Seine để đưa các xe tải của họ đi làm nhiệm vụ tiếp tế cho các đơn vị khác. Cụm tập đoàn quân 21 phải huy động toàn bộ xe tải của hai sư đoàn và phải mượn bốn đại đội xe tải của người Anh để sử dụng. nhỏ|Một đoàn xe thuộc hệ thống "Tốc hành Red Ball" tại một điểm luân chuyển tiếp tế cho quân Đồng Minh. Các đơn vị vận tải của hệ thống "Tốc hành Red Ball" (Red Ball Express) đã nỗ lực để giảm bớt những tác động của tình trạng thiếu phương tiện giao thông nhưng không thể giải quyết được vấn đề hậu cần một cách hoàn toàn. Khi các đà tiến công của quân Đồng Minh dọc nước Pháp và Bỉ vẫn được tiếp tục, khoảng cách giữa các điểm tiếp tế và tiền tuyến ngày càng bị kéo dài, vượt quá phạm vị hoạt động của các xe tải thông thường và dẫn đến việc phải thiết lập các điểm tiếp tế nhiên liệu cho các đoàn vận tải này. Mức tiêu thụ nhiên liệu tăng mạnh do phải mất tới năm gallon nhiên liệu để có thể đưa một gallon nhiên liệu tới các điểm tiếp tế. Các ống dẫn nhiên liệu tiếp tục được lắp đặt và mở rộng để giảm thiệu gánh nặng trên, nhưng việc lắp đặt lại tiêu tốn quá nhiều thời gian để có thể sử dụng trong thời gian ngắn. Đến ngày 28 tháng 8, Khu vực Hậu cần Đồng Minh thông báo không thể đảm bảo việc cung cấp nhiên liệu nữa, và cả Tập đoàn quân số 1 và 3 Hoa Kỳ đều báo cáo họ chỉ còn đủ nhiên liệu để sử dụng trong một ngày. Hơn nữa, việc huy động các phương tiện vận tải của các sư đoàn ngoài mặt trận đi đã làm giảm việc tác chiến và cơ động của các đơn vị ngoài mặt trận.

Vào ngày 30 tháng 8, các chỉ huy Đồng Minh đã đưa ra các quyết định ngừng nhập tiếp tế hoàn toàn, và Cụm tập đoàn quân 21 sẽ phải sử dụng các đơn vị trừ bị ở Normandie tới khi các cảng Dieppe và Boulogne-sur-Mer được đưa vào hoạt động trở lại. Tình hình càng trở nên trầm trọng hơn khi người Anh phát hiện ra hợp kim kim loại bị lỗi được sử dụng cho các piston ở cả động cơ ban đầu và động cơ thay thế của hơn 1.400 xe tải ba tấn của họ - do đó chúng chỉ có khả năng vận chuyển khoảng 800 tấn vận tải mỗi ngày, chỉ đủ để tiếp tế cho hai sư đoàn ngoài mặt trận. Các hoạt động tiến công của Đồng Minh dần bị trì trệ, và điều này đã cho giúp các đơn vị của Đức có những thời gian nghỉ ngơi đầu tiên sau nhiều tuần rút chạy liên tục.

Sự chuẩn bị của quân Đồng Minh

nhỏ|Đại tướng Dwight Eisenhower, Tư lệnh Tối cao Đồng Minh châu Âu. Ảnh chụp năm 1942, lúc này ông đang mang hàm Thiếu tướng. Sau cuộc đổ bộ vào Normandie và sự thắng lợi của Trận Falaise, Đại tướng Dwight Eisenhower, Tư lệnh Tối cao Lực lượng Đồng Minh Châu Âu, đã ủng hộ việc truy đuổi các cánh quân Đức đang rút chạy về về phía bắc và phía đông qua sông Seine, và cuối cùng là đến sông Rhine trên một mặt trận rộng lớn. Dù ông nhất trí về việc ưu tiên cho Montgomery tiến quân về Ruhr, ông vẫn nghĩ rằng điều quan trọng là phải "cho Patton tiếp tục tiến công". Vào tuần đầu tiên của tháng 9 năm 1944, Eisenhower ủy quyền cho Tập đoàn quân số 1 Hoa Kỳ vượt Sông Rhine gần Cologne, Bonn và Koblenz trong khi Tập đoàn quân số 3 Hoa Kỳ vượt qua gần Mannheim, Mainz và Karlsruhe. Việc này đã vấp phải sự tranh cãi do đã đẩy vấn đề hậu cần, vốn đang gặp nhiều vấn đề nghiêm trọng, "dãn ra tới giới hạn của nó". Montgomery cho rằng, với tình hình nguồn cung đang xấu đi, ông sẽ không thể tiến vào Ruhr, nhưng việc "tập trung lại toàn bộ nguồn cung hiện có của chúng ta sẽ đủ để tổ chức một cú thúc thẳng vào Berlin". Dwight D. Eisenhower sau đó đã chấp thuận cung cấp cho Montgomery các nguồn lực bổ sung, chủ yếu là bổ sung đầu máy và toa xe, và ưu tiên cung cấp hàng không. trái|nhỏ|Thống chế [[Bernard Montgomery. Ảnh chụp năm 1943, lúc này ông đang mang hàm Đại tướng.]] Montgomery ban đầu đề xuất Chiến dịch Comet, một chiến dịch đổ bộ hàng không sẽ được tiến hành vào ngày 2 tháng 9 năm 1944. Comet sẽ huy động Sư đoàn Không vận số 1 của Anh, cùng với Lữ đoàn Nhảy dù Độc lập số 1 Ba Lan, làm nhiệm vụ kiểm soát một số cây cầu bắc qua sông Rhine để hỗ trợ cho cuộc tiến công của Đồng minh vào Đồng bằng Bắc Đức. Bộ chỉ huy của Sư đoàn Không vận số 1 của Anh, cùng với Lữ đoàn Nhảy dù số 1 và Lữ đoàn Nhảy dù Độc lập số 1 của Ba Lan sẽ đổ bộ tại Nijmegen, Lữ đoàn Nhảy dù số 1 của Anh sẽ đổ bộ tại Arnhem, và Lữ đoàn Nhảy dù số 4 của Anh sẽ đổ bộ tại Grave, Hà Lan. Tuy nhiên, tình hình thời tiết xấu kéo dài trong vài ngày và sự gia tăng phòng thủ của quân Đức trong khu vực đã khiến Montgomery phải hoãn chiến dịch lại, và cuối cùng đã hủy bỏ chiến dịch vào ngày 10 tháng 9.

Comet sau đó được thay thế bằng một kế hoạch tham vọng hơn, bắt đầu bằng việc vượt qua Phòng tuyến Siegfried bằng cách đi vòng qua điểm cực bắc của nó, sau đó vượt Sông Rhine với lực lượng lớn và bao vây Tập đaòn quân 15 Đức nhờ việc tiến công từ Arnhem tới bờ biển IJsselmeer, đó là Chiến dịch Market Garden. Vào ngày 10 tháng 9, Trung tướng Miles Dempsey, tư lệnh Tập đoàn quân số 2 của Anh, nói với Montgomery rằng ông có nhiều hoài nghi về kế hoạch này và thay vào đó, Dempsey ưu tiên một cuộc tiến công theo hướng đông bắc giữa rừng Reichswald và Ruhr đến Wesel. Montgomery trả lời rằng ông vừa nhận được thông điệp từ London rằng cần phải làm gì đó để vô hiệu hóa các bãi phóng V-2 xung quanh The Hague (vốn đang bắn phá London) và do đó kế hoạch phải được tiến hành.

Tuy nhiên, Market Garden nhanh chóng vấp phải sự miễn cưỡng của Eisenhower. Tức giận, Montgomery đã tức tốc bay đến Brussels vào chiều cùng ngày để gặp Eisenhower. Montgomery yêu cầu Eisenhower phải bỏ cuộc họp và yêu cầu ban tham mưu của ông ở yên trong phòng. Sau đó, Monty sẽ rách các bức điện của Eisenhower trước mặt ông ấy, yêu cầu phải tập trung toàn bộ nguồn lực cho một cú thúc về phía bắc. Monty tức giận và mất kiềm chế tới mức Eisenhower phải vươn tay, vỗ nhẹ vào đầu gối của Montgomery, và nói,

Eisenhower vẫn giữ quan điểm của mình rằng việc tiến công trên một mặt trận rộng lớn sẽ sớm khiến quân Đức sụp đổ. Ông được cho là đã nói với Montgomery rằng tại sao "một cú thúc duy nhất" về phía Berlin sẽ không được chấp nhận:

Những gì ông đề xuất là thế này – nếu tôi tập trung ưu tiên cho ông tất cả các nguồn cung hiện có, ông có thể tiến thẳng (500 dặm) tới Berlin được không ? Ông điên rồ thật đấy Monty. Ông không thể làm được điều đó... Nếu ông có gắng tiến công trên một đoạn đường dài như vậy trong một "cú thúc" duy nhất, thì ông phải ném từ sư đoàn này tới sư đoàn khác vào để bảo vệ hai bên sườn của ông khỏi bị phục kích. Toàn bộ xe tải của ba sư đoàn bộ binh mới đổ bộ vào Châu Âu (Sư đoàn Bộ binh 26, 95 và 104) đã bị trưng dụng và chuyển giao cho hệ thống "Tốc hành Red Ball". Tám đại đội xe tải mới được thành lập và được giao nhiệm vụ Red Lion, một nhiệm vụ tiếp tế đặc biệt cho Chiến dịch Market Garden. Red Lion đã vận chuyển vượt quá kỳ vọng của họ, với hơn 650 tấn hàng hóa tiếp tế mỗi ngày thay vì 500. Một nửa trong số đó được chuyển đến cho Sư đoàn Không vận 82 và 101.

