✨Audrey Hepburn

Audrey Hepburn

Audrey Hepburn (; tên khai sinh Audrey Kathleen Ruston; 4 tháng 5 năm 1929 – 20 tháng 1 năm 1993) là một nữ diễn viên người Anh. Là biểu tượng của điện ảnh và thời trang, Hepburn hoạt động trong thời Hoàng kim của Hollywood. Bà xếp ở vị trí thứ 3 trong danh sách những huyền thoại vĩ đại nhất lịch sử chiếu bóng Hoa Kỳ do Viện phim Mỹ bình chọn và được vinh danh tại Đại lộ Danh vọng Hollywood. Sinh ra tại Ixelles, một quận của Brussels, Hepburn trưởng thành tại Bỉ, Anh và Hà Lan, bao gồm khu vực Arnhem bị Đức chiếm đóng trong Chiến tranh thế giới thứ hai, nơi bà làm việc chuyển phát nhanh trong cuộc kháng chiến chống Đức và hỗ trợ gây quỹ. Tại Amsterdam, bà theo học bộ môn kịch múa với Sonia Gaskell, trước khi chuyển đến Luân Đôn vào năm 1948 để tiếp tục chương trình luyện tập cùng Marie Rambert và hát bè tại các chương trình nhạc kịch West End.

Sau khi tham gia nhiều vai phụ trong các bộ phim, Hepburn được tiểu thuyết gia người Pháp Colette chú ý và sắm vai chính trong vở kịch Broadway Gigi (1951). Bà bứt phá bằng vai chính trong Roman Holiday (1953), đem lại cho bà giải Oscar, giải Quả cầu vàng và giải BAFTA. Cùng năm đó, Hepburn thắng giải Tony cho "Nữ diễn viên chính kịch xuất sắc nhất" với diễn xuất trong Ondine. Bà tiếp tục xuất hiện trong nhiều bộ phim thành công, như Sabrina (1954), The Nun's Story (1959), Breakfast at Tiffany's (1961), Charade (1963), My Fair Lady (1964) và Wait Until Dark (1967). Bà lập kỷ lục khi thắng 3 giải BAFTA cho "Nữ diễn viên chính Anh Quốc xuất sắc nhất". Trong sự nghiệp điện ảnh, bà được vinh danh bằng Giải BAFTA Thành tựu trọn đời, giải Quả cầu vàng Cecil B. DeMille, giải thưởng Thành tựu trọn đời của Hội Diễn viên Điện ảnh và giải thưởng Tony đặc biệt. Bà là một trong số ít nghệ sĩ đã giành giải Oscar, Emmy, Grammy và Tony.

Hepburn sau này ít tham gia diễn xuất mà cống hiến nhiều hơn cho UNICEF. Dù đóng góp cho tổ chức này từ năm 1954, bà chỉ mới làm việc tại những cộng đồng khó khăn nhất tại châu Phi, Nam Phi và châu Á giữa năm 1988 và năm 1992. Bà được phong tặng Huân chương Tự do Tổng thống để ghi nhận đóng góp dưới cương vị của một Đại sứ Thiện chí của UNICEF vào tháng 12 năm 1992. Một tháng sau, Hepburn qua đời vì căn bệnh ung thư ruột thừa tại nhà riêng ở Thụy Sĩ, hưởng thọ 63 tuổi.

Cuộc đời và sự nghiệp

1929–38: Gia đình và những năm đầu đời

Hepburn tên thật là Audrey Kathleen van Heemstra Ruston, sinh ngày 4 tháng 5 năm 1929 tại số 48 Rue Keyenveld, quận Ixelles, vùng nói hai ngôn ngữ và là một quận thuộc thủ đô Bruxelles của Bỉ. Cha của bà, Joseph Victor Anthony Ruston (1889–1980) là một người Anh sinh tại Úžice, Bohemia, trong gia đình của Anna Ruston (nhũ danh Wels), mang dòng máu Áo; và Victor John George Ruston, có gốc gác từ Anh Quốc và Áo. Sau Chiến tranh thế giới thứ nhất, Joseph được lãnh sự Anh chỉ định tại Đông Ấn Hà Lan; trước khi kết hôn với mẹ của Hepburn, ông từng có một cuộc hôn nhân với Cornelia Bisschop, một nhà thừa kế người Hà Lan. Dù sinh tại Ruston, ông lại lấy họ Hepburn-Ruston "mang tính quý tộc" hơn, nhầm lẫn mình là hậu duệ của James Hepburn, người chồng thứ ba của Mary I của Scotland. Năm 19 tuổi, Ella kết hôn với nhà quý tộc Hendrik Gustaaf Adolf Quarles van Ufford, một nhà điều hành dầu mỏ tại Batavia, Dutch East Indies, nơi họ sinh sống sau đó.

Cha mẹ của Hepburn kết hôn tại Batavia vào tháng 9 năm 1926. Họ trải qua thêm 3 năm bôn ba giữa Brussels, Arnhem, The Hague và Luân Đôn, trước khi định cư tại khu đô thị Linkebeek vào năm 1932. Thuở thơ ấu của Hepburn rất êm đềm và được chiều chuộng. trong khi cha của bà trở thành một người ủng hộ Đức Quốc xã thực thụ. Joseph đột ngột thoát ly khỏi gia đình vào năm 1935 và ly hôn với Ella vào năm 1938; tính cực đoan gia tăng, và nghiện rượu Sau khi ly hôn, Ella bắt đầu đến thăm Kent thường xuyên hơn.

Sau khi quân Đồng minh hạ cánh vào ngày 6 tháng 6 năm 1944, điều kiện sinh sống trở nên tệ hơn và Arnhem sau đó bị phá hủy trong Chiến dịch Market Garden. Trong lúc nạn đói tại Hà Lan kéo dài đến mùa Đông năm 1944, quân Đức chặn lộ trình tiếp tế thực phẩm và nhiên liệu đến người dân Hà Lan. Hepburn và nhiều người khác tham gia làm bánh quy từ bột mì và bóng đèn tulip; cơ thể bà bị thiếu máu cấp tính, gặp các vấn đề về hô hấp và phù nề, là kết quả của căn bệnh suy dinh dưỡng. Gia đình The van Heemstra cũng bị ảnh hưởng nghiêm trọng về tài chính bởi cuộc chiếm đóng, trong đó, nhiều tài sản của họ—bao gồm nguồn bất động sản chính tại Arnhem—bị phá hủy và thiếu hụt trầm trọng. Quân Đồng minh giải phóng Hà Lan vào tháng 5 năm 1945; Liên hiệp Quốc về Quản trị cứu trợ và phục hồi chức năng bắt đầu cung cấp thức ăn và các yếu phẩm khác.

