✨Chiến dịch Lublin–Brest
Chiến dịch Lyublin–Brest hay Chiến dịch Lublin-Brest là một chiến dịch quân sự diễn ra trong Chiến tranh Xô-Đức do Hồng quân Liên Xô tổ chức nhằm tiếp tục tấn công vào Cụm tập đoàn quân Trung tâm (tái lập) của quân đội Đức Quốc xã. Chiến dịch này là một phần của chuỗi chiến dịch giải phóng Byelorussia mang mật danh "Bagration", kéo dài từ ngày 18 tháng 7 đến 2 tháng 10 năm 1944. Tham gia chiến dịch là Phương diện quân Byelorussia 1 do Nguyên soái K. K. Rokossovsky chỉ huy. Đối đầu với phương diện quân là phần lớn Cụm Tập đoàn quân Trung tâm và một số quân đoàn trên cánh Bắc của Cụm Tập đoàn quân Bắc Ukraina. Chiến dịch Lublin-Brest là một thắng lợi lớn của quân đội Liên Xô khi họ đã hoàn toàn quét sạch quân Đức khỏi miền tây nam Byelorussia và giải phóng một phần lãnh thổ Đông Ba Lan, thiết lập một số bàn đạp vượt sông trên bờ Tây sông Wisla và áp sát thủ đô Warszawa của Ba Lan.
Trong thời gian diễn ra chiến dịch, ngày 21 tháng 7 năm 1944, tại thành phố Khelm vừa được quân đội Liên Xô giải phóng, những người yêu nước cánh tả Ba Lan đã bầu ra Ủy ban Giải phóng Dân tộc Ba Lan, có chức năng như một Chính phủ lâm thời Ba Lan. Tham gia Ủy ban này có các thành viên của Đảng Công nhân Ba Lan, Đảng Xã hội Ba Lan, Đảng Nông dân Ba Lan và Đảng Dân chủ Ba Lan. Từ ngày 27 tháng 7 năm 1944, Ủy ban Giải phóng Dân tộc Ba Lan bắt đầu các hoạt động quản lý hành chính nhà nước tại các vùng đất của Ba Lan được quân đội Liên Xô giải phóng.
Chiến dịch Lyublin-Brest diễn ra tại những hoàn cảnh chính trị - quân sự rất phức tạp vào những thời điểm nhạy cảm của các mối quan hệ quốc tế. Trong đó, đan xen quan hệ giữa các nước đồng minh với nhau khi quân đội Đồng minh chống phát xít ở mặt trận phía tây đang tiến hành chiến dịch Normandie, quan hệ giữa các nước đồng minh với Liên Xô và với các quốc gia Đông Âu.v.v... Trước, trong và sau chiến dịch đều có những biến cố chính trị, những sự kiện quân sự có liên quan. Trong đó có cuộc khởi nghĩa Warszawa và việc thành lập Ủy ban Giải phóng Dân tộc Ba Lan, những sự kiện này gây ra nhiều tranh cãi trong giới sử học của nhiều quốc gia cho tới ngày nay. Nguyên soái K. K. Rokossovsky đánh giá, đây là một trong những chiến dịch khó khăn và phức tạp nhất trong cuộc đời chỉ huy quân đội của ông.
Bối cảnh
Tiến ra biên giới Liên Xô - Ba Lan, quân đội Liên Xô phải giải quyết nhiều vấn đề chính trị liên quan đến quân sự khá phức tạp. Tại các vùng đất giáp ranh giữa Byelorussya, Ukraina và Ba Lan còn tồn tại nhiều lực lượng vũ trang người địa phương thân Đức như các đội quân nổi dậy Ukraina (UPA) thuộc Phong trào quốc gia dân tộc Ukraina (OUN) do Stepan Bandera và Andrey Melnik cầm đầu. Mùa xuân năm 1943, các tình nguyện viên của tổ chức OUN đã tham gia Sư đoàn bộ binh 14 SS (Đức) với quân số hai trung đoàn và được người Đức đặt tên là Quân đội giải phóng Ukraina (UOA) theo mẫu hình của Sư đoàn ROA của A. A. Vlasov. Trong các năm 1943-1944, UPA và UOA đã gây ra nhiều vụ thảm sát đối với người Nga, người Ukraina và người Ba Lan với tổng số nạn nhân thiệt mạng lên đến 60.020 người; trong đó có những vụ bắn giết hàng nghìn người ở Lugansh, Ulanovo, Svatovo, Nizhni Ystriky, Novin và Volynsk. Hoạt động trên địa bàn Đông Nam và Đông Ba Lan còn có các toán quân của quân đội Krajova dưới sự chỉ đạo của chính phủ Ba Lan lưu vong tại London, các đội du kích Byelororussia và Ukraina (Liên Xô), các đội du kích thuộc các đảng phái cảnh tả Ba Lan và cả các toán phỉ tồn tại từ trước ngày 1 tháng 9 năm 1941.
Không đợi đến khi giải phóng Minsk, từ ngày 29 tháng 6 đến ngày 20 tháng 7, Phương diện quân Byelorussia 1 tiếp tục phát huy chiến quả của Chiến dịch Bobruysk bằng Chiến dịch Slutsk-Baranovichi. Chiến dịch đệm này đã đẩy cánh Bắc của Tập đoàn quân 2 (Đức) vào sâu trong đầm lầy Polesia. Từ ngày 7 đến ngày 17 tháng 7, Tập đoàn quân 61 và Giang đoàn Dniepr (Liên Xô) tổ chức tấn công dọc sông Pripyat sang phía tây, phá vỡ phòng tuyến Luninyet của quân Đức, đánh chiếm Pinsk ngày 14 tháng 7. Ngày 15 tháng 7, Tập đoàn quân 61 và Giang đoàn Dniepr tiếp tục tấn công bằng cả hai đường thủy bộ song song dọc theo kênh đào Dniepr - Bug và đến ngày 17 tháng 7 đã có mặt trước cửa ngõ Kobrin. Chỉ trong 12 ngày đêm, Phương diện quân Byelorussia 1 đã tiến về phía tây từ 150 đến 170 km. Khoảng cách giữa cánh phải và cánh trái của phương diện quân đã được thu hẹp lại còn trên 120 km.