Quyết định tiến hành Market Garden của Eisenhower bị ảnh hưởng bởi mong muốn của ông về việc liên tục tạo áp lực cho các đợt rút quân của Đức. Tuy nhiên, ông cũng chịu ảnh hưởng từ các yêu cầu phải đưa Tập đoàn quân Không vận Đồng Minh số 1 vào thực chiến càng sớm càng tốt. Sau Normandie, các đơn vị không vận đã được rút khỏi mặt trận và đưa về Anh để phục hồi và bổ sung quân số (ngoại trừ một số đơn vị của Sư đoàn Không vận số 6 Anh được giữ lại Normandie tới đầu tháng 9). Tập đoàn quân Không vận Đồng Minh số 1 sau đó được thành lập với hai sư đoàn không vận của Anh, ba sư đoàn không vận của Mỹ và Lữ đoàn Nhảy dù Độc lập số 1 Ba Lan. Trong những tháng tiếp theo, 18 kế hoạch đổ bộ của lính dù đã được soạn thảo nhưng nhanh chóng bị hủy bỏ sau thời gian ngắn, chủ yếu là do lực lượng mặt đất của Đồng Minh tiến công quá nhanh qua các khu vực thả quân dự kiến.

Kế hoạch

nhỏ|Kế hoạch của quân Đồng Minh trong Chiến dịch Market Garden. Chiến dịch Market Garden bao gồm hai chiến dịch nhỏ:

  • Market: lực lượng lính dù thuộc Tập đoàn quân Không vận Đồng Minh số 1 của Trung tướng Lewis H. Brereton sẽ chiếm chín cây cầu và các thị trấn tại Hà Lan, và được đặt dưới quyền Quân đoàn Không vận số 1 của Trung tướng Frederick Browning.
  • Garden: lực lượng mặt đất thuộc Tập đoàn quân số 2 sẽ tiến công về phía bắc. Lực lượng xung kích sẽ là Quân đoàn XXX của Trung tướng Brian Horrocks.

Market

Market sẽ huy động bốn đơn vị lính dù của Tập đoàn quân Không vận Đồng Minh số 1. Sư đoàn Không vận 101 Hoa Kỳ của Thiếu tướng Maxwell D. Taylor, sẽ đổ bộ xuống hai khu vực ở phía bắc Eindhoven, có nhiệm vụ chiếm hai cây cầu ở Son và Veghel ở phía bắc Eindhoven. Sư đoàn Không vận 82 Hoa Kỳ của Chuẩn tướng James M. Gavin, sẽ đổ bộ xuống phía đông bắc, nằm giữa Grave và Nijmegen, và chiếm hai cây cầu ở đó. Sư đoàn Không vận số 1 Anh của Thiếu tướng Roy Urquhart, cùng với Lữ đoàn Nhảy dù Độc lập số 1 Ba Lan của Chuẩn tướng Stanisław Sosabowski, sẽ đổ bộ vào điểm cực bắc của mặt trận, có nhiệm vụ đánh chiếm cầu ở Arnhem và cầu đường sắt ở Oosterbeek. trái|nhỏ|Trung tướng [[Frederick Browning, Tổng chỉ huy Quân đoàn Không vận số 1 Anh, Phó chỉ huy trưởng Tập đoàn quân Không vận Đồng Minh số 1.]] Tập đoàn quân Không vận Đồng Minh số 1 được thành lập vào ngày 16 tháng 8 sau yêu cầu của người Anh về việc thành lập một đơn vị chung để có thể phối hợp với nhau trong các chiến dịch đổ bộ hàng không, một khái niệm được Tướng Eisenhower chấp thuận vào ngày 20 tháng 6. Trung tướng người Mỹ Lewis H. Brereton, được bổ nhiệm làm Chỉ huy trưởng Tập đoàn quân Không vận Đồng Minh số 1 và Trung tướng người Anh Frederick Browning được bổ nhiệm làm Phó chỉ huy. Browning, Chỉ huy trưởng Quân đoàn Không vận số 1, quyết định sẽ đưa toàn bộ ban tham mưu của ông tham gia vào chiến dịch để thiết lập sở chỉ huy thực địa tại Hà Lan.

Đây sẽ là chiến dịch đổ bộ hàng không lớn nhất trong Chiến tranh thế giới thứ hai, với hơn 34.600 lính dù của Sư đoàn Không vận 101, 82 và 1 cùng với Lữ đoàn Nhảy dù Độc lập số 1 Ba Lan tham gia vào trận đánh. 14.589 lính dù sẽ được đổ bộ bằng tàu lượn và 20.011 sẽ tham gia nhảy dù. Ngoài ra, tàu lượn sẽ còn vận chuyển 1.736 phương tiện và 263 khẩu pháo vào trận địa. 3.342 tấn đạn cùng với hàng tiếp tế khác sẽ được đưa vào bằng tàu lượn hoặc được thả dù xuống các bãi thả. Để có thể đưa 36 tiểu đoàn bộ binh nhảy dù và các đơn vị hỗ trợ vào mặt trận, Tập đoàn quân Không vận Đồng Minh số 1 sẽ được 14 liên đoàn thuộc Bộ Tư lệnh Hành quân Vận tải Quân IX chuyên chở, và tăng lên thành 46 liên đoàn sau ngày 11 tháng 9. Lực lượng máy bay vận chuyển bao gồm 1.438 chiếc C-47 Dakota (1.274 chiếc của Không lực Lục quân Hoa Kỳ và 164 chiếc của Không quân Hoàng Gia Anh) và 321 máy bay khác của Không quân Hoàng Gia Anh được cải biên thành máy bay vận tải. Lực lựong tàu lượn Đồng Minh đã được tái thiết và tái bổ sung sau Normandie tới ngày 16 tháng 9, có tổng cộng 2.160 tàu lượn CG-4A Waco, 916 tàu lượn Airspeed Horsa (812 chiếc của Không quân Hoàng Gia Anh và 104 chiếc của Không lực Lục quân Hoa Kỳ) và 64 tàu lượn General Aircraft Hamilcar. Người Mỹ chỉ có 2.060 phi công tàu lượn, nên các tàu lượn của họ sẽ không có phi công phụ, và thay vào đó, sẽ chở thêm một lính dù.nhỏ|Tàu lượn CG-4A Waco thuộc Liên đoàn Vận tải Quân 442 tập trung tại Phi trường Chilbolton trước Chiến dịch Market Garden.Dù đã huy động toàn bộ số máy bay C-47 vào làm nhiệm vụ vận chuyển lính dù và kéo tàu lượn, và Bộ Tư lệnh Hành quân Vận tải Quân IX phải cung cấp thêm máy bay cho hai lữ đoàn dù của Anh, lực lượng khổng lồ này chỉ có thể vận chuyển khoảng 60% lực lượng lính dù vào Hà Lan trong một lần xuất kích. Việc này đã dẫn đến quyết định dàn nhỏ lịch xuất phát của các đơn vị vận chuyển quân cho các ngày liên tiếp. 90% số máy bay của người Mỹ sẽ tham gia thả quân trong ngày đầu tiên và sẽ tham gia kéo tàu lượn trong ngày thứ hai, trong khi toàn bộ các máy bay vận tải của Anh đã được huy động để kéo tàu lượn. Kế hoạch thực hiện hai đợt xuất kích trong ngày đầu tiên đã bị bác bỏ bởi Trung tướng Lewis H. Brereton, dù điều này đã được áp dụng trong Chiến dịch Dragoon.