1945–52: Kịch múa và khởi nghiệp diễn xuất

Sau khi chiến tranh kết thúc vào năm 1945, Hepburn chuyển đến ở cùng mẹ và anh chị em tại Amsterdam, nơi bà bắt đầu luyện tập kịch múa cùng Sonia Gaskell, một biểu tượng hàng đầu trong thể loại kịch múa Hà Lan và Olga Tarassova. Khi tài sản của gia đình bị thất lạc trong chiến tranh, Ella bươn chải bằng việc trở thành đầu bếp và quản gia cho một gia đình giàu có. Hepburn lần đầu tiên tham gia điện ảnh năm 1948, vào vai tiếp viên hàng không trong Dutch in Seven Lessons, một bộ phim giáo dục du lịch do Charles van der Linden và Henry Josephson thực hiện. Cuối năm đó, bà chuyển đến Luân Đôn để nhận học bổng kịch múa cùng Ballet Rambert, sau này diễn ra tại Notting Hill. Bà tự nuôi bản thân bằng công việc người mẫu bán thời gian và bỏ họ "Ruston". Sau khi Rambert bảo rằng tuy Hepburn rất tài năng, chiều cao và thể trạng yếu ớt (hậu quả của căn bệnh suy dinh dưỡng trong thời chiến) có thể khiến bà không thể đạt đến danh hiệu prima ballerina, bà quyết định tập trung vào sự nghiệp diễn xuất.

Khi Ella phải làm nhiều công việc hèn mọn để hỗ trợ gia đình, Hepburn hát bè tại nhiều vở nhạc kịch tại nhà hát West End như High Button Shoes (1948) ở London Hippodrome và Sauce Piquante (1950) ở Nhà hát Cambridge. Trong lúc tham gia kịch nghệ, bà theo học nhiều khóa diễn thuyết cùng diễn viên Felix Aylmer để cải thiện giọng nói. Sau khi được một đạo diễn tuyển vai chú ý lúc trình bày trong Sauce Piquante, Hepburn trở thành một nữ diễn viên tự do của hãng Associated British Picture Corporation. Bà xuất hiện trong nhiều vai nhỏ trong những bộ phim năm 1951 One Wild Oat, Laughter in Paradise, Young Wives' TaleThe Lavender Hill Mob, trước khi sắm vai phụ đầu tiên trong The Secret People (1952) của Thorold Dickinson, nơi bà vào vai một nữ vũ công kịch múa phi thường và tự mình trình diễn tất cả các phân đoạn khiêu vũ.

Hepburn sau đó nhận một vai nhỏ trong bộ phim sử dụng cả tiếng Anh và Pháp, Monte Carlo Baby (Nous Irons à Monte Carlo) (1951), ghi hình tại Monte Carlo. Tình cờ thay, tiểu thuyết gia người Pháp Colette đang ở Hôtel de Paris tại Monte Carlo trong lúc quay và quyết định tuyển Hepburn vào vai chính trong vở kịch Broadway Gigi. Hepburn đến tập dượt và yêu cầu huấn luyện riêng. Khi Gigi mở màn tại Nhà hát Fulton ngày 24 tháng 11 năm 1951, bà nhận nhiều lời khen ngợi cho diễn xuất của mình, cho dù phiên bản sân khấu bị chê trách so với phiên bản tiếng Pháp. Life gọi bà là "một cú hích mạnh" Vở kịch diễn ra trong 219 suất, hạ màn vào ngày 31 tháng 5 năm 1952, Bà xuất bản một thông báo chính thức về quyết định của mình, nói rằng "Khi tôi kết hôn, tôi muốn mình thực sự kết hôn". Vào đầu những năm 1950, bà còn hẹn hò với nhà sản xuất Hair, Michael Butler.

1953–60: Roman Holiday và bứt phá

thumb|upright|left|Hepburn trong buổi thử vai cho [[Roman Holiday (1953), đồng thời được sử dụng làm tư liệu quảng bá]]

Vai chính diện điện ảnh đầu tiên của Hepburn là nàng Công chúa Anne trong Roman Holiday (1953), người bỏ trốn khỏi cuộc sống hoàng gia và phải lòng một phóng viên người Mỹ (Gregory Peck). Nhà sản xuất của phim ban đầu muốn Elizabeth Taylor cho vai diễn, nhưng đạo diễn William Wyler lại ấn tượng với buổi thử vai của Hepburn đến nỗi tuyển bà cho bộ phim này. Wyler nói rằng, "Cô ấy có tất cả những gì tôi tìm kiếm: Duyên dáng, ngây thơ và tài năng. Cô ấy còn rất khôi hài và hết sức tuyệt vời! Chúng tôi đã nói: Đây chính là cô ấy! Họ cũng chỉ muốn đưa tên của Gregory Peck phía trên tựa đề, với dòng chữ "Giới thiệu Audrey Hepburn" in nhỏ bên dưới. Dù vậy, Peck muốn Wyler đưa tên của bà cùng kích cỡ và vị trí với ông, khi cả hai nhận số tiền như nhau: "Bạn phải thay đổi điều đó vì cô ấy sẽ là một ngôi sao lớn còn tôi sẽ trông như một gã đểu."

nhỏ|Hepburn và [[Gregory Peck|Peck cưỡi trên chiếc Vespa du ngoạn khắp Rome, trong Roman Holiday (1953)]] Bộ phim đạt thành công rực rỡ tại phòng vé và đem về cho Hepburn nhiều lời khen ngợi, bất ngờ chiến thắng giải Oscar cho "Nữ diễn viên chính xuất sắc nhất", giải BAFTA cho "Nữ diễn viên chính Anh Quốc xuất sắc nhất" và giải Quả cầu vàng cho "Nữ diễn viên phim chính kịch xuất sắc nhất" năm 1953. Trong bài nhận xét trên tờ The New York Times, A. H. Weiler viết rằng nhân vật Công chúa Anne "là một vẻ đẹp mảnh mai, tinh nghịch và đượm buồn, xen kẽ nét vương giả và nghịch ngợm trong sự mới mẻ, niềm vui đơn giản và tình yêu. Dù mỉm cười mạnh mẽ khi biết cuộc tình kia chấm dứt, cô vẫn là hình tượng cô độc một cách đáng thương phải đối diện với tương lai ngột ngạt."