Binh lực và kế hoạch
Quân đội Liên Xô
Binh lực
Phương diện quân Byelorussia 1 do Nguyên soái K. K. Rokossovsky làm tư lệnh, thượng tướng M. S. Malinin làm tham mưu trưởng, binh lực gồm có: *''Tập đoàn quân cận vệ 8 do thượng tướng V. I. Chuikov chỉ huy, thành phần gồm có: Bộ binh: Các quân đoàn cận vệ 4, 28, 29. Tổng số 9 sư đoàn Pháo binh: Lữ đoàn lựu pháo cận vệ 43, Trung đoàn Katyusha cận vệ 40, Trung đoàn pháo chống tăng cận vệ 266, Trung đoàn súng cối 141, Trung đoàn phòng không 878. Thiết giáp: Các trung đoàn pháo tự hành 1061, 1087 và 1200 *Tập đoàn quân xe tăng 2 do trung tướng xe tăng S. I. Bogdanov (đến ngày 23 tháng 7) và thiếu tướng A. I. Radziyevskiy chỉ huy thành phần gồm có: *Thiết giáp: Quân đoàn xe tăng 3 gồm các lữ đoàn xe tăng 50, 51, 103; Lữ đoàn cơ giới 57; các trung đoàn pháo tự hành 1107, 1219; Trung đoàn súng cối 234; Tiểu đoàn cơ giới 74; Tiểu đoàn súng phun lửa 728; Tiểu đoàn mô tô cận vệ 126; Trung đoàn phòng không 121 Quân đoàn xe tăng 16 gồm các lữ đoàn xe tăng 107, 109, 164; Lữ đoàn cơ giới 15; Trung đoàn xe tăng cận vệ 6; các trung đoàn pháo tự hành 1239, 1441; Trung đoàn súng cối 226; Tiểu đoàn cơ giới 51; Tiểu đoàn súng phun lửa 729; Tiểu đoàn mô tô cận vệ 89; Trung đoàn phòng không 1721 Các đơn vị độc lập: Lữ đoàn xe tăng cận vệ 11, Trung đoàn cơ giới 5, Tiểu đoàn cơ giới 87. Pháo binh: Trung đoàn lựu pháo cận vệ 86. *Tập đoàn quân 28 do trung tướng A. A. Luchinsky chỉ huy, thành phần gồm có: Bộ binh: Quân đoàn cận vệ 3, các quân đoàn 20, 128. Tổng cộng 9 sư đoàn Pháo binh: Lữ đoàn 3 Katyusha, Lữ đoàn 157 và trung đoàn 377 lựu pháo, trung đoàn 530 pháo chống tăng, Lữ đoàn 1 và các trung đoàn cận vệ 133, 316 súng cối, Sư đoàn 12 và trung đoàn 607 phòng không. *Thiết giáp: Các trung đoàn xe tăng 30 (cận vệ), 65, 166 và 516; Trung đoàn pháo tự hành chống tăng cận vệ 347; các trung đoàn pháo tự hành 881, 1416 và 1898. Tập đoàn quân 47 do trung tướng N. I. Gusev chỉ huy, thành phần gồm có: Bộ binh: Các quân đoàn 77, 125, 129 và sư đoàn 328. Tổng cộng 10 sư đoàn. Pháo binh: 1 lữ đoàn pháo nòng dài, 3 lữ đoàn lựu pháo, một lữ đoàn và 1 trung đoàn pháo chóng tăng, 1 lữ đoàn và 1 trung đoàn súng cối, 1 sư đoàn và 1 trung đoàn phòng không Thiết giáp: 1 lữ đoàn và 2 trung đoàn xe tăng, 5 trung đoàn pháo tự hành. *Tập đoàn quân 48 do P. L. Romanenko chỉ huy, thành phần gồm có: Bộ binh: 3 quân đoàn với 9 sư đoàn. Pháo binh: 1 lữ đoàn pháo nòng dài, 3 lữ đoàn lựu pháo, 1 trung đoàn pháo chống tăng, 1 trung đoàn súng cối. Thiết giáp: 2 trung đoàn xe tăng, 4 trung đoàn pháo tự hành. *''Tập đoàn quân 61 do trung tướng P. A. Belov chỉ huy, thành phần gồm có: Bộ binh: 2 quân đoàn và 2 sư đoàn. Tổng cộng 6 sư đoàn. Pháo binh: 1 trung đoàn lựu pháo, 1 trung đoàn Katyusha, 1 trung đoàn pháo chống tăng, 1 trung đoàn súng cối và 1 trung đoàn phòng không. *Thiết giáp: 1 trung đoàn xe bọc thép. ''Tập đoàn quân 65 do trung tướng P. I. Batov chỉ huy, thành phần gồm có: Bộ binh: 2 quân đoàn và 2 sư đoàn. Tổng cộng 8 sư đoàn và 1 lữ đoàn. Pháo binh: 1 lữ đoàn pháo nòng dài, 4 lữ đoàn lựu pháo, 1 lữ đoàn và 1 trung đoàn và 1 trung đoàn pháo chống tăng, 2 trung đoàn súng cối, 1 sư đoàn và 1 trung đoàn phòng không. Thiết giáp: 1 trung đoàn xe tăng, 4 trung đoàn pháo tự hành. *Tập đoàn quân 69 do Trung tướng V. I. Kolpakchi chỉ huy, thành phần gồm có: Bộ binh: 3 quân đoàn gồm 9 sư đoàn. Pháo binh: 1 lữ đoàn lựu pháp, 3 lữ đoàn và 1 trung đoàn pháo chống tăng, 1 lữ đoàn và 1 trung đoàn súng cối, 1 sư đoàn và 1 trung đoàn phòng không. Thiết giáp, 1 lữ đoàn và 3 trung đoàn pháo tự hành. Tập đoàn quân 70 do trung tướng P. I. Lyapin chỉ huy, thành phần gồm có: Bộ binh: 5 sư đoàn Pháo binh: 1 lữ đoàn lựu pháo, 1 trung đoàn pháo chống tăng, 1 rung đoàn súng cối, 1 trung đoàn phòng không. Tập đoàn quân Ba Lan 1 do thượng tướng Zygmunt Henryk Berling chỉ huy, thành phần gồm có: Bộ binh: 5 sư đoàn và 1 lữ đoàn Kỵ binh: 1 lữ đoàn Pháo binh: 2 lữ đoàn pháo nòng dài, 2 lữ đoàn lựu pháo, 1 lữ đoàn pháo chống tăng, 1 trung đoàn súng cối, 1 sư đoàn phòng không. Thiết giáp: 1 lữ đoàn xe tăng Không quân: 1 trung đoàn tiêm kích và 1 trung đoàn ném bom. *''Tập đoàn quân không quân 6 do trung tướng không quân F. P. Polynin chỉ huy, thành phần gồm có: Máy bay tiêm kích: Sư đoàn 36 Máy bay cường kích: Sư đoàn cận vệ 3 * Máy bay ném bom: Sư đoàn 242 và các trung đoàn 72, 93. ''Tập đoàn quân không quân 11 do trung tướng không quân S. Kh. Rudenko chỉ huy, thành phần gồm có: Máy bay tiêm kích: 5 sư đoàn. Máy bay cường kích: 5 sư đoàn. *Máy bay ném bom: 5 sư đoàn.
Kế hoạch
Trong thời gian đầu tháng 7, ngoài mục tiêu khai thác chiến quả và chuẩn bị cho các đợt tấn công kế tiếp, mũi tấn công của Phương diện quân Byelorussia 1 có mục đích lôi kéo sự chú ý của quân Đức vào khu vực này, đảm bảo thành công cho Chiến dịch Lvov-Sandomierz của Phương diện quân Ukraina 1 diễn ra vào ngày 13 tháng 7 năm 1944. Sau khi diễn biến tại hướng Lvov trở nên thuận lợi, Phương diện quân Byelorussia 1 bắt đầu tấn công mạnh sang phía tây.