Ngày 17 tháng 9 sẽ xảy ra hiện tượng nguyệt thực và trong những ngày tiếp theo, trăng non sẽ lặn trước khi trời tối. Học thuyết đổ bộ đường không của Đồng Minh nghiêm cấm tiến hành các chiến dịch đổ bộ lính dù lớn trong điều kiện thiếu ánh sáng, vì vậy Market sẽ được triển khai vào ban ngày. Nguy cơ bị máy bay của Không quân Đức Quốc Xã đánh chặn vào ban ngày được đánh giá là rất thấp do ưu thế trên không của các máy bay chiến đấu Đồng Minh, nhưng vẫn còn những lo ngại về số lượng đơn vị pháo phòng không ngày càng tăng ở Hà Lan, đặc biệt là xung quanh Arnhem. Kinh nghiệm của Brereton về các chiến thuật hoạt động đường không đánh giá rằng việc vô hiệu hóa các hỏa lực phòng không sẽ giúp các máy bay chở quân thực hiện nhiệm vụ mà không gặp tổn thất nghiêm trọng. Chiến dịch đổ bộ vào Miền Nam nước Pháp đã chứng tỏ rằng các chiến dịch đổ bộ hàng không cỡ lớn vào ban ngày là khả thi. Các chiến dịch vào ban ngày, trái ngược với các chiến dịch ở Sicily và Normandie, sẽ có sự chính xác cao hơn về việc điều hướng và cân bằng thời gian giữa các đợt thả quân liên tiếp, có thể giúp tăng gấp ba số quân có thể thả mỗi giờ. Thời gian cần thiết để tập hợp các đơn vị dù trên khu vực thả sau khi hạ cánh sẽ giảm xuống còn hai phần ba. nhỏ|Một chiếc C-47 Dakota đang cất cánh với một tàu lượn CG-4A Waco được kéo phía sau trong Chiến dịch Market Garden, 17 tháng 9 năm 1944. Các máy bay vận tải của Bộ Tư lệnh Hành quân Vận tải Quân IX sẽ phải làm hai nhiệm vụ: thả lính dù và kéo tàu lượn, hai nhiệm vụ không thể thực hiện một cách đồng thời. Mặc dù các chỉ huy sư đoàn không vận đều yêu cầu thực hiện hai lần thả quân trong ngày đầu tiên, ban chỉ huy của Tướng Brereton chỉ lên lịch thực hiện một lần thả duy nhất dựa trên các yêu cầu trong ngày đầu tiên là pháo binh sẽ bắn phá tấp cập các vị trí của quân Đức suốt nửa ngày. Dự báo thời tiết vào chiều ngày 16 tháng 9 rằng các khu vực thả quân đều thông thoáng và có tầm nhìn tốt trong suốt bốn ngày tiếp theo, nên sẽ thực hiện các đợt đổ bộ bổ sung trong ngày đó (vốn sẽ được chứng mình là sai).

Sau một tuần, công tác chuẩn bị cho chiến dịch được tuyên bố hoàn tất, trong khi việc lên kế hoạch và chuẩn bị cho cuộc đổ bộ của lính dù vào Noramandie và Sicily phải mất nhiều tháng trời. Một sử gia của Không quân Hoa Kỳ sau này nhấn mạnh rằng "Market" là chiến dịch đổ bộ đường không duy nhất mà Không lực Lục quân Hoa Kỳ "không có chương trình huấn luyện, không diễn tập, hầu như không tập trận và ... chỉ huấn luyện chiến thuật ở mức độ thấp."

Chuẩn tướng James M. Gavin, chỉ huy Sư đoàn Không vận 82, đã hoài nghi về kế hoạch đổ bộ này. Trong cuốn nhật ký, ông viết rằng, "Kế hoạch này nhìn trông rất là khó. Nếu tôi vượt qua được sự khó khăn này, thì tôi quả là rất may mắn." Ông cũng phê bình Tướng Browning rằng "..thiếu nhận thức vấn đề, ảnh hưởng và khả năng phán đoán của một người lính nhiều kinh nghiệm... nhân viên của ông ta thì quá hời hợt.. Tại sao các đơn vị của người Anh lại mò mẫm như vậy... và điều đó ngày càng trở nên rõ ràng hơn. Các chỉ huy của họ thiếu hiểu biết, không táo bạo và không tiếp thu bài học bằng cách trực tiếp trải qua những khó khăn."

Garden

nhỏ|Trung tướng Brian Horrocks, Chỉ huy Quân đoàn XXX, tháng 8 năm 1944. Garden sẽ huy động chủ yếu Quân đoàn XXX của Trung tướng Brian Horrocks, với lực lượng tiên phong là Sư đoàn Thiết giáp Cận vệ, và Sư đoàn Bộ binh 43 (Wessex) và Sư đoàn Bộ binh 50 (Northumbrian) được điều vào vị trí dự bị. Một lực lượng hùng hậu gồm hơn 50.000 lính, hơn 5.000 xe tăng thiết giáp và xe chuyên dụng các loại, sẽ phải di chuyển trên một con đường duy nhất, và hi vọng sẽ hội quân được ở khu vực của Sư đoàn Không vận 101 trong ngày đầu tiên, Sư đoàn Không vận 82 trong ngày thứ hai và Sư đoàn Không vận số 1 trong ít nhất bốn ngày. Các sư đoàn không vận sau đó sẽ hội quân với Quân đoàn XXX và tham gia hỗ trợ mở đường tiến quân về Arnhem. Hai đơn vị hỗ trợ, Quân đoàn XII của Trung tướng Neil Ritchie và Quân đoàn VII của Trung tướng Richard O'Connor sẽ di chuyển song song và bảo vệ hai bên sườn của Quân đoàn XXX.

Bốn ngày là một khoảng thời gian khá dài đối với lực lượng lính dù để giữ các vị trí mà không có sự hỗ trợ của vũ khí hạng nặng. Mặc dù vậy, trước khi Chiến dịch Market Garden được bắt đầu, Bộ chỉ huy cấp cao của Đồng Minh cho rằng sự kháng cự của quân Đức đã tan rã. Phần lớn Tập đoàn quân 15 của Đức trong khu vực được báo cáo là đang rút chạy khỏi các đợt tiến quân của quân Canada và được cho là không có bất kì đơn vị Panzergruppen nào. Họ cho rằng Quân đoàn XXX sẽ gặp phải kháng cự hạn chế trên Đường Cao tốc 69. Trong khi đó, quân phòng thủ Đức sẽ được dàn trải trên một khu vực dài hơn 100 kilômét (62 dặm) để cố gắng ngăn chặn các lực lượng lính dù, từ Tập đoàn quân số 2 ở phía nam đến Arnhem ở phía bắc.

Sự chuẩn bị của quân Đức

Các đợt hành quân liên tục của quân đội Đức trong suốt tháng 7 và tháng 8 đã khiến tình báo Đồng Minh tin rằng quân Đức không đủ khả năng để bổ sung và hồi phục các đơn vị bị tan rã của họ. Trong hai tháng đó, quân Đức đã trải qua một chuỗi thất bại với tổn thất nặng nề. Từ ngày 6 tháng 6 tới ngày 14 tháng 8, họ đã mất 23.019 binh lính, 198,616 người mất tích hoặc bị bắt làm tù binh và 67.240 người bị thương. Nhiều đơn vị phòng thủ ban đầu ở Normandie đã bị kiệt quệ hoặc bị suy giảm nghiêm trọng đến cuối tháng 8. Khi rút lui về bên giới nước Đức, họ liên tục bị máy bay Đồng Minh tấn công và ném bom, gây nhiều thương vong và nhiều phương tiện bị phá hủy. Những nỗ lực để ngăn chặn bước tiến của Đồng Minh thường không có kết quả vì các cuộc phản công đều tổ chức một cách vội vã và đôi khi, dường như có quá ít đơn vị Đức có thể bám trụ ở bất cứ đâu. Đến đầu tháng 9, tình hình bắt đầu thay đổi. 65.000 binh lính của Tập đoàn quân 15 đã được triệt thoái khỏi khu vực với 225 khẩu pháo và 750 xe tải bằng một đội tàu chở hàng, xà lan và thuyền nhỏ các loại, và họ rút về Hà Lan. trái|nhỏ|Trái qua phải: Thống chế Walter Model, Đại tướng Kurt Student, Trung tướng Wilhelm Bittrich, Thiếu tá Hans-Peter Knaust và Thiếu tướng Heinz Harmel đang bàn bạc kế hoạch tại Arnhem. Adolf Hitler bắt đầu quan tâm tới sự tan rã rõ ràng của Cụm tập đoàn quân B, bao gồm các đơn vị Đức ở Miền Bắc nước Pháp, Bỉ và Hà Lan. Ngày 4 tháng 9, Hitler liên lạc với Thống chế Gerd von Rundstedt, người đã bị chính Hitler cách chức Tổng chỉ huy Mặt trận phía Tây ngày 2 tháng 7 và đang nghỉ hưu, và phục chức cho ông, thay thế Thống chế Walter Model, người mới nắm quyền chỉ huy 18 ngày trước đó và Walter được điều về chỉ huy Tập đoàn quân B. Rundstedt ngay lập tức bắt đầu lên kế hoạch tổ chức phòng thủ dựa trên thông tin mà tình báo của Đức thu được là đang có 60 sư đoàn Đồng Minh trên mặt trận phía Tây, mặc dù trên thực tế Eisenhower chỉ sở hữu 49 sư đoàn.

Model bắt đầu lên kế hoạch để ngăn chặn đà tiến của quân Đồng Minh. Sư đoàn Bộ binh 719, thuộc biên chế Quân đoàn LXXXVIII, được điều động về phía nam và đến Kênh đào Albert và Model yêu cầu quân tiếp viện từ Đức, nói rằng ông cần 25 sư đoàn bộ binh và 6 sư đoàn thiết giáp trấn giữ các vị trí; Model đồng thời đã hình dung ra một tuyến phòng thủ kéo dài từ Antwerp qua Maastricht đến Metz và từ đó đi theo tuyến của Kênh Albert đến Meuse và Phòng tuyến Siegfried. Trong khi đó, Đại tướng Kurt Student, chỉ huy lực lượng lính dù Đức, nhận được lệnh từ Alfred Jodl - Tham mưu trưởng Chiến dịch của Bộ Chỉ huy Tối cao Quân lực Đức, rằng ngay lập tức tiến quân từ Berlin về Hà Lan, để xây dựng tuyến phòng thủ gần Kênh đào Albert, và sẽ phải giữ bằng mọi giá. Phòng tuyến này sẽ do Tập đoàn quân Nhảy dù số 1, một đơn vị mới được thành lập, đảm nhiệm. Các đơn vị lính dù trước đó được dàn trải rải rác khắp nước Đức và Hà Lan và bao gồm các đơn vị mới được thành lập và các đơn vị chắp được thành lập bởi những người sống sót của đơn vị trước đó.