Hepburn ký kết một hợp đồng gồm 7 bộ phim cùng hãng Paramount với 12 tháng nghỉ ngơi giữa các bộ phim để bà dành thời gian cho tác phẩm sân khấu. Bà xuất hiện trên bìa tạp chí Time vào ngày 7 tháng 9 năm 1953, trở nên nổi tiếng bởi phong cách cá nhân của bà. Sau thành công của Roman Holiday, Hepburn đóng trong bộ phim hài lãng mạn dựa trên câu chuyện của Lọ Lem–Sabrina (1954), nơi hai anh em giàu có (Humphrey Bogart và William Holden) ganh đua để lấy lòng cô con gái ngây thơ của người tài xế (Hepburn). Với vai diễn này, bà giành đề cử cho "Nữ diễn viên xuất sắc nhất" tại lễ trao giải Oscar lần thứ 27 và thắng giải BAFTA cho "Nữ diễn viên chính xuất sắc nhất" trong cùng một năm. Bosley Crowther của The New York Times khẳng định bà là "một quý cô trẻ tuổi với phạm vi biểu hiện sự nhạy cảm và cảm động phi thường chỉ trong một khung hình yếu đuối và mảnh mai. Bà còn tỏa sáng với vai con gái của người tài xế hơn hình tượng nàng công chúa vào năm ngoái và không thể nói được gì hơn."

Hepburn còn trở lại sân khấu năm 1954, vào vai một vị thần nước trong vở kịch Broadway giả tưởng Ondine. Một nhà phê bình trên New York Times có viết "bằng một cách nào đó, Quý cô Hepburn đã truyền tải sự mơ hồ sang ngôn ngữ của sân khấu mà không hề giả dối. Phần trình diễn của bà vô cùng duyên dáng và mê hoặc". Với vai diễn, bà giành giải Tony cho "Nữ diễn viên chính kịch xuất sắc nhất", cùng năm bà thắng giải Oscar cho Roman Holiday.

thumb|Hepburn và [[Mel Ferrer trên trường quay War and Peace (1956)]] Dù không xuất hiện trong bộ phim mới nào vào năm 1955, Hepburn vẫn giành giải Quả cầu vàng cho "Phim yêu thích thế giới" năm đó. Trở thành một trong những diễn viên bội thu tại phòng vé, bà tiếp tục diễn trong hàng loạt phim thành công ở nửa sau thập kỷ, bao gồm vai diễn Natasha Rostova—giành đề cử giải BAFTA và Quả cầu vàng—trong War and Peace (1956), một phiên bản chuyển thể từ cuốn tiểu thuyết của Tolstoy lấy bối cảnh trong cuộc chiến tranh Napoleon, với sự góp mặt của Henry Fonda và người chồng Mel Ferrer. Năm 1957, bà phô bày kỹ năng khiêu vũ trong phim nhạc kịch Funny Face (1957), nơi Fred Astaire, một nhiếp ảnh gia thời trang, biến một cô nhân viên bán hàng sách thành người mẫu thời trang. Cùng năm đó, bà góp mặt trong phim lãng mạn hài, Love in the Afternoon, bên cạnh Gary Cooper và Maurice Chevalier.

Hepburn diễn vai nữ tu Luke trong The Nun's Story (1959), tập trung vào những tranh đấu của nhân vật để trở thành một nữ tu sĩ, với sự góp mặt của Peter Finch. Vai diễn mang về đề cử giải Oscar thứ ba cho Hepburn và giúp bà đoạt giải BAFTA lần thứ hai. Một đánh giá của Variety có viết "Hepburn đã giành được vai diễn điện ảnh khắt khe nhất và có màn diễn xuất hoàn hảo nhất", trong khi Films in Review khẳng định diễn xuất của bà "sẽ khiến bất kỳ ai nghĩ bà không phải là một diễn viên mà chỉ là một biểu tượng tinh vi của tuổi thơ/một người phụ nữ phải im lặng mãi mãi. Vai Sư cô Luke là một trong những màn diễn xuất hay nhất trên màn ảnh." Theo báo cáo, bà dành nhiều giờ liền trong tu viện với những thành viên của Nhà thờ để khiến vai diễn trở nên trung thực hơn, khẳng định bà "tập trung nhiều thời gian, năng lượng và suy nghĩ nhiều hơn những vai diễn khác."

Sau The Nun's Story, Hepburn nhận nhiều đánh giá ảm đạm với diễn xuất cùng Anthony Perkins trong phim lãng mạn ly kỳ Green Mansions (1959). Bà vào vai Rima, một cô gái rừng xanh phải lòng một du khách người Venezuela và The Unforgiven (1960), bộ phim miền Viễn tây duy nhất của bà, với sự xuất hiện của Burt Lancaster và Lillian Gish trong một câu chuyện về phân biệt chủng tộc với một nhóm người Mỹ bản địa.

1961–67: Breakfast at Tiffany's và tiếp tục thành công

Hepburn trong phim [[Breakfast at Tiffany's (1961)]] Hepburn đóng vai một cô gái vô công rỗi nghề chuyên quyến rũ đàn ông trong Breakfast at Tiffany's (1961) của Blake Edwards, dựa trên quyển tiểu thuyết cùng tên của Truman Capote. Capote không đồng ý với nhiều thay đổi trong phiên bản chuyển thể điện ảnh này và muốn chọn Marilyn Monroe vào vai chính, dù ông vẫn khẳng định Hepburn "đã nhập vai một cách tuyệt vời". Holly Golightly được xem là một trong những nhân vật biểu tượng của nền điện ảnh Hoa Kỳ và là vai diễn quyết định của Hepburn. Chiếc váy mà bà mặc trong đoạn mở đầu phim được xem là một biểu tượng của thế kỷ XX và có thể là "chiếc đầm đen nhỏ" nổi tiếng nhất mọi thời đại. Hepburn khẳng định đây là vai diễn "vui nhộn nhất sự nghiệp của tôi" và thú nhận: "Tôi là người hướng nội. Đóng một phụ nữ sôi nổi là điều khó nhất tôi từng làm."

Cùng năm đó, Hepburn còn góp mặt trong bộ phim chính kịch nhiều tranh cãi của William Wyler The Children's Hour (1961), nơi bà và Shirley MacLaine vào vai những giáo viên sống trong rắc rối sau khi một học sinh cáo buộc họ là người đồng tính nữ. trong khi tạp chí Variety khen ngợi "nét nhạy cảm nhẹ nhàng", với "sự bổ sung hoàn hảo" của Hepburn và MacLaine.