Các hoạt động chính của quân đội Liên Xô trong Chiến dịch Lublin-Brest được thực hiện dựa theo một phần kế hoạch tấn công hai đầu của K. K. Rokotsovsky khi vạch kế hoạch hành động toàn bộ cho Phương diện quân Byelorussia 1 trong Chiến dịch Bagration nhưng có sửa đổi một số hướng tấn công trên cánh trái và cánh phải. Do binh lực của quân Đức trên tuyến Svisloch Pripyat đã mỏng đi nên K. K. Rokotsovsky chỉ để ba tập đoàn quân tấn công Brest. Các tập đoàn quân cánh phải nhanh chóng vọt tiến tới tuyến sông Narev. Ngược lại, binh lực quân Đức trên hướng Kovel dày đặc hơn lại có tuyến sông Tây Bug che chắn nên K. K. Rokossovsky sử dụng một lực lượng đến 6 tập đoàn quân, trong đó có Tập đoàn quân xe tăng 2 và Tập đoàn quân Ba Lan 1 để tấn công theo hướng Lyublin và sau đó, phát triển đến tuyến sông Vistula.
Tại cuộc họp của Đại bản doanh ngày 9 tháng 7 để xét duyệt các kế hoạch tấn công trong hè thu năm 1944 của quân đội Liên Xô trên hướng Tây. Tổng tư lệnh I. V. Stalin đặt ra ba nhiệm vụ trước mắt cho Phương diện quân Byelorussia 1: :1- Tiêu diệt quân Đức tại khu vực Lyublin - Brest :2- Cánh phải đánh chiếm Brest :3- Cánh trái mở rộng chính diện tiến ra sông Vistula, đánh chiếm các bàn đạp trên bờ Tây sông Vistula.
Sau đó, kế hoạch Chiến dịch Lublin-Brest sẽ nằm trong tổng thể một kế hoạch lớn hơn của các phương diện quân Byelorussia 1, 2 và 3 trên hướng Đông Ba Lan do Bộ Tổng tham mưu quân đội Liên Xô đang soạn thảo. Trong đó, Phương diện quân Byelorussia 1 có nhiệm vụ vượt sông Vistula và giải phóng Đông Ba Lan và tiến ra sông Ode. Phương diện quân Byelorussia 2 tấn công lên Danzig (Gdansk) chia cắt Đông Phổ với nước Đức. Phương diện quân Byelorussia 3 phối hợp với Phương diện quân Pribaltic 1 (sau khi hoàn thành việc giải phóng vùng Pribaltic) tập trung tấn công vào Đông Phổ.
Quân đội Đức Quốc xã
Binh lực
Cánh phải của Cụm Tập đoàn quân Trung tâm do Thống chế Walter Model (đến 16 tháng 8 năm 1944) và Thượng tướng Georg-Hans Reinhardt: Tập đoàn quân 9 (tái lập) do thượng tướng xe tăng Nikolaus von Vormann chỉ huy. Biên chế từ tháng tháng 8 năm 1944 có: Quân đoàn bộ binh 8 do trung tướng Gustav Höhne chỉ huy, thành phần gồm có: Sư đoàn bộ binh 6 của trung tướng Otto-Hermann Brücker, gồm các trung đoàn bộ binh 18, 37, 58, các trung đoàn pháo binh 6 và 42, các tiểu đoàn pháo chống tăng, súng cối, cơ giới, trinh sát, công binh. Sư đoàn bộ binh 45 (tái lập) của thiếu tướng Richard Daniel, gồm các trung đoàn bộ binh 130, 133, 135, Trung đoàn pháo binh 98, Trung đoàn pháo chống tăng 45, các tiểu đoàn súng cối, cơ giới, trinh sát, công binh. Sư đoàn bộ binh 251 (tái lập) của thiếu tướng pháo binh Maximilian Felzmann, gồm các trung đoàn bộ binh 184, 448, 451, Trung đoàn pháo binh 251, các tiểu đoàn súng cối, cơ giới, trinh sát, công binh. Quân đoàn xe tăng 4 SS do thiếu tướng SS Nikolaus Heilmann (đến ngày 28 tháng 7) và thiếu tướng SS Herbert Gille chỉ huy, thành phần gồm có: **Sư đoàn xe tăng 3 SS "Totenkopf" của tướng Hellmuth Becker, gồm các trung đoàn xe tăng SS "Totenkopf" (3 và 5), Trung đoàn cơ giới SS "Theodor Eicke", Trung đoàn pháo binh 3 SS, các tiểu đoàn pháo chống tăng, súng cối, trinh sát, công binh. Sư đoàn xe tăng 5 SS "Wiking" của thiếu tướng SS Herbert Gille, gồm các trung đoàn xe tăng SS "Germania", "Nordland", "Westland", Trung đoàn cơ giới SS "Wiking", Trung đoàn pháo binh 5 SS, các tiểu đoàn pháo chống tăng, súng cối, trinh sát, công binh. Quân đoàn xe tăng 41 do tướng Helmuth Weidling chỉ huy, thành phần gồm có: **Sư đoàn xe tăng "Hermann Göring" thứ nhất của trung tướng Wilhelm Schmalz, gồm 2 trung đoàn xe tăng (1 và 2), 1 lữ đoàn cơ giới, 1 trung đoàn pháo tự hành, 1 trung đoàn pháo xe kéo, các tiểu đoàn pháo chống tăng, trinh sát, công binh, thông tin; tất cả đều mang tên "Hermann Göring 1". Sư đoàn xe tăng 19 của trung tướng Hans Källner, gồm 3 trung đoàn xe tăng (27, 73 và 74), Trung đoàn cơ giới 19, Trung đoàn pháo tự hành 272, Trung đoàn pháo binh 19, các tiểu đoàn pháo chống tăng, súng cối, trinh sát, công binh, thông tin, kỹ thuật. Sư đoàn xe tăng 25 của thiếu tướng Oswin Grolig (đến ngày 18 tháng 8) và thiếu tướng Oskar Audörsch, gồm các trung đoàn xe tăng 9, 146, 147, Trung đoàn cơ giới 87, Trung đoàn pháo tự hành 91, Trung đoàn pháo binh 297, các tiểu đoàn pháo chống tăng, súng cối, trinh sát, công binh, thông tin, kỹ thuật. Sư đoàn bộ binh 73 của tướng Fritz Franek (bị quân đội Liên Xô bắt ngày 29 tháng 7) và tướng Kurt Hähling, gồm các trung đoàn bộ binh 70, 170, 186, Trung đoàn pháo binh 173, Tiểu đoàn cơ giới 173, các tiểu đoàn pháo chống tăng, súng cối, trinh sát, thông tin. *Cụm tác chiến xe tăng von Saucken. *Trực thuộc Bộ tư lệnh tập đoàn quân: Cụm tác chiến đặc nhiệm 225 Warshawa của thiếu tướng Werner Schartów. Sư đoàn bộ binh 17 của tướng Richard Zimmer, gồm các trung đoàn bộ binh 21, 55, 95, Trung đoàn pháo binh 17, các tiểu đoàn súng cối, cơ giới, trinh sát, công binh. Lữ đoàn xung kích dự bị 1132. Một phần Tập đoàn quân 4 (tái lập) do tướng