Ngày 4 tháng 9, Sư đoàn Bộ binh 719 bắt đầu tiến công dọc theo kênh đào Albert và nhanh chóng được gia nhập lực lượng dưới sự chỉ huy của Trung tướng Kurt Chill. Mặc dù Chill mới chỉ chính thức chỉ huy Sư đoàn Bộ binh 85, một đơn vị đã chịu thương vong nặng nề trong cuộc rút lui khỏi Normandie, ông đã đảm nhận quyền chỉ huy các đơn vị tàn dư của các Sư đoàn bộ binh 84 và 89 trên đường rút lui. Ban đầu, Chill được lệnh đưa sở đơn vị của mình đến Rhineland để nghỉ ngơi và tiếp viện, Chill bất chấp mệnh lệnh và di chuyển lực lượng của mình đến Kênh đào Albert, liên kết với Sư đoàn 719, và thiết lập phòng thủ tại các cây cầu bắc qua Kênh đào Albert, nơi các nhóm lính nhỏ và lẻ tẻ sẽ được tập trung lại thành các đơn vị chiến đấu cỡ lớn. Đến ngày 7 tháng 9, Sư đoàn Bộ binh 176, một sư đoàn tập hợp những người già và thanh niên với nhiều vấn đề sức khỏe khác nhau, đã điều động đến Phòng tuyến Siegfried, và các đơn vị của Tập đoàn quân Nhảy dù số 1 bắt đầu tiến vào phòng tuyến. Tính đến thời điểm này, lực lượng Đức bao gồm khoảng bảy trung đoàn nhảy dù, với tổng cộng hơn 20.000 lính dù cùng với các đơn vị pháo phòng không và 25 khẩu pháo tự hành và pháo chống tăng. Một vài đơn vị hải quân và SS cũng được đặt dưới sự chỉ huy của Tướng Student, và Hitler đã hứa với Model rằng 200 xe tăng Panther sẽ được chuyển thẳng tới chiến trường; ông đồng thời đã ra lệnh cho toàn bộ xe tăng Tiger, pháo tự hành Jagdpanther và pháo 88 mm hiện có ở Đức điều đồng tới các khu vực phía tây. nhỏ|Trung tướng Wilhem Bittrich, tư lệnh Quân đoàn Panzer SS số 2. Ngày 5 tháng 9, lực lượng của Model được củng cố bởi sự xuất hiện của Quân đoàn Panzer SS số 2, bao gồm Sư đoàn Panzer SS số 9 và 10, dưới sự chỉ huy của Trung tướng Wilhelm Bittrich. Quân đoàn đã suy giảm mạnh về quân số xuống còn khoảng 6.000–7.000 quân, tương đương với 20–30% sức mạnh ban đầu trong quá trình tác chiến liên tục kể từ cuối tháng 6, kể cả trong Trận Falaise; trong đó tổn thất về sĩ quan và hạ sĩ quan đặc biệt cao. Do vậy, Model ra lệnh cho hai sư đoàn này nghỉ ngơi và tái trang bị tại các khu vực "an toàn" phía sau phòng tuyến mới của quân Đức; những khu vực này tình cờ lại là Eindhoven và Arnhem. Do Sư đoàn Panzer SS số 10 sẽ được khôi phục toàn bộ sức mạnh để có thể cung cấp lực lượng dự bị thiết giáp nên Sư đoàn Panzer SS số 9 được lệnh chuyển giao tất cả các thiết bị hạng nặng của mình cho Sư đoàn 10, và Sư đoàn 9 được lệnh sẽ được rút về Đức để tái trang bị lại và bổ sung quân số. Vào thời điểm diễn ra Chiến dịch Market Garden, Sư đoàn Pazner SS số 10 có quân số xấp xỉ 3.000 người; một trung đoàn bộ binh thiết giáp, các tiểu đoàn trinh sát, hai tiểu đoàn pháo binh và một tiểu đoàn công binh, tất cả đều được cơ giới hoá một phần. Trong khoảng thời gian từ ngày 16 đến ngày 17 tháng 9, hai sư đoàn bộ binh từ Tập đoàn quân 15 đã tập hợp tại Brabant, dù được trang bị tốt nhưng bị hao hụt quân số, nên được đưa vào làm dự bị. Gần Eindhoven và Arnhem, nhiều đơn vị mới được thành lập nhờ ghép các đơn vị tàn dư lại. Vài đơn vị SS, bao gồm một tiểu đoàn huấn luyện hạ sĩ quan và một tiểu đoàn bộ binh cơ giới dự bị, đang đựoc chuẩn bị để tham chiến và các đơn vị của Không quân và Hải quân Đức Quốc Xã đang được tập hợp lại thành các Fliegerhorst (phi trường dã chiến) và Schiffsstammabteilung (căn cứ hải quân). Ngoài ra còn một số tiểu đoàn huấn luyện đang được trang bị, một số tiểu đoàn từ Sư đoàn Panzer Hermann Göring và các đơn vị pháo binh, phòng không và cảnh sát dã chiến khác nhau nằm rải rác khắp miền bắc Hà Lan.

Tình báo

Tình báo Đồng Minh

Một số báo cáo về việc chuyển quân của Đức đã được chuyển đến Bộ chỉ huy cấp cao của Đồng minh, bao gồm các thông tin chi tiết về danh tính và vị trí của các đội hình thiết giáp Đức. Bộ phận Giải mã Chính phủ và Trường Cypher (tiền thân của Tổng hành dinh Thông tin-Liên lạc Chính phủ Anh - GCHQ bây giờ) tại Bletchley Park, nơi theo dõi và giải mã các tín hiệu vô tuyến của Đức, đã tạo ra các báo cáo tình báo có tên mã là Ultra. Các báo cáo này sẽ được gửi đến các chỉ huy cấp cao của Đồng Minh, nhưng chỉ gửi đến các cấp chỉ huy cấp Tập đoàn quân và không chuyến cho các cấp nhỏ hơn. Ngày 16 tháng 9, các báo cáo của Ultra chỉ ra việc di chuyển của Sư đoàn Panzer SS số 9 và 10 tới Nijmegen và Arnhem, khiến Eisenhower lo ngại và đã cử tham mưu trưởng của mình, Trung tướng Walter Bedell Smith, tới gặp Montgomery và nêu vấn đề với ông ấy vào ngày 10 tháng 9. Tuy nhiên, Montgomery bác bỏ những lo ngại của Smith và từ chối thay đổi kế hoạch cho cuộc đổ bộ của Sư đoàn Không vận số 1 tại Arnhem. Ngoài ra, còn có những thông tin bổ sung về vị trí của các sư đoàn Panzer Đức tại Arnhem thông các các không ảnh trinh sát được chụp từ một máy bay Spitfire XI từ Phi đội 16 của Không quân Hoàng Gia Anh, cũng như các thông tin từ Quân Kháng chiến Hà Lan. Lo sợ rằng Sư đoàn Không vận số 1 sẽ gặp phải những vấn đề nghiêm trọng nếu đổ bộ vào Arnhem, sĩ quan tình báo của sư đoàn, Thiếu tá Brian Urquhart, đã sắp xếp một cuộc gặp với Browning và thông báo cho ông ta về các đơn vị thiết giáp Đức có mặt tại Arnhem. Browning bác bỏ những thông tin trên và ra lệnh cho bộ phận Y tế của sư đoàn cho Urquhart đi nghỉ ốm với lý do "căng thẳng thần kinh và kiệt sức".

Tình báo Đức Quốc Xã

Thống chế Rundstedt và Model đều nghi ngờ rằng một cuộc tấn công lớn của quân Đồng minh sắp xảy ra, vì họ đã nhận được nhiều báo cáo tình báo về một 'luồng tiếp viện liên tục" cho các lực lượng cánh phải của Tập đoàn quân số 2 của Anh. Sĩ quan tình báo cấp cao của Tập đoàn quân B tin rằng Tập đoàn quân số 2 của Anh sẽ mở một cuộc tấn công theo hướng Nijmegen, Arnhem và Wesel với mục tiêu chính là tiếp cận khu công nghiệp dọc Sông Ruhr. Ông tin chắc rằng lính dù sẽ được sử dụng trong cuộc tấn công này nhưng không chắc họ sẽ được triển khai ở đâu, nghi ngờ là các khu vực dọc theo Phòng tuyến Siegfried ở phía bắc Aachen hoặc thậm chí có thể gần Saar. Tập đoàn quân số 2 sẽ tập hợp các đơn vị của mình tại các Kênh Maas-Scheldt và Albert. Cánh phải của Tập đoàn quân sẽ là lực lượng tấn công, bao gồm chủ yếu là các đơn vị thiết giáp, lực lượng này sẽ buộc vượt qua Maas và cố gắng đột phá đến khu vực công nghiệp Ruhr gần Roermond. Cánh trái sẽ bao phủ sườn phía bắc của Tập đoàn quân bằng cách tiến lên Waal, gần Nijmegen, và cô lập Tập đoàn quân 15 của Đức đóng trên bờ biển Hà Lan.