Hepburn vào vai một người phụ nữ góa phụ trong phim hài ly kỳ Charade (1963), bên cạnh nam diễn viên Cary Grant. Grant lúc đó 59 tuổi, từng từ chối diễn xuất cùng Audrey trong Roman HolidaySabrina vì khoảng cách tuổi với Hepburn, khi phải diễn nhiều cảnh thân mật với nữ diễn viên chỉ 34 tuổi. Để giải tỏa lo lắng của ông, các nhà làm phim đồng ý đổi kịch bản sao cho nhân vật của Hepburn là người theo đuổi tình cảm của ông. Bộ phim là một trải nghiệm tích cực của ông, khẳng định "Tất cả những gì tôi muốn cho lễ Giáng sinh là một phim khác cùng Audrey." Vai diễn mang về cho Hepburn giải BAFTA cuối cùng trong sự nghiệp và một đề cử nữa cho giải Quả cầu vàng.

Hepburn tái hợp với diễn viên William Holden trong Paris When It Sizzles (1964), một bộ phim hài kịch điên ("screwball comedy"), nơi bà hóa thân vào một trợ lý biên kịch Hollywood trẻ tuổi. Quá trình sản xuất phim gặp nhiều rắc rối: Holden không thể nối lại sự lãng mạn với Hepburn và chứng nghiện rượu của ông bắt đầu ảnh hưởng đến công việc. Sau khi phim bắt đầu khởi quay, bà yêu cầu sa thải nhà quay phim Claude Renoir vì cảm thấy những đoạn phim thô không tốt. nhưng không quá khắt khe với diễn xuất của Hepburn, mô tả bà là "một tạo hóa độc đáo và mới mẻ trong kỷ nguyên của những đường cong phóng đại". Phần tuyển vai cho nhân vật Eliza Doolittle gây nhiều tranh cãi. Julie Andrews, người thể hiện nhân vật này trên phiên bản sân khấu, không được mời vì nhà sản xuất Jack L. Warner nghĩ rằng Hepburn hay Elizabeth Taylor là những lựa chọn "sinh lời" hơn Hepburn ban đầu nhờ Warner đưa vai diễn này cho Andrews nhưng bà mới là người được chọn. Hepburn rất tức giận và rời khỏi trường quay khi biết tin.

Hepburn bị sảy thai hai lần, lần đầu vào tháng 3 năm 1955 và một lần nữa vào năm 1959, khi bà bị ngã trên lưng ngựa trong lúc ghi hình The Unforgiven (1960). Lúc mang thai lần thứ ba, bà nghỉ ngơi cả năm để tránh ảnh hưởng đến thai nhi; con trai của họ, Sean Hepburn Ferrer, hạ sinh ngày 17 tháng 7 năm 1960. Bà bị sảy thai thêm hai lần nữa vào năm 1965 và 1967. Dù có nhiều đồn đoán về cuộc hôn nhân, Hepburn khẳng định bà và Ferrer vẫn hạnh phúc và không thể tách rời, nhưng vẫn thú nhận ông thường hay nổi nóng. Ferrer bị đồn là một người kiểm soát thái quá và thường được nhắc đến là "Svengali" của Hepburn—một cáo buộc khiến Hepburn phì cười. William Holden từng nói rằng "Audrey khiến Mel nghĩ ông ta mang những ảnh hưởng lớn lao đến bà ấy." Sau cuộc hôn nhân kéo dài 14 năm, cả hai ly hôn ngày 5 tháng 12 năm 1968.

1968–93: Tạm vắng bóng và những dự án cuối cùng

Sau năm 1967, Hepburn quyết định dành nhiều thời gian cho gia đình và ít diễn xuất trong nhiều thập niên sau đó. Bà gặp gỡ người chồng thứ hai, nhà tâm lý học người Ý Andrea Dotti trên con tàu Mediterranean cùng bạn bè vào tháng 6 năm 1968. Họ kết hôn ngày 18 tháng 1 năm 1969; con trai của họ, Luca Dotti, sinh ngày 8 tháng 2 năm 1970. Trong lúc mang thai Luca vào năm 1969, bà cẩn thận hơn và nghỉ dưỡng nhiều tháng trước khi hạ sinh đứa bé theo phương pháp mổ lấy thai. Bà muốn có thêm một đứa con nữa, nhưng lại bị sảy thai năm 1974. Bà quyết định trở lại điện ảnh vào năm 1976, đồng diễn xuất với Sean Connery trong bộ phim lịch sử đạt thành công vừa phải, Robin and Marian. Năm 1979, Hepburn tái hợp với đạo diễn Terence Young trong bộ phim sản xuất quốc tế Bloodline, cùng với Ben Gazzara, James Mason và Romy Schneider. Bộ phim là một thất bại về doanh thu. Trên phim trường, bà và diễn viên Gazzara có mối quan hệ tình cảm ngắn ngủi. Cuộc hôn nhân của Dotti-Hepburn kết thúc năm 1982. Sau khi ly hôn, bà chỉ nói chuyện với Dotti hai lần lúc còn sống và vẫn giữ liên lạc với ông.

thumb|right|[[Tổng thống Hoa Kỳ Ronald Reagan cùng Hepburn và Robert Wolders năm 1981]] Vai diễn chính diện cuối cùng của Hepburn nằm trong bộ phim They All Laughed (1981) của đạo diễn Peter Bogdanovich. Bộ phim bị lu mờ bởi cái chết của một trong những diễn viên chính, Dorothy Stratten và chỉ phát hành giới hạn. Sáu năm sau, Hepburn đồng diễn xuất với Robert Wagner trong bộ phim truyền hình Love Among Thieves (1987). Sau khi đóng vai diễn điện ảnh cuối cùng vào năm 1988—một vai nhỏ là một thiên thần trong bộ phim Always của Steven Spielberg—Hepburn chỉ kịp hoàn thiện hai dự án giải trí khác: loạt phim tài liệu PBS Gardens of the World with Audrey Hepburn, được ghi hình tại 7 quốc gia vào mùa Xuân và Hè năm 1990. Một tập phim dài 1 tiếng trình chiếu vào tháng 3 năm 1991, trong khi toàn bộ loạt phim lên sóng một ngày sau khi bà mất, ngày 21 tháng 2 năm 1993. Cho tập phim đầu tiên, Hepburn giành giải Emmy cho "Thành tựu cá nhân nổi bật" sau khi mất. Dự án còn lại là một album kể chuyện mang tên Audrey Hepburn's Enchanted Tales, bao gồm nhiều câu chuyện thiếu nhi kinh điển do bà thu âm vào năm 1992. Album giành giải Grammy "Album kể chuyện trẻ em xuất sắc nhất" sau khi bà mất.