Friedrich Hoßbach chỉ huy. Biên chế từ tháng 8 năm 1944 có: Quân đoàn bộ binh 6 (tái lập) do trung tướng Horst Großmann chỉ huy, thành phần gồm có: Sư đoàn bộ binh 50 của thiếu tướng Georg Haus, gồm các trung đoàn bộ binh 121, 122, 123, Trung đoàn pháo binh 150, Trung đoàn pháo chống tăng 50, các tiểu đoàn súng cối, cơ giới, trinh sát, công binh. *Sư đoàn bộ binh 286 của thiếu tướng Friedrich-Georg Eberhardt, gồm các trung đoàn bộ binh 926, 927, 931, Trung đoàn pháo binh 286, các tiểu đoàn pháo chống tăng, súng cối, cơ giới, trinh sát, công binh. *Một phần Quân đoàn bộ binh 27 (tái lập) do tướng Hellmuth Prieß chỉ huy, thành phần gồm có: Sư đoàn bộ binh 131 (tái lập) của thiếu tướng dự bị Werner Schulze, gồm các trung đoàn bộ binh 431, 432, 434, Trung đoàn pháo binh 131, các tiểu đoàn pháo chống tăng, súng cối, cơ giới, trinh sát, công binh. Tập đoàn quân 2 do tướng Walter Weiss chỉ huy. Trong biên chế có: Quân đoàn bộ binh 20 do trung tướng pháo binh Rudolf Freiherr von Roman chỉ huy. Trong biên chế có: Sư đoàn bộ binh 35 (tái lập) của tướng Gustav Gihr, gồm các trung đoàn bộ binh 34, 109, 111, các trung đoàn pháo binh 35, 71, các tiểu đoàn pháo chống tăng, súng cối, cơ giới, trinh sát, công binh. Sư đoàn bộ binh 542 (tái lập) của trung tướng Karl Löwrick, gồm các trung đoàn bộ binh 1076, 1077, 1078, Trung đoàn pháo binh 1542, các tiểu đoàn pháo chống tăng, súng cối, cơ giới, trinh sát, công binh. Lữ đoàn xe tăng 104 của thiếu tướng Weidenbrück. *Lữ đoàn bộ binh 1131. *Quân đoàn bộ binh 23 do tướng Otto Tiemann chỉ huy, trong biên chế có: Sư đoàn xe tăng 6 của thiếu tướng Hans-Otto von Bernuth, gồm các trung đoàn xe tăng 4, 11, 114, Trung đoàn pháo tự hành 76, Trung đoàn pháo binh 6, các tiểu đoàn pháo chống tăng, súng cối, cơ giới, trinh sát, công binh. Sư đoàn bộ binh 211 của thiếu tướng Heinrich Eckhardt, gồm các trung đoàn bộ binh 306, 317, 356, Trung đoàn pháo binh 211, các tiểu đoàn pháo chống tăng, súng cối, cơ giới, trinh sát, công binh. Sư đoàn bộ binh 292 (tái lập) của thiếu tướng Johannes Gittner, gồm các trung đoàn bộ binh 507, 508, 509, Trung đoàn pháo binh 292, các tiểu đoàn pháo chống tăng, súng cối, cơ giới, trinh sát, công binh. *Sư đoàn bộ binh 541 của trung tướng Wolf Hagemann, gồm các trung đoàn bộ binh 1973, 1074, 1075, Trung đoàn pháo binh 1541, các tiểu đoàn pháo chống tăng, súng cối, cơ giới, trinh sát, công binh. *Trực thuộc Bộ tư lệnh tập đoàn quân: Lữ đoàn xe tăng 102 của tướng Zimmermann. *Sư đoàn kỵ binh 3 của thiếu tướng Peter von der Groeben gồm các trung đoàn kỵ binh 31, 32, Trung đoàn pháo tự hành 69, Trung đoàn pháo binh 869, các tiểu đoàn cơ giới, súng cối, công binh. Cánh trái của Cụm Tập đoàn quân Bắc Ukraina** do thượng tướng Josef Harpe chỉ huy. Thành phần tham gia chiến dịch gồm có:
Một phần Tập đoàn quân xe tăng 4 do tướng Walther Nehring (đến ngày 5 tháng 8) và tướng Hermann Balck chỉ huy, thành phần tham gia chiến dịch gồm có: Quân đoàn bộ binh 55 do tướng Friedrich Herrlein chỉ huy, thành phần gồm có: Sư đoàn bộ binh 28 của tướng Gustav Heistermann von Ziehlberg gồm Trung đoàn cơ giới 28, các trung đoàn bộ binh 49, 83, Trung đoàn pháo binh 28, các tiểu đoàn pháo chống tăng, súng cối, cơ giới, trinh sát, công binh. Sư đoàn bộ binh 203 của tướng Max Horn, gồm các trung đoàn bộ binh 507, 613, 618, Trung đoàn pháo binh 203, các tiểu đoàn pháo chống tăng, súng cối, cơ giới, trinh sát, công binh. Sư đoàn bộ binh 562 của thiếu tướng Johannes-Oskar Brauer, gồm các trung đoàn bộ binh 1144, 1145, 1146, Trung đoàn pháo binh 1562, các tiểu đoàn pháo chống tăng, súng cối, cơ giới, trinh sát, công binh.
Kế hoạch
Do tốc độ tấn công quá nhanh của quân đội Liên Xô và tốc độ tăng viện cho mặt trận của Cụm tập đoàn quân Trung tâm (Đức) diễn ra chậm chạp và có phần bị động, thống chế Walter Model không hi vọng ngăn chặn được quân đội Liên Xô trên tuyến sông Tây Bug và vùng đầm lầy Polesya. Chiến tuyến mà quân đội Đức Quốc xã đặt nhiều niềm tin rằng họ có thể trụ lại được là tuyến sông Wisla và tuyến sông Narev trên biên giới Đông Phổ. Wisla là con sông lớn và sâu ở vùng Trung - Đông Âu, chia Ba Lan làm hai nửa. Dựa vào các tuyến đường sắt, đường bộ khá phát triển ở vùng tả ngạn con sông này, quân đội Đức có khả năng cơ động lực lượng từ phía bắc xuống và từ phía nam lên để chặn đứng quân đội Liên Xô. Tuy nhiên, việc xây dựng phòng tuyến này, trong đó có các cụm cứ điểm quan trọng ở Warszawa, Radom, Serotsk (???), Ruzhan (Rozan), Lomzha, Avgustov... và các tuyến phòng ngự thứ hai, thứ ba trong chiều sâu đến tuyến sông Oder cần có thời gian nhưng thời gian lại đang chống lại cả hai bên. Do đó, thống ché Walter Model đặt hi vọng vào các cụm phòng ngự mạnh ở Brest, Kobrin, Cheremkha (Czeremcha) ở phía bắc và Volodava (Wlodawa), Khelm (Chelm), Lyublin ở phía nam để hãm dà tấn công của quân Đội Liên Xô, giành thêm thời gia cho các lực lượng mạnh của quân Đức ở tuyến sau và các khu vực mặt trận khác được điều đến để xây dự hệ thống phòng thủ trên tuyến Vistula - Narev.