Lực lượng hai bên

Quân đội Đồng Minh

45x45px Tập đoàn quân Không vận Đồng Minh số 1

Chỉ huy trưởng: Trung tướng Lewis H. Brereton, Không lực Lục quân Hoa Kỳ

30x30px Quân đoàn Không vận số 1 Anh

Chỉ huy trưởng: Trung tướng Frederick Browning; đồng thời là Phó chỉ huy trưởng Tập đoàn quân Không vận Đồng Minh số 1

  • 24x24px Sư đoàn Không vận số 1 - Thiếu tướng Roy Urquhart Lữ đoàn Nhảy dù số 1 - Chuẩn tướng Gerald Lathbury Lữ đoàn Nhảy dù số 4 - Chuẩn tướng John W. Hackett ** Lữ đoàn Đổ bộ Hàng không số 1 - Chuẩn tướng Philip Hugh Whitby Hicks
  • 24x24px Lữ đoàn Nhảy dù Độc lập số 1 Ba Lan - Chuẩn tướng Stanisław Sosabowski
  • 30x30px Sư đoàn Bộ binh 52 (Lowland) - Thiếu tướng E. Hakewill-Smith Lữ đoàn Bộ binh 155 - Chuẩn tướng J. F. S. Mac Laren Lữ đoàn Bộ binh 156 - Chuẩn tướng C. N. Barclay ** Lữ đoàn Bộ binh 157 - Chuẩn tướng J. D. Russel
38x38px Quân đoàn Không vận XVIII

Chỉ huy trưởng: Thiếu tướng Matthew B. Ridgway

(Sư đoàn Không vận 82 được chuyển biên chế vào Quân đoàn Không vận số 1 Anh vào ngày 17 tháng 9 năm 1944, và Sư đoàn Không vận 101 được điều về Quân đoàn Không vận số 1 Anh vào ngày 21 tháng 9 năm 1944).

  • 30x30px Sư đoàn Không vận 82 - Chuẩn tướng James M. Gavin Trung đoàn Bộ binh Nhảy dù 504 - Đại tá Reuben H. Tucker Trung đoàn Bộ binh Nhảy dù 505 - Đại tá William E. Eckman Trung đoàn Bộ binh Nhảy dù 508 - Đại tá Roy E. Lindquist Trung đoàn Bộ binh Tàu lượn 325 - Đại tá Harry Lewis
  • 30x30px Sư đoàn Không vận 101 - Thiếu tướng Maxwell D. Taylor Trung đoàn Bộ binh Nhảy dù 501 - Đại tá Howard R. Johnson Trung đoàn Bộ binh Nhảy dù 502 - Đại tá John H. Michaelis Trung đoàn Bộ binh Nhảy dù 506 - Đại tá Robert F. Sink Trung đoàn Bộ binh Tàu lượn 327 - Đại tá Joseph H. Harper

36x36px Cụm tập đoàn quân 21

Chỉ huy trưởng: Thống chế Bernard L. Montgomery

40x40px Tập đoàn quân số 2

Chỉ huy trưởng: Trung tướng Miles Dempsey

  • 30x30px Quân đoàn XXX - Trung tướng Brian Horrocks (Lực lượng xung kích chính) 30x30px Sư đoàn Thiết giáp Cận vệ - Thiếu tướng Allan H. S. Adair ** Lữ đoàn Thiết giáp Cận vệ số 5 - Chuẩn tướng N. W. Gwatkin Lữ đoàn Cận vệ 32 - Chuẩn tướng G. F. Johnson * Tiểu đoàn 2 (Trinh sát Thiết giáp), Trung đoàn Cận vệ Xứ Wales - Trung tá J. C. Windsor-Lewis 30x30px Sư đoàn Bộ binh 43 (Wessex)* - Thiếu tướng G. I. Thomas Lữ đoàn Bộ binh 129 - Chuẩn tướng G. H. L. Luce Lữ đoàn Bộ binh 130 - Chuẩn tướng B. A. Coad Lữ đoàn Bộ binh 214 - Chuẩn tướng H. Essame 30x30px Sư đoàn Bộ binh 50 (Northumbrian) - Thiếu tướng Lewis O. Lyne ** Lữ đoàn Bộ binh 69 - Chuẩn tướng F. Y. C. Cox Lữ đoàn Bộ binh 151 - Chuẩn tướng D. S. Gordon * Lữ đoàn Bộ binh 231 - Chuẩn tướng Alexander B. G. Stanier 30x30px Lữ đoàn Thiết giáp số 8* - Thiếu tướng George E. Prior-Palmer Trung đoàn Cận vệ Kỵ binh Hoàng Gia 4/7 Trung đoàn Kỵ binh Hussar Hoàng Gia 13/18 Tiểu đoàn 12, Trung đoàn Súng trường Hoàng Gia (KRRC) Lữ đoàn Bộ binh Cơ giới 'Công chúa Irene' Hà Lan - Đại tá A. C. De Ruyter Van Stevenick 30x30px Lữ đoàn Độc lập Bỉ - Trung tá Jean-Baptiste Piron
  • 30x30px Quân đoàn XII - Trung tướng Neil Ritchie (Bảo vệ sườn trái của Quân đoàn XXX) 30x30px Sư đoàn Bộ binh 53 (Welsh) - Thiếu tướng R. K. Ross ** Lữ đoàn Bộ binh 71 - Chuẩn tướng V. Bromfield Lữ đoàn Bộ binh 158 - Chuẩn tướng S. O. Jones * Lữ đoàn Bộ binh 160 - Chuẩn tướng C.F.C. Coleman 30x30pxSư đoàn Bộ binh 15 (Scottish)* - Thiếu tướng C. M. Barber Lữ đoàn Bộ binh 44 - Chuẩn tướng J. C. Cockburn Lữ đoàn Bộ binh 46 - Chuẩn tướng R. M. Villiers Lữ đoàn Bộ binh 227 - Chuẩn tướng E. C. Colville 30x30px Sư đoàn Thiết giáp số 7 - Thiếu tướng Gerald Lloyd-Verney ** Lữ đoàn Thiết giáp 22 - Chuẩn tướng H. T. B. Cracroft Lữ đoàn Bộ binh 131 - Chuẩn tướng E. C. Pepper *** Trung đoàn Kỵ binh Hussar (King's Royal Irish) số 8 - Chuẩn tướng John van der Byl
  • 30x30px Quân đoàn VII - Trung tướng Richard O'Connor (Bảo vệ sườn phải của Quân đoàn XXX) 30x30px Sư đoàn Bộ binh số 3 - Thiếu tướng Lashmer Whistler ** Lữ đoàn Bộ binh số 8 - Chuẩn tướng E. E. Cass Lữ đoàn Bộ binh số 9 - Chuẩn tướng G. D. Browne * Lữ đoàn Bộ binh 185 - Chuẩn tướng E. L. Bols 30x30px Sư đoàn Thiết giáp 11* - Thiếu tướng Philip Roberts Lữ đoàn Thiết giáp 29 - Chuẩn tướng C. B. C. Harvey Lữ đoàn Bộ binh 159 - Chuẩn tướng J. B. Chucher Trung đoàn Kỵ binh Hussar (The King's Royal) 15/19 30x30px Lữ đoàn Thiết giáp số 4** - Chuẩn tướng R. M. P. Carver

Không quân Đồng Minh

  • 30x30px Bộ Tư lệnh Hành quân Vận tải Quân IX - Thiếu tướng Paul L. Williams 28x28px Không đoàn Vận tải Quân 50 24x24px Không đoàn Vận tải Quân 52 ** 24x24px Không đoàn Vận tải quân 53
  • Liên đoàn 38, Không quân Hoàng Gia - Thiếu tướng Lesley N. Hollinghurst
  • 26x26pxLiên đoàn 46, Không quân Hoàng Gia - Chuẩn tướng Lawrence Darvall

Quân đội Đức Quốc Xã

Cụm tập đoàn quân B

Chỉ huy trưởng: Thống chế Walther Model

Tập đoàn quân Nhảy dù số 1

Chỉ huy trưởng: Đại tướng Kurt Student

  • Quân đoàn Panzer SS số 2 - Trung tướng Wilhelm Bittrich 30x30px Sư đoàn Panzer SS số 9 "Hohenstaufen" - Đại tá Walter Harzer 30x30px Sư đoàn Panzer SS số 10 "Frundsberg" - Thiếu tướng Heinz Harmel Tiểu đoàn Panzergrenadier SS (độc lập) 16** - Thiếu tá Sepp Krafft
  • Quân đoàn LXXXVI - Trung tướng Hans von Obstfelder Trung đoàn Nhảy dù số 6 - Trung tá Friedrich August Freiherr von der Heydte Sư đoàn Bộ binh 176 - Thiếu tướng Christian-Johannes Landau Lữ đoàn Panzer 107** - Thiếu tá Berndt-Joachim Freiherr von Maltzahn
Kampfgruppe von Tettau

Chỉ huy trưởng: Trung tướng Hans von Tettau

(Kampfgruppe von Tettau được thành lập vào ngày 17 tháng 9 để đối phó với cuộc đổ bộ của lính dù Đồng Minh tại khu vực Arnhem, nằm dưới sự chỉ huy của Bộ Chỉ huy Quân đội Đức Quốc Xã tại Hà Lan).