Từ năm 1980 đến khi mất, Hepburn giữ mối quan hệ tình cảm với diễn viên người Hà Lan Robert Wolders, Vào tháng 8 năm 1988, Hepburn đến Thổ Nhĩ Kỳ trong một chiến dịch tiêm chủng. Bà gọi quốc gia này là "ví dụ đáng yêu nhất" trong khả năng của UNICEF." Vào tháng 10, Hepburn đến Nam Phi. Tại Venezuela và Ecuador, Hepburn kể với Quốc hội Hoa Kỳ rằng, "Tôi thấy những ngôi làng và khu ổ chuột nhỏ bé gần núi lần đầu tiên nhận được hệ thống cấp nước bởi một phép màu – và phép màu đó là UNICEF. Tôi nhìn những chàng trai tự xây trường học bằng gạch và xi-măng của UNICEF cung cấp."

Hepburn chu du khắp miền Trung Mỹ vào tháng 2 năm 1989 và gặp nhiều lãnh tụ tại Honduras, El Salvador và Guatemala. Tháng 4, bà đến thăm Sudan và Wolders trong chuyến đi mang tên "Operation Lifeline". Vì cuộc nội chiến mà thức ăn tại các trung tâm y tế bị thiếu hụt. Chiến dịch mang thức ăn đến vùng nam Sudan. Hepburn phát biểu, "Tôi thấy một sự thật hiển nhiên: Đây không là thiên tai mà là thảm họa nhân tạo vì vậy chỉ có một cách khắc phục bởi nhân loại — hòa bình." Tháng 9 năm 1992, 4 tháng trước khi mất, Hepburn đến Somalia. Bà kể lại, "Tôi như bước vào một cơn ác mộng. Tôi từng thấy nạn đói ở Ethiopia và Bangladesh, nhưng chưa bao giờ chứng kiến điều gì như thế này — còn tồi tệ hơn những gì tôi có thể tưởng tượng. Tôi chưa sẵn sàng cho chuyện này." Dù sợ hãi, Hepburn vẫn còn nhiều hy vọng: "Chăm sóc trẻ em không liên quan đến chính trị. Tôi nghĩ có lẽ với thời gian [...] rồi chính trị sẽ được nhân đạo hóa."

Dù đóng góp cho tổ chức này từ năm 1954, kể từ năm 1954 với sự hỗ trợ phát thanh, bà bắt đầu làm việc tại những cộng đồng khó khăn nhất. Vào năm 2002, tại "Tọa đàm đặc biệt về trẻ em" của Liên hiệp Quốc, UNICEF vinh danh nỗ lực nhân đạo của Hepburn bằng việc khánh thành một bức tượng mang tên "The Spirit of Audrey" tại trụ sở của UNICEF ở New York. Dịch vụ cho trẻ em của bà cũng được công nhận thông qua "Audrey Hepburn Society" của Quỹ Hoa Kỳ UNICEF.

Qua đời

thumb|upright|Mộ của Hepburn tại [[Tolochenaz, Thụy Sĩ]] Khi trở về từ Somalia đến Thụy Sĩ vào cuối tháng 9 năm 1992, Hepburn bắt đầu có những dấu hiệu đau dạ dày. Trong lúc những khám nghiệm tại Hà Lan đưa ra kết quả không rõ ràng, một cuộc mổ nội soi diễn ra tại Trung tâm Y tế Cedars-Sinai, Los Angeles vào đầu tháng 11 cho thấy một dạng ung thư ruột hiếm thấy—mang tên pseudomyxoma peritonei— đang phát triển. Do phát triển chậm trong nhiều năm, căn bệnh đã di căn thành một lớp mỏng bao phủ trên ruột non của bà. Sau khi phẫu thuật, Hepburn bắt đầu hóa trị. Một cuộc phẫu thuật vào đầu tháng 12 cho thấy căn bệnh đã lan quá rộng và đang trong giai đoạn cuối.

Hepburn và gia đình trở về quê nhà tại Thụy Sĩ để ăn mừng lễ Giáng sinh cuối cùng. Vì vẫn còn hồi phục sau cuộc phẫu thuật, bà không thể sử dụng máy bay thương mại thông thường. Người bạn lâu năm của bà, Hubert de Givenchy, sắp xếp cùng Rachel Lambert "Bunny" Mellon để đưa bà từ Los Angeles đến Genève trên một chiếc phản lực Gulfstream riêng và chất đầy hoa. Bà dành những ngày cuối cùng tại nhà riêng ở Tolochenaz, Vaud và đủ khỏe để đi bộ trong vườn nhưng cuối cùng lại trở nên yếu dần và nằm nghỉ trên giường.

Đêm 20 tháng 1 năm 1993, Hepburn qua đời trong giấc ngủ tại nhà. Sau khi mất, Gregory Peck xuất hiện trước máy quay và xúc động đọc lại bài thơ yêu thích của bà, "Unending Love" của Rabindranath Tagore. Lễ tang diễn ra tại nhà thờ địa phương ở Tolochenaz vào ngày 24 tháng 1 năm 1993. Maurice Eindiguer, mục sư trong lễ cưới của Hepburn và Mel Ferrer, cũng là người làm lễ rửa tội cho con trai Sean của bà năm 1960, đã làm chủ tọa cho lễ tang, trong khi Prince Sadruddin Aga Khan của UNICEF đọc bài điếu văn. Nhiều thành viên gia đình và bạn bè đến dự lễ tang, bao gồm những người con trai của bà, người tình Robert Wolders, anh kế Ian Quarles van Ufford, những người chồng cũ Andrea Dotti và Mel Ferrer, chủ tịch UNICEF, Hubert de Givenchy và các diễn viên Alain Delon và Roger Moore. Gregory Peck, Elizabeth Taylor và gia đình hoàng gia Hà Lan đã gửi hoa đến buổi lễ. Cuối ngày hôm đó, Hepburn an táng tại Nghĩa trang Tolochenaz.

Di sản

thumb|Ngôi sao của Audrey Hepburn trên [[Đại lộ Danh vọng Hollywood.]]