Trước và trong thời gian diễn ra chiến dịch, 12 sư đoàn Đức đã được điều động đến hướng Wisla - Narev, 15 sư đoàn Đức bại trận trong giai đoạn 1 và giai đoạn 2 của Chiến dịch Bagration được phục hồi bằng những tân binh sinh từ năm 1926 trở về trước. Lực lượng SS và lực lượng mặt đất của không quân Đức Quốc xã cũng tái trang bị và tổ chức mới nhiều đơn vị chiến đấu có sức mạnh đột kích cao, trong đó có các sư đoàn xe tăng SS "Đầu lâu" và "Wiking", các sư đoàn xe tăng mang tên "Hermann Göring". Tất cả đều được quân đội Đức Quốc xã dốc vào phòng tuyến Wisla - Narev.
Tuy nhiên, khi quân đội Liên Xô tiến đến gần biên giới Liên Xô - Ba Lan (1939) thì tình hình hậu phương trực tiếp cho mặt trận của quân đội Đức Quốc xã đã trở nên bất ổn. Các tổ chức chính trị quân sự thuộc nhiều đảng phái đều tăng cường các hoạt động phá hoại và chiến tranh du kích. Chính quyền chiếm đóng Đức tại Ba Lan đã tăng cường nhiều biện pháp diệt chủng tại Ba Lan. Hàng chục vạn người Do Thái bị đưa sang các trại tập trung ở nước Đức. "Khu Do Thái" ở Warszawa bị xóa sổ theo cả nghĩa đen và nghĩa bóng. Hàng triệu người Ba Lan cũng bị gom vào các trại tập trung hoặc đưa đến các trại tập trung trong lãnh thổ Đức. Các lò thiêu người tại các trại tập trung tăng cao công suất hoạt động. Khi cuộc khởi nghĩa Warszawa nổ ra thì chính quyền Đức Quốc xã đã thi hành chính sách quân luật đối với toàn bộ thành phố và các vùng lân cận.
Để tăng cường phòng thủ trên hướng này, thống chế Walter Model đã điều Sư đoàn xe tăng 14 vừa từ mặt trận Romania chuyển đến tới trấn giữ tại tuyến sông Tây Bug, đoạn đi qua Domachyevo (Damacava), Volodava và Khelm hợp lực với Sư đoàn xe tăng 5 SS "Wiking". Tuy nhiên, hàng trăm nghìn quả đạn pháo và hàng trăm tấn bom các loại từ 855 phi vụ của Tập đoàn quân không quân 6 (Liên Xô) đã không cho phòng tuyến của Tập đoàn quân xe tăng 4 và Tập đoàn quân 2 (Đức) có cơ hội tồn tại thêm dù chỉ trong một giờ. 6 giờ 15 phút, Tập đoàn quân xe tăng 2, các quân đoàn kỵ binh cận vệ 2 và 7 trong Cụm kỵ binh cơ giới của tướng I. A. Pliyev lập tức được đưa vào cửa đột phá. Tập đoàn quân 47, Tập đoàn quân cận vệ 8 và Tập đoàn quân 69 triển khai tấn công thành hình rẻ quạt xòe ra hai bên. Tập đoàn quân 47 nhằm hướng Domachyevo, Tập đoàn quân cận vệ 8 nhằm hướng Demblin (???), Tập đoàn quân 69 tiến công dọc theo đường sắt Kovel - Khelm. Trong cả ngày 20 tháng 7, Sư đoàn xe tăng 14 và Sư đoàn xe tăng SS "Wiking" (Đức) dùng toàn bộ pháo tăng để cố ngăn cản công binh Liên Xô bắc cầu qua sông Tây Bug. Trong khi pháo binh của phương diện quân còn bị rớt lại sau, tướng I. S. Bogdanov điều các trung đoàn pháo tự hành ra sát bờ sông yểm hộ cho công binh. Đến sáng ngày 21 tháng 7, ba cầu pháo cho xe tăng và hai cầu gỗ cho bộ binh, kỵ binh đã hoàn thành. Xe tăng Liên Xô ào ạt đổ quân sang tả ngạn sông Tây Bug và tiếp tục tấn công.
Ngày 22 tháng 7, Cụm kỵ binh cơ giới của tướng I. A. Pliyev được lệnh giảm tốc độ tấn công để Tập đoàn quân Ba Lan 1 theo kịp. Quân đoàn xe tăng 11 (Liên Xô) vượt lên phía trước, mở đường cho Tập đoàn quân Ba Lan 1 và Quân đoàn kỵ binh cận vệ 7 tiến thẳng về Lyublin và Demblin. Tập đoàn quân xe tăng 2 và Tập đoàn quân cận vệ 8 nhằm hướng Warshawa. Quân đoàn kỵ binh cận vệ 2 kéo quân đánh thốc lên nhà ga đầu mối Lukov (Lukow), cắt đường rút lui của cụm quân Đức tại Brest về Warrshawa và Radom. Tập đoàn quân 69 đã vượt qua Khelm cũng nhằm hướng Pulawy. Tập đoàn quân 47 cùng với Tập đoàn quân 70 được điều động từ thê đội 2 lên phía trước, bẻ hướng lên phía bắc, tiến công qua Vinitsye (???) lên phía tây Brest. Đêm 22 tháng 7, Quân đoàn xe tăng 3 thuộc Tập đoàn quân xe tăng 2 và Quân đoàn xe tăng 11 đã bắt đầu công kích vào hướng Lyublin cùng với Sư đoàn bộ binh Ba Lan 1 thuộc tập đoàn quân Ba Lan 1). Mũi công kích của Quân đoàn xe tăng 3 nhằm thẳng vào chỗ tiếp giáp giữa Quân đoàn bộ binh 20 và Quân đoàn bộ binh 27 (Đức) đang phòng thủ tại đây và đã nhanh chóng xuyên thủng tuyến phòng thủ đó. Chiều 22 tháng 7, quân đội Liên Xô đã bao vây Lyublin từ ba phía. Tuyến đường bộ Lyublin - Pulawy cũng bị cắt đứt, gây ảnh hưởng tiêu cực đến hệ thống hậu cần của quân Đức và góp phần chặn đường quân Đức đang rút lui khỏi khu vực Lyublin về Radom và Warshawa. Ngày 25 tháng 7, Tập đoàn quân xe tăng 2, các tập đoàn quân 69, cận vệ 8 (Liên Xô) và Tập đoàn quân Ba Lan 1 đều tấn công đến sông Vistula. Ngày 27 tháng 7, Tập đoàn quân 69 vượt sông Vistula đánh chiếm một đầu cầu khá lớn ở Pulawy. Tập đoàn quân cận vệ 8 cũng đánh chiếm một đầu cầu nhỏ hơn ở Magnushev. Ngày 28 tháng 7, Tập đoàn quân xe tăng 2 và Tập đoàn quân Ba Lan 1 đã có mặt ở Otvoytsk (Otwock) thuộc quận Praga, ngoại ô Đông Nam thủ đô Warshawa của Ba Lan.