  • Trường Hạ sĩ quan Arnhem (gồm ba tiểu đoàn)
  • Trường Huấn luyện Quân cảnh SS
  • Tiểu đoàn Huấn luyện và Bổ sung SS số 4
  • Tiểu đoàn Cảnh giới SS số 3
  • Tiểu đoàn Biên phòng Hải quân 10 (thuộc Hải quân Đức Quốc Xã)
  • Tiểu đoàn Biên phòng Hải quân 6/14 (thuộc Hải quân Đức Quốc Xã)
  • Tiểu đoàn Fliegerhorst số 2 (thuộc Không quân Đức Quốc Xã)
  • Tiểu đoàn Fliegerhorst số 3 (thuộc Không quân Đức Quốc Xã)
  • Trung đoàn Pháo binh 184
  • Trung đoàn Quân cảnh 42
  • Tiểu đoàn SS Eberwein (tiếp viện ngày 19 tháng 9)
  • Kampfgruppe Knoche (tiếp viện ngày 19 tháng 9, gồm ba tiểu đoàn bộ binh và hai tiểu đoàn Flak của Không quân Đức Quốc Xã)
  • Trung đoàn Huấn luyện Hermann Göering (tiếp viện ngày 19 tháng 9, gồm 1.800 binh sĩ, một tiểu đoàn thiết giáp và một tiểu đoàn Flak 20 mm đóng ở Phi trường Deelen).
Tập đoàn quân 15

Chỉ huy trưởng: Đại tướng Gustav von Zangen

  • Quân đoàn LXVII - Trung tướng Otto Sponheimer (không tham chiến trực tiếp) Sư đoàn Bộ binh 346 - Trung tướng Erich Diestel 29x29px Sư đoàn Bộ binh 711 - Thiếu tướng Josef Reichert 24x24px Sư đoàn Bộ binh 719** - Trung tướng Karl Sievers
  • Quân đoàn LXXXVIII - Trung tướng Hans-Wolfgang Reinhard 24x24px Sư đoàn Bộ binh 59 - Trung tướng Walter Poppe Sư đoàn Bộ binh 245 - Chuẩn tướng Gerhard Kegler 24x24px Sư đoàn Bộ binh 712 - Trung tướng Friedrich-Wilhelm Neumann Kampfgruppe Chill - Trung tướng Kurt Chill (Kampfgruppe Chill được thành lập và bổ sung từ ngày 4 tới ngày 9 tháng 9 năm 1944, là tập hợp của các đơn vị được điều động từ Sư đoàn Bộ binh 84, 85, 89 và 719; bao gồm ba tiểu đoàn bộ binh, một tiểu đoàn pháo chống tăng và một tiểu đoàn pháo binh).

*Quân đoàn SS XII - Trung tướng Kurt von Gottberg **Sư đoàn Bộ binh 180 - Thiếu tướng Bernhard Klosterkemper **Sư đoàn Bộ binh 190 - Trung tướng Ernst Hammer 24x24px Sư đoàn Volksgrenadier 363** - Trung tướng Augustus Dettling

Diễn biến

Ngày 1: Chủ nhật, 17 tháng 9 năm 1944

Lính dù Mỹ đổ bộ

nhỏ|Các đội bay C-47 Dakota đang chở lính dù Đồng Minh vào Hà Lan trong Chiến dịch Market Garden, 17 tháng 9 năm 1944. Chiến dịch Market Garden mở màn bằng những thành công cho quân Đồng Minh. Trong đợt thả quân đầu tiên, phần lớn lính dù đều được thả chính xác tại các bãi thả quân mà không gặp nhiều thương vong nghiêm trọng. Đối với Sư đoàn Không vận 82, 89% quân số của sư đoàn được thả trong phạm vi một kilômét của bãi thả quân và 84% số tàu lượn hạ cánh trong phạm vi một kilômét của các bãi đáp; một kết quả trái ngược hoàn toàn với các chiến dịch đổ bộ đêm trước đó của họ khi nhiều đơn vị bị thả rải rác hơn 19 kilômét. Thiệt hại do hỏa lực phòng không và máy bay tiêm kích đánh chặn của Đức là nhỏ, và hỏa lực phòng không của Đức được đánh giá là "mật độ dày nhưng thiếu sự chính xác".

Ở khu vực phía nam, Sư đoàn Không vận 101 chỉ gặp sự kháng cự lẻ tẻ và nhanh chóng chiếm thành công bốn trên năm cây cầu theo nhiệm vụ đề ra. Sau khi bị cầm chân bởi bốn khẩu pháo 88 mm và một ụ súng máy, Trung đoàn Bộ binh Nhảy dù 506 của Đại tá Robert F. Sink nhanh chóng tiến về cầu Son, nhưng cây cầu bất ngờ bị phá sập trước khi lính dù Mỹ kịp tiếp cận cầu. Vào cuối ngày, Sư đoàn Bộ binh 59 của Đức tổ chức phản công vào vị trí của Sư đoàn Không vận 101, nhưng đều bị đánh bật ra. Lính dù Mỹ sau đó tiến về Eindhoven dọc theo khu vực phía nam Son với sự hỗ trợ của Trung đoàn Xe tăng Hoàng Gia 44. trái|nhỏ|Lính dù thuộc Sư đoàn Không vận 82 đang nhảy dù ở khu vực gần Grave, Hà Lan, trong Chiến dịch Market Garden, 17 tháng 9 năm 1944. Ở phía bắc, lính dù thuộc Sư đoàn Không vận 82 được thả xuống gần Grave để chiếm một cây cầu ở đó. Họ cũng chiếm thành công một cây cầu quan trọng bắc qua Kênh Maas-Waal, cầu Heumen. Chuẩn tướng Gavin sau đó cho tập trung quân của mình để chiếm Cao nguyên Groesbeek thay vì chiếm được mục tiêu chính của họ, cầu Nijmegen. Việc đánh chiếm Cao nguyên Groesbeek sẽ thiết lập được một vị trí chốt chặn trên cao để ngăn chặn cuộc tấn công của quân Đức vào Reichswald gần đó và ngăn chặn các hoa tiêu pháo binh Đức lập chốt quan sát ở đây. Tướng Browning cũng đồng tình với quyết định chiếm Cao nguyên Groesbeek trước của Gavin. Gavin muốn chiếm Grave và cầu Kênh Maas-Waal trước cầu Nijmegen, và một khi các mục tiêu trước đó được bảo đảm an toàn, Gavin sẽ cho quân đánh chiếm cầu Nijmegen. Theo hồ sơ của Sư đoàn Không vận 82, trước khi chiến dịch bắt đầu, trong buổi họp ngày 15 tháng 9, Gavin đã nói với Trung tá Roy E. Lindquist - chỉ huy Trung đoàn Bộ binh Nhảy dù 508, rằng phải đưa một tiểu đoàn (Tiểu đoàn 1) đến chiếm cầu Nijmegen ngay sau khi đổ bộ vì Gavin vẫn còn đủ quân để thực hiện nhiệm vụ đánh chiếm các mục tiêu khác.

Ngoài ra, Trung đoàn Bộ binh Nhảy dù 508 còn được giao nhiệm vụ chiếm một đoạn đường dài 600 mét dẫn đến cầu Nijmegen nếu có thể, nhưng sự nhầm lẫn trong vấn đề liên lạc đã khiến nhiệm vụ này bị trì trệ đến gần cuối ngày. Trung đoàn 508 bắt đầu nhiệm vụ đổ bộ lúc 13:28 với quân số 1.922 lính dù. Cuộc đổ bộ thuận lợi và hoàn hảo tới mức hơn 90% quân số sư đoàn đã tập trung đầy đủ lúc 15:00. Dù Tướng Gavin đã lệnh cho Trung đoàn 508 của Trung tá Lindquist "di chuyển và không dừng lại" tới cầu Nijmegen, Sư đoàn 508 vẫn giữ nguyên vị trí khi Gavin liên lạc tới họ lúc 18:00 để hỏi xem họ đã đến chỗ cây cầu chưa.

Trung đoàn 508 cũng gặp phải vấn đề tương tự với lính dù Anh ở Arnhem là họ bị thả tại các vị trí quá xa so với mục tiêu của họ, nhưng nếu Trung đoàn 508 tiến công nhanh chóng về cầu Nijmegen ngay sau khi tập hợp quân số đầy đủ, họ sẽ chỉ phải đối mặt với khoảng 18 lính Đức đang làm nhiệm vụ bảo vệ cầu. Vào thời điểm họ tổ chức đợt tấn công đầu tiên lúc 22:00, các binh lính thuộc Tiểu đoàn Trinh sát SS số 10 đã tiếp viện cây cầu, nâng quân số Đức bảo vệ cầu lên gần 400 người. Cuộc tấn công thất bại và cây cầu vẫn nằm trong sự kiểm soát của quân Đức.