Di sản ở cương vị một nữ diễn viên và tính cách của Audrey Hepburn vẫn kéo dài sau khi bà mất. Viện phim Mỹ liệt Hepburn ở vị trí thứ 3 trong danh sách những nữ ngôi sao điện ảnh vĩ đại nhất. Bà là một trong những ngôi sao giải trí hiếm hoi giành giải Oscar, Emmy, Grammy và Tony. Trong những năm cuối đời, bà vẫn hiện hữu trong thế giới điện ảnh. Hiệp hội điện ảnh của Trung tâm Lincoln năm 1991 có tưởng nhớ đến bà và bản thân Hepburn thường xuyên giới thiệu tại các lễ trao giải Oscar. Sau khi qua đời, đã có nhiều bộ phim tiểu sử về Hepburn, trong đó có bộ phim chính kịch The Audrey Hepburn Story (2000) do Jennifer Love Hewitt và Emmy Rossum đóng. Ngôi sao của Hepburn trên Đại lộ Danh vọng Hollywood nằm ở số 1652, Vine Street, đặt ngày 8 tháng 2 năm 1960.

Sean Ferrer thành lập Quỹ Trẻ em của Audrey Hepburn để tưởng nhớ mẹ mình không lâu sau khi bà mất. Quỹ Hoa Kỳ UNICEF cũng thành lập nên Audrey Hepburn Society do Luca Dotti làm chủ tịch. Ferrer cũng là người bảo trợ cho Quỹ từ thiện Pseudomyxoma Survivor, hỗ trợ những bệnh nhân mắc căn bệnh ung thư hiếm thấy mà Hepburn trải qua pseudomyxoma peritonei và đại diện cho European Organisation for Rare Diseases năm 2015.

Sau khi mất, hình ảnh của Audrey Hepburn vẫn tiếp tục sử dụng rộng rãi. Năm 2003, Bưu điện Hoa Kỳ đã phát hành con tem Audrey Hepburn, được thiết kế bởi Michael J. Deas. Tại Đức, một con tem tưởng niệm Audrey Hepburn được dự định phát hành vào năm 2001. Sau đó kế hoạch đã bị hủy bỏ vì lý do hình ảnh con tem, Audrey trong Breakfast at Tiffany's với điếu thuốc lá trên môi, bị con trai bà phản đối. Nhưng có vài bản mẫu đã được đóng dấu, gửi đi trong khoảng 2003 tới 2004. Ngay lập tức chúng được các nhà sưu tầm chú ý, trở nên nổi tiếng và đắt giá. Một trong số đó đã được bán đấu giá ngày 7 tháng 10 năm 2005 tại Düsseldorf với giá 135 nghìn euro. Tại Nhật Bản, thượng hiệu Kirin cũng dùng các hình cảnh của Roman Holiday cho chiến dịch quảng bá sản phẩm trà đen. Ở Mỹ, nhãn hiệu thời trang Gap Inc. phát hành một video dựng từ những cảnh trong phim Funny Face vào cuối năm 2006. Cùng với chiến dịch này, Gap cũng đã ủng hộ cho Quỹ Trẻ em của Audrey Hepburn.

Biểu tượng thời trang

Hepburn được ghi nhận bởi những lựa chọn thời trang và diện mạo độc đáo của bà; nhà báo Mark Tungate mô tả bà là một thương hiệu dễ nhận biết. Khi nổi tiếng với vai diễn trong Roman Holiday (1953), công chúng xem Hepburn là một hình tượng nữ tính lý tưởng, hấp dẫn với phụ nữ hơn là đàn ông, so với những vẻ đẹp đẫy đà và gợi cảm hơn của Marilyn Monroe, Grace Kelly và Elizabeth Taylor. Với kiểu tóc ngắn, lông mày rậm, cơ thể gầy và vẻ ngoài hơi "nam tính", bà đại diện cho diện mạo mà giới nữ trẻ dễ dàng sao chép hơn những ngôi sao điện ảnh lộng lẫy khác. Năm 1954, nhiếp ảnh gia thời trang Cecil Beaton gọi Hepburn là "hiện thân của lý tưởng nữ giới mới mẻ trong lòng công chúng" từ tạp chí Vogue. Phiên bản Anh Quốc của tạp chí này thường xuyên báo cáo về phong cách của bà trong suốt một thập kỷ kế đến. Cùng với người mẫu Twiggy, Hepburn được cho là một trong những hình tượng công chúng chủ chốt đưa vẻ đẹp gầy trở nên thời thượng. Học giả Rachel Moseley cho rằng "những chiếc quần đen nhỏ, hài đế bằng theo kiểu ba-lê và áo nịt len đen" là các trang phục nổi tiếng của bà, ngoài bộ đầm đen, nhận thấy phong cách này mới mẻ vào thời điểm đó, khi phụ nữ vẫn mặc váy và giày cao gót hơn là quần và giày đế bằng. Dù ban đầu thất vọng khi biết "Quý cô Hepburn" không phải là Katharine Hepburn như ông vẫn nghĩ, Givenchy và Hepburn đã xây dựng một tình bạn lâu dài. Bà trở thành nàng thơ của ông Bà còn là gương mặt cho sản phẩm nước hoa đầu tiên của Givenchy, L'Interdit năm 1957. Ngoài Givenchy, Hepburn còn được xem là người tăng doanh số cho chiếc áo khoác Burberry khi mặc một lần trong phim Tiffany's và liên quan đến hãng giày dép Ý Tod's.

Trong đời sống riêng tư, Hepburn thường mặc những bộ quần áo giản dị và dễ chịu, khác với những trang phục may đo cao cấp bà mặc trong những sự kiện công chúng và trên màn ảnh. Dù được ngưỡng mộ bởi vẻ đẹp của mình, Hepburn chưa bao giờ xem mình là một người quyến rũ, khẳng định "bạn có thể nói rằng tôi ghét bản thân mình trong một thời gian nhất định."

Ảnh hưởng của Hepburn dưới vai trò của một biểu tượng phong cách tiếp tục diễn ra trong nhiều thập kỷ sau khi bà đạt đến đỉnh cao sự nghiệp trong những năm 50, những năm 60. Moseley nhận thấy sau khi qua đời năm 1993, bà được người đời tôn vinh như một biểu tượng của thời trang, khi những tạp chí thường đưa ra lời khuyên đến người đọc để tái tạo vẻ ngoài của bà, trong khi các nhà tạo mẫu xem bà như một nguồn cảm hứng. và "người phụ nữ đẹp nhất thế kỷ XX" theo những cuộc bình chọn công khai của Evian và QVC. Năm 2015, Samsung bình chọn bà là "người Anh phong cách nhất mọi thời đại". Những trang phục của bà mang về số tiền lớn trong nhiều buổi đấu giá: Một trong những chiếc đầm đen nhỏ do Givenchy thiết kế cho Breakfast at Tiffany's được nhà đấu giá Christie's bán với giá tiền kỷ lục 467.200 bảng Anh vào năm 2006.