Giải phóng Brest
Trong khi cánh trái của Phương diện quân Byelorussia đang đột phá đến tuyến sông Vistula và kéo lên Warshawa thì cánh phải của nó gồm 4 tập đoàn quân và một cụm kỵ binh cơ giới cũng tiến hành các trận đánh hướng tới Brest, một trong những địa điểm đầu tiên hứng chịu cuộc tấn công xâm lược của quân đội Đức Quốc xã hơn 3 năm trước đó. Sau khi chọc thủng tuyến phòng thủ của các sư đoàn bộ binh 292, 541 và Sư đoàn kỵ binh 3 (Đức) tại tuyến Pinsk - hồ Shara và đánh chiếm Pinsk ngày 14 tháng 7, Tập đoàn quân 61 và Giang đội Pripyat thuộc Giang đoàn Dniepr (Liên Xô) tổ chức tấn công dọc theo kênh dào Dniepr - Tây Bug về hướng Kobrin. Ngày 18 tháng 7, Tập đoàn quân 61 đánh chiếm Kobrin, tiêu diệt một cứ điểm phòng thủ quan trọng ở phía đông Brest. Ngày 20 tháng 7, thêm một cụm cứ điểm phòng ngự vòng ngoài của quân Đức bị tiêu diệt tại Vidomlya (Vidamlia), đông bắc Brest.
Do Tập đoàn quân 3 của tướng A. V. Gorbatov được điều chuyển cho Phương diện quân Byelorussia 2 làm nhiệm vụ tấn công Byelostok thay thế Tập đoàn quân 33 (Liên Xô) đã quá suy yếu và được rút về lực lượng dự bị của Đại bản doanh, Tập đoàn quân 48 phải dịch chuyển hướng tấn công lên thượng nguồn sông Narev, đánh vào Surazh(???). Tập đoàn quân 65 cũng dịch chuyển chính diện tấn công lên Belovezha (???) và Cheremkha. Tập đoàn quân 28 phải chia làm hai cánh, các quân đoàn bộ binh 20 và cận vệ 3 được giao nhiệm vụ tấn công Brest, Quân đoàn bộ binh 128 chuyển hướng tấn công vào Lositsye (???). Khoảng cách giữa các dải tấn công của các tập đoàn quân cánh phải thuộc Phương diện quân Byelorussia 1 bị giãn rộng. Lợi dụng điều này, ngày 22 tháng 7, Sư đoàn xe tăng xe tăng 6 và Quân đoàn bộ binh 6 Đức) tổ chức phản kích vào Cheremkha. Trước nguy cơ quân Đức đột nhập vào sau lưng Tập đoàn quân 28 đang tấn công vượt sông Tây Bug, ngày 23 tháng 7, nguyên soái K. K. Rokossovsky lệnh cho Tập đoàn quân 70 đã tập kết ở phía tây Brest bỏ nhiệm vụ tấn công thành phố, vượt sang phía phía bắc sông Tây Bug, trám vào lỗ hổng giữa Tập đoàn quân 28 và Tập đoàn quân 65 (Liên Xô) ở phía nam Cheremkha. Cuộc phản kích của ba sư đoàn Đức bị chặn đứng. Quân Đức rút về tuyến sông Tây Bug.
Giải quyết xong mối đe dọa từ phía bắc, ngày 25 tháng 7, các tập đoàn quân Liên Xô đã khép vòng vây quanh thành phố và pháo đài Brest. Tập đoàn quân 28 (thiếu) từ phía bắc, Tập đoàn quân 47 từ phía tây và phía nam, Tập đoàn quân 61 từ phía đông. Bên trong vòng vây là quân của các sư đoàn bộ binh 86, 137 và 261 (Đức) đã bị nhốt trong một "cái chảo" tại thành phố Brest. Các sư đoàn này chống trả kịch liệt. Song, Tập đoàn quân 9 (Đức) đã không còn lực lượng rảnh rỗi để giải vây cho cụm quân này trong khi chủ lực của nó phải đang vội vã rút về tuyến sông Vistula để trốn một cái chảo lớn hơn có nguy cơ hình thành ở giữa sông Tây Bug và sông Vistula, trên khu vực giữa sông Tây Bug và sông Livets. Số phận cụm tàn quân của ba sư đoàn Đức tại Brest được định đoạt sau ba ngày. Chiều 28 tháng 7, những toán quân Đức cuối cùng còn sóng sót nộp vụ khí đầu hàng. Sau hơn 3 năm bị quân đội Đức Quốc xã chiếm đóng, thành phố Brest được giải phóng.. Phần lớn quân Đức đã bị tiêu diệt trong "cái chảo" này. Theo thống kê của quân đội Liên Xô, quân Đức mất 7.000 người chết và 110 người bị bắt.
Chiến sự ở vùng phụ cận phía đông Warshawa
Bố trí binh lực quân đội Đức và Liên Xô trong các ngày 1-4 tháng 8 năm 1944 tại khu vực xung quanh Warszawa, sông Narew và sông Wisla/Vistula.
Mũi tấn công của Tập đoàn quân xe tăng 2, Tập đoàn quân cận vệ 8 và Tập đoàn quân Ba Lan 1 lên hướng Magnushev - Otvotsk mở ra triển vọng có thể giải phóng thủ đô Warshawa của Ba Lan trong một tương lai gần. Không để mất thời gian, ngày 23 tháng 7, nguyên soái K. K. Rokossovsky lệnh cho các tập đoàn quân cánh phải của Phương diện quân Byelorussia 1 tiếp tục tấn công. Các tập đoàn quân 28, 48, 65 (Liên Xô) đồng loạt vượt sông Tây Bug và tiến vào lãnh thổ Ba Lan. Ngày 25 tháng 7, quân đội Liên Xô đã tiến đến tuyến sông Narev và đánh chiếm một số đầu cầu ở bờ Tây con sông này. Tập đoàn quân 48 chiếm được một bàn đạp nhỏ ở khúc cong của sông Nerev trên khu vực Ruzhan(???), Tập đoàn quân 65 chiếm giữ khu đầu cầu Pułtusk - Serock. Tuy nhiên, cuộc tấn công dài ngày đã làm cho các tập đoàn quân Liên Xô kiệt sức. Ngày 29 tháng 7, các tập đoàn quân 28 và 48 được rút về tuyến sau để củng cố. Theo đại tá I. N. Bazanov (tham mưu trưởng của Tập đoàn quân xe tăng 2 từ ngày 23 tháng 7), trong khoảng từ 23 tháng 7 đến 2 tháng 8, tập đoàn quân này đã chịu thiệt hại 1.433 người chết và mất tích. Nguyên soát K. K. Rokossovsky phải điều Tập đoàn quân 47 từ Brest lên phía đông bắc Warshawa, tiếp quản trận tuyến của Tập đoàn quân 28.. Cũng trong ngày 27 tháng 7, Quân đoàn xe tăng cận vệ 3 đã đánh tan tiểu đoàn cơ giới trinh sát của Sư đoàn xe tăng "Hermann Goering" thứ nhất và đột phá đến cách quân Praga 20 cây số về phía đông nam
Ở thời điểm cuối năm 1944, tuyến phòng thủ sông Vistula được coi là tuyến phòng thủ "sống còn" của nước Đức Quốc xã, tương đương với tuyến Ardenes ở mặt trận phía tây. Đến cuối tháng 7 năm 1944, quân đội Đức Quốc xã đã điều động đến tuyến phòng thủ này nhiều đơn vị có sức chiến đấu cao của lục quân, không quân Đức Quốc xã và lực lượng SS. Ngày 26 tháng 7, khi Đại bản doanh Bộ Tổng tư lệnh tối cao quân đội Liên Xô bắt đầu phiên họp thường kỳ để đánh giá tình hình và hoạch định phương hướng chiến lược tiếp theo cũng là ngày mà quân đội Đức Quốc xã bắt đầu tung ra đòn phản công đặc biệt mạnh trên cả ba hướng Đông, đông bắc và Đông Nam Warshawa. Trinh sát mặt trận và cả lực lượng tình báo chiến trường của quân đội Liên Xô đã không nắm được các thông tin cụ thể về cuộc phản công này.