Lính dù Anh đổ bộ

nhỏ|Lính dù Anh thuộc Sư đoàn Không vận số 1 đang nhảy dù xuống Oosterbeek, gần Arnhem, trong ngày đầu tiên của Chiến dịch Market Garden, 17 tháng 9 năm 1944. Lữ đoàn Nhảy dù số 1 và Lữ đoàn Đổ bộ Hàng không số 1, thuộc Sư đoàn Không vận số 1 của Thiếu tướng Roy Urquhart bắt đầu đổ bộ lúc 13:30. Dù họ không gặp nhiều trở ngại khi đổ bộ, nhưng các vấn đề liên quan tới việc lên kế hoạch bắt đầu hiện diện rõ ràng. Chỉ có khoảng 50% quân số của sư đoàn được thả trong đợt xuất kích đầu tiên và chỉ có một nửa trong số đó có thể tiếp cận được cây cầu ở Arnhem. Các đơn vị còn lại phải thiết lập các vị trí phòng thủ xung quanh bãi thả quân qua đêm để chờ đợt thả quân thứ hai vào ngày hôm sau. Do các nguyên nhân trên, họ phải thực hiện các nhiệm vụ đề ra với quân số ít hơn một nửa quân số của một lữ đoàn. Trong khi lính dù cố gắng tiến về phía đông đến Arnhem, một đội trinh sát, theo kế hoạch, sẽ chạy xe Jeep về chỗ cây cầu và tổ chức giữ cầu tới khi các lữ đoàn đến nơi. Đơn vị khởi hành muộn hơn so với lịch trình và sau khi đi được một đoạn ngắn, họ bị chặn lại bởi các chốt phòng thủ của lính Đức và không thể tiến về cây cầu.

Việc thả quân quá xa mục tiêu này đã dẫn đến hậu quả nghiêm trọng. Năm giờ sau khi cuộc đổ bộ của lính Anh bắt đầu, một tiểu đoàn trinh sát của Sư đoàn Panzer SS số 9 đã vượt cầu Arnhem an toàn và tiến về Nijmegen và cây cầu bắc qua Sông Waal.

Hai trong số ba tiểu đoàn của Lữ đoàn Nhảy dù số 1 đã bị chặn lại bởi các đơn vị thuộc một tiểu đoàn huấn luyện của Đức, vốn đã thiết lập các điểm phòng thủ bao quanh các con đường dẫn vào Arnhem. Tiểu đoàn 2 của Trung tá John Frost, khi tiến quân về hướng đông dọc theo một con đường ở phía nam Arnhem, đã phát hiện ra con đường này đã bị quân Đức bỏ trống hoàn toàn. Họ nhanh chóng tiến vào cây cầu vào buổi tối và thiết lập vị trí phòng thủ ở đầu cầu phía bắc. Sở chỉ huy của Lữ đoàn 1, dẫn đầu bởi Thiếu tá Tony Hibbert, cũng tiến vào cùng đơn vị của John Frost. trái|nhỏ|189x189px|Thi thể của Thiếu tướng Friedrich Kussin bên chiếc xe của ông sau khi bị lính dù Anh phục kích gần Arnhem ngày 17 tháng 9 năm 1944. Hai nỗ lực chiếm cầu Arnhem và tiến quân về đầu phía nam đều thất bại Tiểu đoàn 3 mới chỉ thiết lập được vị trí trên một nửa của quãng đường dẫn đến cầu khi họ tạm dừng trong đêm, bên sườn của họ bị tấn công và cần thời gian để bắt kịp. Tiểu đoàn 1 bị chia cắt, phải tiến công vòng qua sườn của quân Đức suốt đêm. Gần tối, Trung đội 5 của Đại úy James A. S. Cleminson, thuộc Đại đội B, Tiểu đoàn 3 đã phục kích một chiếc xe hơi ngụy trang tiến từ Krafft về vị trí họ. Cuộc phục kích đã khiến Thiếu tướng Friedrich Kussin, chỉ huy quân đồn trú Đức tại Arnhem, cùng với phụ tá và tài xế xe thiệt mạng.

Vấn đề liên lạc

Người Anh dự đoán rằng sẽ xảy ra một vài trường hợp mất liên lạc giữa các đơn vị ở cầu và sở chỉ huy sư đoàn, do các vị trí thả quân của họ cách nhau khoảng 13 kilômét và loại radio liên lạc chính của họ - Radio không dây Kiểu 22, có tầm phát hiệu quả là 5 kilômét. Khi chiến dịch bắt đầu diễn ra, toàn bộ radio của các đơn vị lính dù Anh đều không hoat động ở bất kỳ phạm vi nào; một số còn gặp vấn đề khi nhận tín hiệu phát từ vị trí cách đó chỉ vài trăm mét và một số không nhận được tín hiệu gì. Họ phát hiện ra rằng sau khi đổ bộ, các máy radio đã được thay đổi tần số phát, hai trong số đó trùng với tần số của đài phát thanh Anh và Đức. Trong khi liên lạc giữa các đơn vị của Sư đoàn Không vận số 1 rất kém, sự liên lạc trong việc hợp đồng tác chiến và tổ chức phòng thủ giữa các đơn vị Đức lại rất hiệu quả. Nghiên cứu của John Greenacre chỉ ra rằng các lỗi liên lạc vô tuyến tương tự đã từng xuất hiện trong các chiến dịch trước đó của Sư đoàn Không vận số 1, và họ đã được cảnh báo trước về vấn đề này và được cung cấp thêm hệ thống dây liên lạc. Loại radio tốt hơn, WS19HP được vận hành bởi Lữ đoàn Đổ bộ Hàng không số 1 trong ngày 18 tháng 9.

Để có thể liên lạc yêu cầu hỗ trợ trên không, lính dù Anh giờ phải nhờ vào hai đơn vị đặc biệt của Mỹ được thả cùng Sư đoàn Không vận số 1. Các đơn vị này được gọi là "Veep", dùng để chỉ các đơn vị xe Jeep được lắp đặt hệ thống radio VHF SCR-193. Nhưng họ nhanh chóng nhận ra rằng hai tần số mặc định của SCR-193 không thể giúp họ liên lạc được với các máy bay ở trên không, và SCR-193 cũng không thể chỉnh được về tần số thấp hơn. Bất chấp những nỗ lực điều chỉnh lại tần số, một bộ SCR-193 đã bị phá hủy bởi hỏa lực súng cối của Đức và bộ còn lại buộc phải bị bỏ đi trong ngày thứ hai, cắt đứt hoàn toàn cầu nối duy nhất giữa đơn vị mặt đất với các máy bay tiêm kích, ném bom của Không quân Hoàng Gia. Các phi công được lệnh không được tự ý tấn công, vì không có cách nào để nhận biết được bạn và thù từ trên không, cùng với thời tiết xấu, đã dẫn đến việc mất đi phần lớn sự hỗ trợ trên không. Sau chiến tranh, có người cho rằng, có thể Quân đoàn Thông tin-Liên lạc Hoàng Gia Anh không biết hoặc không thông báo trước tới các đơn vị thông tin của sư đoàn khi vấn đề này được phát hiện vào tháng 11 năm 1943. Urquhart sau đó cho sử dụng các cột tín hiệu cao 4 mét (13 ft) nhưng chúng vô dụng do tính chất vật lý của quá trình truyền sóng vô tuyến. Việc thiết lập sai tần số cũng là phần nhỏ của vấn đề này do các đơn vị vận hành không nắm rõ được các yếu tố khoa học trong liên lạc vô tuyến.

Quân đoàn XXX tiến công

nhỏ|Pháo 25-pdr của Tiểu đoàn 430, Trung đoàn Dã chiến 55, đang bắn hỗ trợ cho cuộc tiến công của Trung đoàn Cận vệ Người Ailen tại Kênh đào Maas-Schelde, 17 tháng 9 năm 1944. Sáng ngày 17 tháng 9, Trung tướng Horrocks nhận được thông tin xác nhận rằng chiến dịch sẽ được bắt đầu trong ngày hôm đó. Lúc 12:30, Horrocks nhận được tin rằng đợt lính dù đầu tiên đã khởi hành từ các căn cứ ở Anh và chiến dịch dự định sẽ bắt đầu lúc 14:35. Ba người sau đó phải nấp trong một căn nhà của một gia đình người Hà Lan khi phát hiện ra các toán tuần tra của quân Đức. Do sự vắng mặt của các sĩ quan chỉ huy cấp cao, Trung tá Charles Mackenzie, Tham mưu trưởng sư đoàn, đã tạm thời chỉ huy sư đoàn. trái|nhỏ|Lính dù thuộc Lữ đoàn Đổ bộ Hàng không số 1 đang chiến đấu ở ngoại ô Arnhem, 18 tháng 9 năm 1944. Trong sáng ngày 18, Tiểu đoàn Trinh sát SS số 9, vốn được điều về phía nam để tiếp viện cho Nijmegen, đã quay trở lại Arnhem sau khi nhận ra sự hiện diện của họ ở Nijmegen là không còn cần thiết. Dù được thông báo rõ về sự có mặt của quân Anh tại đầu cầu Arnhem, họ vẫn cố gắng tấn công và vượt qua tuyến phòng thủ của lính dù Anh. Tiểu đoàn Trinh sát SS số 9 chịu tổn thất nặng nề sau hơn hai giờ chiến đấu, 12 xe trong tổng số 22 xe thiết giáp bị phá hủy và chỉ huy đơn vị - Đại úy Viktor Gräbner, tử trận.