Sự nghiệp diễn xuất

nhỏ|Audrey Hepburn năm 1956 nhỏ|Hình vẽ Audrey Hepburn trên [[Tây Môn Đình, Đài Loan]]

Roman Holiday (1953) Sabrina (1954) War and Peace (1956) Love in the Afternoon (1957) Funny Face (1957) Green Mansions (1959) The Nun's Story (1959) The Unforgiven (1960) Breakfast at Tiffany's (1961) The Children's Hour (1961) Charade (1963) Paris When It Sizzles (1964) My Fair Lady (1964) How to Steal a Million (1966) Two for the Road (1967) Wait Until Dark (1967) Robin and Marian (1976) Bloodline (1979) They All Laughed (1981) Always (1989)

👁️ 5 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Audrey Hepburn** (; tên khai sinh **Audrey Kathleen Ruston**; 4 tháng 5 năm 1929 – 20 tháng 1 năm 1993) là một nữ diễn viên người Anh. Là biểu tượng của điện ảnh và thời
**Con tem Audrey Hepburn** là một con tem của Đức tưởng niệm diễn viên huyền thoại Audrey Hepburn đã không phát hành. Nhưng có một vài bản mẫu vẫn được đóng dấu, gửi qua bưu
**Đầm Givenchy đen của Audrey Hepburn** là một chiếc đầm đen nhỏ do Hubert de Givenchy thiết kế, xuất hiện cùng Audrey Hepburn trong mở đầu của bộ phim hài lãng mạn _Breakfast at Tiffany's_
thumb|upright=1.1|Hepburn hóa thân thành Công chúa Ann trong _[[Roman Holiday_]] Audrey Hepburn (4 tháng 5 năm 1929 – 20 tháng 1 năm 1993) là nữ diễn viên người Vương quốc Liên hiệp Anh hoạt động
Những câu chuyện về cuộc đời và sự nghiệp vĩ đại của các danh nhân sẽ đem đến cho các em những ước mơ và hoài bão cao đẹp Biểu tượng thời trang, nữ minh
Những câu chuyện về cuộc đời và sự nghiệp vĩ đại của các danh nhân sẽ đem đến cho các em những ước mơ và hoài bão cao đẹp Biểu tượng thời trang, nữ minh
**4238 Audrey** (1980 GF) là một tiểu hành tinh vành đai chính được phát hiện ngày 13 tháng 4 năm 1980 bởi Antonín Mrkos ở Klet. Nó được đặt theo tên the actress Audrey Hepburn.
Dòng #Audacious với chất son senimatte - Bán lì - tức là son lỳ có dưỡng, dù vẫn lên hiệu ứng lỳ nhưng không gây khô môi. Ai đã dùng qua các loại son thỏi
ới phương châm hoàn thiện vẻ đẹp của phụ nữ bằng các sản phẩm chăm sóc da hoàn hảo và hương thơm quyến rũ,Luxđã không ngừng nỗ lực nghiên cứu và cải thiện sản phẩm
Dòng #Audacious với chất son senimatte - Bán lì - tức là son lỳ có dưỡng, dù vẫn lên hiệu ứng lỳ nhưng không gây khô môi. Ai đã dùng qua các loại son thỏi
Nước Hoa chiết chai 5-10ml từ chai to 100ml Valentino Uomo EDTNước Hoa Valentino UomoLấy cảm hứng từ một ngày nắng đẹp tại Venice – thành phố màu nhiệm nhất châu Âu với vẻ đẹp
**_Roman Holiday_** là một bộ phim hài lãng mạn năm 1953. Bộ phim này đã giới thiệu hình ảnh của huyền thoại điện ảnh gốc Vương quốc Liên hiệp Anh và Bắc Ireland Audrey Hepburn
**Giải BAFTA cho nữ diễn viên chính xuất sắc nhất** là một giải BAFTA được trao hàng năm cho nữ diễn viên chính trong một phim, được bầu chọn là xuất sắc nhất trong năm.
**Giải Quả cầu vàng cho nữ diễn viên phim ca nhạc hoặc phim hài xuất sắc nhất** là một giải Quả cầu vàng được Hiệp hội báo chí nước ngoài ở Hollywood trao hàng năm
**Giải Quả cầu vàng cho nữ diễn viên phim chính kịch xuất sắc nhất** là một Giải Quả cầu vàng được Hiệp hội báo chí nước ngoài ở Hollywood trao hàng năm cho nữ diễn
**_Breakfast at Tiffany's_** (Tạm dịch: _Điểm tâm ở Tiffany's_) là một bộ phim Mỹ năm 1961 với các diễn viên chính Audrey Hepburn và George Peppard, cùng với Patricia Neal, Buddy Ebsen, Martin Balsam, và
"**Moon River**" là một bài hát do Johnny Mercer (lời) và Henry Mancini (nhạc) sáng tác, được Audrey Hepburn thể hiện trong _Breakfast at Tiffany's_ (1961) và giành Giải Oscar cho "Ca khúc phim hay
**_Sabrina_** là một bộ phim năm 1954 đạo diễn Billy Wilder và Ernest Lehman, chuyển thể từ vở kịch của Samuel A. Taylor _Sabrina Fair_ (Ở Anh, bộ phim mang tên **_Sabrina Fair_**). Bộ phim
**Cherilyn Sarkisian** (sinh ngày 20 tháng 5 năm 1946), thường được biết đến với nghệ danh **Cher** (), là một nữ ca sĩ, diễn viên và nhân vật truyền hình người Mỹ. Thường được giới
**Sir Thomas Sean Connery** (sinh ngày 25 tháng 8 năm 1930 - mất ngày 31 tháng 10 năm 2020) là một cựu diễn viên và nhà sản xuất phim người Scotland. Ông được biết đến
**Giải của Hội phê bình phim New York cho nữ diễn viên xuất sắc nhất** (_New York Film Critics Circle Award for Best Actress_) là một trong các giải thưởng của Hội phê bình phim
**_Charade_** là một bộ phim hài của đạo diễn Stanley Donen được phát hành ngày 5 tháng 12 năm 1963 tại Mỹ. ## Nội dung right|thumb|Grant và Hepburn. Regina (Audrey Hepburn) đang sẵn ý từ
nhỏ **Mèo nhị thể**, còn có thể gọi là _mèo hai màu lông_, là một con mèo có lông trắng kết hợp với một số màu lông khác, ví dụ như màu đen hoặc đốm.