Ngày 28 tháng 7, Tập đoàn quân xe tăng 2 đang tấn công trên hướng Otvotsk - Praga lên phía bắc đã bất ngờ vấp phải đòn phản công rất mạnh bằng xe tăng của quân đội Đức Quốc xã. Phải một ngày sau các trận đánh đẫm máu tại khu vực phụ cận Praga, phía đông Warshawa và bằng tính mạng của nhiều trung đội quân báo, trinh sát mặt trận của Phương diện quân Byelorusia 1 mới phát hiện ra sự xuất hiện của Sư đoàn xe tăng 4, Sư đoàn xe tăng 19, Sư đoàn xe tăng SS "Đầu lâu", Sư đoàn xe tăng SS "Wiking", Sư đoàn xe tăng "Hermann Göring" thứ nhất và các sư đoàn bộ binh 35, 55. Trong hơn một tuần tiếp theo, mặc dù quân Đức không thể đẩy lùi được Tập đoàn quân xe tăng 2 và Tập đoàn quân cận vệ 8 (Liên Xô) nhưng cái giá phải trả cho các trận đánh phòng ngự của quân đội Liên Xô là không nhỏ. Chỉ trong vòng 10 ngày, kể từ ngày 26 tháng 7, một số đại đội của Tập đoàn quân xe tăng 2 chỉ còn 6 người, thay vì 90 người trong trường hợp đủ biên chế. Những thiệt hại về xe tăng cũng khá lớn, một số tiểu đoàn xe tăng của Quân đoàn xe tăng cận vệ 3 đã phải chiến đấu như bộ binh. Tình hình mặt trận bắt đầu diễn biến bất lợi cho Phương diện quân Byelorussia 1. Do không nắm được tình hình xấu đi nhanh chóng tại khu vực mặt trận do K. K. Rokossovsky chỉ huy tại khu vực Volomin (Wolomin), ngày 30 tháng 7, Đại bản doanh Liên Xô vẫn ban hành mệnh lệnh cho Phương diện quân Byelorussia 1 với nội dung đưa Tập đoàn quân xe tăng 2 lên phía bắc, đánh chiếm các cầu vượt sông Wisla tại quận Praga thuộc vùng ngoại ô Warszawa ở bờ Đông sông Wisla, cánh phải của Phương diện quân Byelorussia 1 sau khi giải phóng Brest cũng hành tiến tới tấn công Siedlce. Ngày 31 tháng 7, trả lời phỏng vấn của phóng viên Henry Manian của tờ báo Le Monde (Pháp) ngay tại Sở chỉ huy tiền phương của phương diện quân đặt tại thị trấn Otvoitsk ở Đông Nam Warshawa về câu hỏi liệu quân đội Liên Xô có vượt sông Wisla trong một ngày gần đây hay không, nguyên soái K. K. Rokossovsky cho rằng đây là một nhiệm vụ không thể thực hiện được:
Từ ngày 28 tháng 7, tại khu vực Volomin bắt đầu các trận tao ngộ chiến ác liệt nhằm giành quyền kiểm soát các cây cầu và các con đường dẫn tới thủ đô Ba Lan từ phía đông. Do Quân đoàn xe tăng 11, Quân đoàn kỵ binh cận vệ 20 và Tập đoàn quân số 47 vẫn còn đang đột phá cụm phòng ngự Siedlce của quân Đức cách Praga 50 km về phía đông, mũi tấn công của Tập đoàn quân xe tăng 2 lên Praga trở nên đơn độc. Ngày 29 tháng 7, Tập đoàn quân xe tăng 2 điều Quân đoàn xe tăng cận vệ 3 và Quân đoàn xe tăng cận vệ 8 tấn công vào cánh trái của Cụm quân xe tăng Đức. Quân đoàn xe tăng 16 được giữ lại làm thê đội 2 ở Deblin chờ bộ binh Tập đoàn quân Ba Lan 1 kéo lên để tạo thành mũi đột kích thứ hai nhằm vùng ngoại ô Praga của Warszawa, chia cắt các sư đoàn xe tăng Đức ra khỏi bờ Đông sông Wisla. Ở phía tây bắc Wolomin, Sư đoàn xe tăng 4 và Sư đoàn bộ binh 35 (Đức) có 40 xe tăng từ Tsechelna (???) và Radzymin tiến ra vây bọc Lữ đoàn xe tăng 51 phía bắc Ulyasek (???). phía đông Volomin, Sư đoàn xe tăng "Hermann Goering" thứ nhất huy động 50 xe tăng từ Cherna Struga (???) tấn công vào Lữ đoàn xe tăng 50 đang phòng ngự tại Kobylka. phía nam Wolomin, Sư đoàn xe tăng 19 (Đức) huy động 30 xe tăng vượt sông Drugla đánh vào Lữ đoàn xe tăng 57 (Liên Xô) đang trấn giữ Ossuv (Ossow).; giả thiết là Quân đoàn xe tăng số 3 gánh phần lớn số thương vong này, thì, so với quân số thực tế 8.000 đến 10.000 người của quân đoàn này thì khó có thể kết luận là nó "bị tiêu diệt".. Đến ngày 1 tháng 8, Tập đoàn quân cận vệ số 8 cũng tổ chức vượt sông sớm tại khu đầu cầu Magnuszew. Mặc dù theo kế hoạch thì trận vượt sông diễn ra vào ngày 3-4 tháng 8, tuy nhiên tư lệnh Tập đoàn quân - tướng V. I. Chuikov - hy vọng dựa vào yếu tố bất ngờ sẽ có thể vượt sông thành công Đánh giá rằng đầu cầu Magnuszew đủ lớn để khai thác, nguyên soái K. K. Rokossovsky hạ lệnh chuyển một lượng lớn binh lực sang khu vực này, trong đó bao gồm Tập đoàn quân Ba Lan 1. Như vậy, đến đầu tháng 8, quân đội Liên Xô đã đánh chiếm được hai đầu cầu bên bờ Tây sông Wisla, rất có lợi cho chiến dịch Wisla-Oder sau này.