Đến cuối ngày, Tiểu đoàn 1 và 3 tiến vào Arnhem, cách cây cầu khoảng hai kilômét với quân số khoảng 200 người, chiếm ⅙ tổng quân số của hai tiểu đoàn. Ph

👁️ 1 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Chiến dịch Market Garden** là một chiến dịch quân sự lớn của quân đội Đồng Minh trong Chiến tranh thế giới thứ hai, diễn ra từ ngày 17 tháng 9 năm 1944 tới ngày 25
**Trận chiến nước Pháp** (), còn được gọi là **Chiến dịch phía Tây** (**'), **Chiến dịch nước Pháp** (, ) và **Nước Pháp thất thủ''', là cuộc xâm lược của Đức nhằm vào Pháp, Bỉ,
Phi cơ [[B-17 Flying Fortress đang bay trên bầu trời châu Âu]] Các giới chức quân sự quan trọng của Mỹ tại châu Âu năm 1945 **Lịch sử quân sự Hoa Kỳ trong Chiến tranh
Quân Đức diễn hành tại Paris **Mặt trận phía tây** của chiến trường châu Âu trong Chiến tranh thế giới thứ hai bao gồm các trận chiến trên lãnh thổ của Đan Mạch, Na Uy,
**Danh sách các trận chiến** này được liệt kê mang **tính địa lý, theo từng quốc gia với lãnh thổ hiện tại**. ## Áo * Trận đồng Marchfeld (**Trận Dürnkrut và Jedenspeigen**) - 1278 *
**Tập đoàn quân Không vận số 1 Đồng minh** (tiếng Anh: _First Allied Airborne Army_) là một đại đơn vị tác chiến của lực lượng Đồng minh tại Mặt trận phía Tây trong Thế chiến
**_A Bridge Too Far_** (tạm dịch: **_Một cây cầu quá xa_**) là một bộ phim chiến tranh sử thi năm 1977 dựa trên cuốn sách cùng tên năm 1974, được đạo diễn bởi Richard Attenborough
**Combat Mission: Battle for Normandy** (CMBN) là tựa game chiến thuật thời gian thực thuộc dòng _Combat Mission_ do hãng Battlefront.com đồng phát triển và phát hành vào năm 2011. Đây là trò chơi mô
**Otto Moritz Walter Model** (24 tháng 1 năm 1891 - 21 tháng 4 năm 1945) là một thống chế của quân đội Đức Quốc xã trong Chiến tranh thế giới thứ hai. Model nổi tiếng
**Trận Aachen** là một trận đánh nằm trong Đệ nhị thế chiến, giữa lực lượng Mỹ ở phe Đồng minh và lực lượng Đức ở phe Trục tại khu vực thành phố Aachen, Đức. Trận
**_Call of Duty: Roads to Victory_** (tạm dịch: **_Call of Duty: Ngả đường chiến thắng_**) là một game bắn súng góc nhìn thứ nhất lấy bối cảnh Thế chiến II dành cho hệ máy cầm
**Wilhelmina** (; _Wilhelmina Helena Pauline Maria_; 31 tháng 8 năm 1880 – 28 tháng 11 năm 1962) là Nữ vương của Hà Lan từ năm 1890 cho đến khi thoái vị vào năm 1948. Bà
**Trận sông Scheldt** là một loạt các chiến dịch quân sự thực hiện bởi quân đoàn số 1 Canada do trung tướng Guy Simonds chỉ huy. Trận đánh diễn ra ở phía bắc nước Bỉ
**Cornelius Ryan** (5 tháng 6 năm 1920 – 23 tháng 11 năm 1974) là một nhà báo người Ireland và là tác giả nổi tiếng với các tác phẩm về lịch sử quân sự lấy
thumb|right|upright=1.35|[[Trận Little Bighorn được biết đến với cái tên Cuộc tử thủ của Custer]] Thảm họa quân sự là một bên thất bại trong trận chiến hoặc chiến tranh dẫn đến việc bên thua cuộc
**_Codename: Panzers_** là một game chiến thuật thời gian thực lấy bối cảnh Thế chiến II được tạo ra bởi nhà phát triển Hungary StormRegion và được phát hành vào năm 2004. Dòng game lại
**Order of War** (tạm dịch: _Mệnh lệnh chiến tranh_) là trò chơi máy tính chiến thuật thời gian thực do Wargaming phát triển và Square Enix phát hành vào ngày 22 tháng 9 năm 2009,
**Battleplan** là một bộ phim tài liệu chiến tranh năm 2006, kiểm tra các chiến lược quân sự khác nhau được sử dụng trong chiến tranh hiện đại kể từ Thế chiến thứ nhất. Nó
**Karl von Rundstedt** hay **Gerd von Rundstedt** (12 tháng 12 năm 1875 – 24 tháng 2 năm 1953) là một Thống chế của quân đội Đức Quốc xã trong thời Thế chiến thứ hai. Ông
phải|Quân [[Liên bang miền Bắc Hoa Kỳ|Liên bang miền Bắc xung phong]]Trong 4 năm của cuộc Nội chiến Hoa Kỳ quân Liên bang miền Bắc và quân Liên minh miền Nam đánh nhau trong nhiều
**_Strategic Command 2: Blitzkrieg_** là tựa game đại chiến lược do hãng Fury Software phát triển và Battlefront.com phát hành vào năm 2006. Là phần thứ hai trong dòng game _Strategic Command_, _Blitzkrieg_ thuộc thể
**Sten** là một trong những khẩu súng tiểu liên rất nổi tiếng được dùng bởi quân đội Anh và tất cả lực lượng kháng chiến ở châu Âu trong suốt thế chiến thứ hai. Loại
**Arnhem** là một đô thị thuộc tỉnh Gelderland, Hà Lan. Đô thị này nằm ở phía đông của Hà Lan. Đây là tỉnh lỵ tỉnh Geldeland và tọa lạc gần sông Nederrijn cũng như gần
**_Schutzstaffel_** (**SS**; cách điệu hóa bằng chữ Rune Armanen là
Ngày **25 tháng 9** là ngày thứ 268 (269 trong năm nhuận) trong lịch Gregory. Còn 97 ngày trong năm. ## Sự kiện *275 – Tacitus được Viện nguyên lão chọn làm hoàng đế mới
Ngày **17 tháng 9** là ngày thứ 260 (261 trong năm nhuận) trong lịch Gregory. Còn 105 ngày trong năm. ## Sự kiện *1224 – Sau cái chết của Tống Ninh Tông, Hữu thừa tướng
**_Band of Brothers_** là một loạt phim truyền hình Mỹ nói về những người lính ở đại đội Easy, Sư đoàn lính dù 101 của Mỹ trong Thế chiến thứ 2, từ cuộc đổ bộ
**Son en Breugel** là một thành phố Hà Lan. Thành phố nằm trong tỉnh Noord-Brabant. Thành phố Son en Breugel có dân số 15.204 người (1/6/20050, diện tích 26,67 km², trong đó có 0,28 km² mặt nước.
Đại tướng **Maxwell Davenport Taylor** (sinh ngày 26 tháng 8 năm 1901, mất ngày 19 tháng 4 năm 1987) là một quân nhân và nhà ngoại giao Hoa Kỳ những năm giữa thế kỷ 20.
- còn được gọi là series **Câu chuyện của Ác ma** là một series Video âm nhạc sử dụng phần mềm tổng hợp giọng nói Vocaloid của Yamaha. Tới thời điểm hiện tại, series đã
Các nhà hoạt động xã hội và nghệ sĩ tham gia các cuộc biểu tình ở Hồng Kông năm 2019 – 2020 đã sử dụng tác phẩm nghệ thuật, hội họa, âm nhạc và các
thumb|upright=1.2|[[Queen Elizabeth II Great Court|Great Court được phát triển vào năm 2001 và bao quanh Phòng đọc.]] **Bảo tàng Anh** là một bảo tàng công cộng dành riêng cho lịch sử loài người, nghệ thuật
**Trường Kinh tế và Khoa học Chính trị London** (tiếng Anh: _The London School of Economics and Political Science_, viết tắt **LSE**), là một cơ sở nghiên cứu và giáo dục công lập chuyên về
right|Biểu tình của những người theo chủ nghĩa xã hội vào [[Ngày Quốc tế Lao động 1912 tại Union Square ở Thành phố New York]] **Chủ nghĩa xã hội** (; ; Hán: 社會主義; Nôm: 主義社會)
**_The Amazing Race 17_** là mùa thứ mười bảy của chương trình truyền hình thực tế của Mỹ _The Amazing Race_. Mùa giải này có 11 đội gồm hai người có quen biết từ trước
**_Pocoyo_** (tiếng Tây Ban Nha: _Pocoyó_, cách điệu là **_POCOYO_**) là một loạt phim truyền hình hài kịch tương tác mầm non của Tây Ban Nha do Guillermo García Carsí, Colman López, Luis Gallego và
**_Plants vs. Zombies_** là một trò chơi điện tử phòng thủ tháp do PopCap Games phát triển và phát hành. Trò chơi ban đầu được phát hành cho nền tảng Windows và Mac OS X,
**Biên Hòa** là thành phố tỉnh lỵ cũ của tỉnh Đồng Nai thuộc vùng Đông Nam Bộ, Việt Nam. ## Địa lý nhỏ|trái|Tượng Nguyễn Hữu Cảnh tại đền thờ ông ở [[Văn miếu Trấn Biên]]