**Humphrey DeForest Bogart**, thường được biết tới với tên **Humphrey Bogart** (25 tháng 12 năm 1899 – 14 tháng 1 năm 1957) là một diễn viên người Mỹ. Tuy chỉ một lần giành Giải Oscar
**Đại sứ thiện chí của Quỹ Nhi đồng Liên Hợp Quốc** là những người làm việc thay mặt cho Quỹ Nhi đồng Liên Hợp Quốc (UNICEF). Tổ chức Sứ mệnh toàn cầu (_Global Embassy_) [http://www.globalembassy.org]
**William Wyler** (01/07/1902 – 27/07/1981) là một đạo diễn tiên phong về phim ảnh, nhà sản xuất và biên kịch người Mỹ gốc Alsace (thuộc Pháp). Ông là một trong những biểu tượng của nền
**Lông mày** (hay còn gọi là **chân mày**, **mày**) (tiếng Anh: _eyebrow_) là một dải lông mảnh rậm kéo dài khoảng 1,5 đến 2cm bao phía trên mắt theo hình dạng của biên thấp của
nhỏ|Minh họa người đàn ông mặc Tuxedo **Tuxedo** (phiên âm: /tʌkˈsiː.dəʊ/) là trang phục bán chính thức cho nam giới hoàn toàn với tông màu đen truyền thống và được khuyến nghị sử dụng thắt
"**Manic Pixie Dream Girl**" (**MPDG**) là một kiểu nhân vật thường thấy trong các phim nhựa. Nhà phê bình Nathan Rabin sau khi xem xong bộ phim _Elizabethtown_ (2005) đã gọi nhân vật của Kirsten
**Grace Patricia Kelly** (12 tháng 11 năm 1929 – 14 tháng 9 năm 1982), hay **Thân vương phi Grace**, là một nữ diễn viên người Mỹ, sau này bà trở thành Thân vương phi xứ
[[Auguste và Louis Lumière, "cha đẻ" của nền điện ảnh]] **Lịch sử điện ảnh** là quá trình ra đời và phát triển của điện ảnh từ cuối thế kỉ 19 cho đến nay. Sau hơn
**Danh sách 100 phim lãng mạn của Viện phim Mỹ** (tiếng Anh: _AFI's 100 Years... 100 Passions_) là một trong các danh sách được Viện phim Mỹ (_American Film Institute_, viết tắt là _AFI_) lập
Đến nay, đã có 12 người từng giành cả bốn giải thưởng nghệ thuật thường niên lớn nhất Hoa Kỳ bao gồm giải Emmy, giải Grammy, giải Oscar và giải Tony. Những người này được
**Louvre** (, phát âm là _Lu-vơ_), hoặc **Viện bảo tàng Louvre** ( ), là một viện bảo tàng nghệ thuật và di tích lịch sử tại Paris, Pháp. Có vị trí ở trung tâm lịch
Nhà thờ Sacré-Cœur Paris **Vương cung thánh đường Sacré-Cœur** (tiếng Pháp: _Basilique du Sacré-Cœur_, còn gọi là _Nhà thờ Thánh Tâm_) là một nhà thờ Công giáo nổi tiếng của Paris. Nằm trên đỉnh đồi
Ngày **20 tháng 1** là ngày thứ 20 trong lịch Gregory. Còn 345 ngày trong năm (346 ngày trong năm nhuận). ## Sự kiện * 250 – Hoàng đế Decius bắt đầu một cuộc đàn
Ngày **4 tháng 5** là ngày thứ 124 (125 trong năm nhuận) trong lịch Gregory. Còn 241 ngày trong năm. ## Sự kiện *1415 – Các nhà cải cách tôn giáo John Wycliffe và Jan
**Guyana** (phát âm tiếng Anh là ; thỉnh thoảng được Anh hoá thành hay , Tiếng Việt: Guy-a-na), tên chính thức '''Cộng hoà Hợp tác Guyana Trong Chiến tranh thế giới thứ hai, Hoa Kỳ
**Ava Lavinia Gardner** (24 tháng 12 năm 1922-25 tháng 1 năm 1990)là một nữ diễn viên người Mỹ gốc Ireland và gốc Anh, đã được đề cử nhận Giải Oscar và được ghi tên trong
**Shirley MacLaine** (sinh ngày 24 tháng 4 năm 1934) là một nữ diễn viên múa, kịch nghệ và điện ảnh Hoa Kỳ, đã đoạt giải Oscar cho nữ diễn viên chính xuất sắc nhất. Bà
**Victoria Abril** tên khai sinh là Victoria Merida Rojas, sinh ngày 4.7.1959 tại Madrid, là một nữ ca sĩ kiêm diễn viên điện ảnh Tây Ban Nha. Chị nổi tiếng quốc tế về vai diễn
**Khách sạn Ritz** là một khách sạn nổi tiếng và đặc biệt sang trọng ở Paris. Nằm ở số 15, quảng trường Vendôme thuộc quận 1, khánh sạn này được mở vào ngày 1 tháng
**_Titanic_** là một bộ phim điện ảnh Mỹ thuộc thể loại thảm họa – lãng mạn – sử thi – chính kịch ra mắt vào năm 1997 do James Cameron làm đạo diễn, viết kịch
300x300px|thumb|Từ trái, theo chiều kim đồng hồ: [[Ramzi Yousef và những kẻ khủng bố Hồi giáo khác cho nổ một quả bom xe tải trong nhà để xe ngầm của Trung tâm Thương mại Thế
thumb|Khăn lụa trong một cửa hàng Givenchy ở [[Epcot]] thumb|Bày trí trong một buổi ra mắt nước hoa năm 2007 **Givenchy** () là một nhãn hiệu thời trang, dầu thơm và mỹ phẩm ở Pháp.
**Phim Viễn Tây** () là thể loại điện ảnh chuyên khai thác những số phận bôn tẩu giang hồ lấy cảm hứng từ thời kì Tây tiến, nay được mở rộng thành dòng văn nghệ
**Susan Alexandra Weaver** (sinh ngày 8 tháng 10 năm 1949), thường được biết đến với nghệ danh **Sigourney Weaver**, là một nữ diễn viên người Mỹ. Ra mắt lần đầu tiên với một vai diễn
**"I'm Your Baby Tonight"** là một bài hát của nghệ sĩ thu âm người Mỹ Whitney Houston nằm trong album phòng thu thứ ba cùng tên của cô (1990). Nó được phát hành như là
**Cheer Up** là một bài hát được thu âm bởi nhóm nhạc nữ Hàn Quốc Twice, ca khúc chủ đề của EP thứ hai của nhóm là Page Two. Bài hát được JYP Entertainment phát