Hoạt động phòng ngự của các sư đoàn bộ binh Ba Lan 2 và 3 phối hợp với Tập đoàn quân cận vệ 8 (Liên Xô) tại căn cứ đầu cầu Magnushev từ ngày 16 tháng 8 đến ngày 12 tháng 9 năm 1944
Tuy nhiên, đó là tất cả những gì mà Quân đội Liên Xô đạt được trong tháng 7 năm 1944 tại khu vực phía đông Warshawa. Mũi tấn công lên phía bắc của Tập đoàn quân xe tăng 2 (Liên Xô) đánh không thắng đã ảnh hưởng rất tiêu cực đến kế hoạch tấn công Warshawa của Phương diện quân Byelorussia 1. Sau 6 ngày liên tục tấn công từ ngày 1 đến ngày 5 tháng 8 tại khu vực từ quận Praga (bờ Đông sông Wisla) đến thị trấn Vołka Dombrovitsa, 5 sư đoàn xe tăng và các sư đoàn bộ binh 35, 55 (Đức) đã tạo thành một "cái chèn sắt" chia cắt cánh phải và cánh trái Phương diện quân Byelorussia 1 có chiều sâu đến 40 km tính từ bờ Đông sông Wisla đến thị trấn Minsk-Mazowiecsky. Ở bờ Bắc sông Tây Bug, Tập đoàn quân 65 phải dựa vào sức mạnh của chính mình để giữ đầu cầu Pułtusk - Serock chống lại các Quân đoàn bộ binh 27 (Đức) có Sư đoàn xe tăng 6 yểm hộ. Ở Ruzhan, phía bắc Pułtusk 30 km, Tập đoàn quân 48 cũng căng hết sức để chống laị Quân đoàn bộ binh 23 (Đức). Ở phía đông nam Warshawa, Tập đoàn quân xe tăng 2 đã suy yếu và Tập đoàn quân Ba Lan 1 đang mắc kẹt trên tuyến Praga - Mazowiecsky. Tập đoàn quân 8 đã đưa toàn bộ Quân đoàn bộ binh cận vệ 28 và một sư đoàn của Quân đoàn bộ binh cận vệ 4 vượt sông Wisla sang giữ đầu cầu Magnuszew. Ở giữa hai cánh quân đáng tiếp cận Warshawa là cái chèn bằng 7 sư đoàn xe tăng và bộ binh Đức. "Cái chèn sắt" này không chỉ chia cắt hai cánh của Phương diện quân Byelorussia 1 mà cùng với tuyến sông Wisla, nó còn chia cắt quân đội Liên Xô với quân khởi nghĩa Warshawa.
Phát hiện mối nguy hiểm xuất hiện ở khu vực đầu cầu Pułtusk - Serock, ngày 7 tháng 9, thượng tướng Georg-Hans Reinhardt, tư lệnh mới của Cụm tập đoàn quân Trung tâm rút Sư đoàn xe tăng 5 SS "Wiking", Sư đoàn xe tăng 3 SS "Totenkopf", Sư đoàn xe tăng 19 khỏi khu vực Praga và điều đến khu vực đầu cầu Narev. Các sư đoàn bộ binh 252 và 542 (Đức) cũng được ném vào đây. Tướng Walter Weiss được lệnh phải thanh toán bằng được căn cứ đầu cầu Narev của quân đội Liên Xô trong 10 ngày. Nắm được tin tức của trinh sát báo cáo về việc ba sư đoàn xe tăng Đức trước đó vẫn đóng tại khu vực Praga nay đã xuất hiện trước căn cứ đầu cầu Pułtusk - Serock, nguyên soái K. K. Rokossovsky ra lệnh cho Tập đoàn quân 47 tiến lên phía bắc, đánh chiếm Praga; đồng thời yêu cầu tướng P. I. Batov chuẩn bị chiến dịch phòng ngự. Chỉ đến khi những người cánh tả thuộc Quân đội Ljudova trong hàng ngũ quân khởi nghĩa Warshawa liều mạng vượt sông Wisla để liên lạc được với quân đội Liên Xô thì Bộ Tổng tham mưu Liên Xô mới nắm được một số thông tin về tình cảnh thực sự của những người khởi nghĩa đang bị các sư đoàn xe tăng Đức vây hãm trong thành phố và chia cắt họ thành ba cụm. Trong khi đó, các trận đánh ác liệt của Tập đoàn quân xe tăng 2 tại khu vực Volomin đã tiêu hao nhiều sinh lực, vũ khí, đạn dược và phương tiện của Phương diện quân Byelorussya 1. Ngày 10 tháng 9, nguyên soái K. K. Rokossovsky báo cáo với Đại bản doanh quân đội Liên Xô:
Người dân Ba Lan đón tiếp các chiến sĩ của Lũ đoàn kỵ binh độc lập 1 thuộc Quân đội nhân dân Ba Lan
Về phía mình, STAVKA cũng thông báo cho K. K. Rokossovsky rằng lực lượng dự bị của Đại Bản doanh đang dành cho cuộc tấn công sắp triển khai tại hướng Yassy - Kishinev nên Phương diện quân Byelorussia 1 chỉ có thể dựa vào lực lượng dự bị còn lại của chính họ là Tập đoàn quân 70 với vỏn vẹn 4 sư đoàn bộ binh. Yêu cầu của K. K. Rokossovsky về việc chuyển Tập đoàn quân xe tăng 1 của tướng M. E. Katukov cho Phương diện quân Byelorussia 1 cũng không thể thực hiện được do tập đoàn quân này đang chiến dấu để chống lại các sư đoàn xe tăng Đức tại khu vực đầu cầu Sandomiez với tính chất ác liệt không kém khu vực Warshava. Bằng binh lực hiện có, ngày 25 tháng 8, Phương diện quân Byelorussia 1 nối lại cuộc tấn công những kết quả rất hạn chế. Các sư đoàn của Tập đoàn quân 2 (Đức) đã khống chế chặt chẽ các khu vực đầu cầu Ruzhan, Pułtusk và Serock khiến các Tập đoàn quân 48 và 65 không thể triển khai các trận tấn công lớn. Tập đoàn quân cận vệ 8 (Liên Xô) cũng phải rất vất vả mới giữ được đầu cầu Magnushev trước các cuộc phản kích của Quân đoàn bộ binh 35 (Đức). Ngày 29 tháng 9, Bộ Tổng tham mưu yêu cầu Phương diện quân Byelorussia 1 tiếp tục tấn công để tìm mọi cách đánh chiếm khu vực Praga. Tuy nhiên, vẫn như trước đó một tháng, những người của quân đội Krajowa vẫn giữ thái độ bất hợp tác và im lặng kể cả khi các máy thu vô tuyến của họ bắt được làn sóng điện từ các điện đài của quân đội Liên Xô liên tục gọi đến.
Diễn biến quân sự - chính trị có liên quan
Quân đội nhân dân Ba Lan và Ủy ban giải phóng dân tộc Ba Lan
Edward Osóbka-Morawski, Chủ tịch Ủy ban giải phóng dân tộc Ba Lan
Do Đảng Cộng sản Ba Lan bị phát xít Đức cấm hoạt động và đàn áp, ngày 5 tháng 1 năm 1942, những người cánh tả ở Ba Lan đã lập ra Đảng Công nhân Ba Lan (hay Đảng Lao động Ba Lan: Polska Partia Robotnicza, PPR) do Marceli Nowotka là tổng thư ký. Sau khi Marceli Nowotka chết, ngày 28 tháng 11 năm 1942, Moloets Boleslaw lên thay. Tuy nhiên, ông này bị các đồng chí trong đảng tố cáo về các hoạt động khiêu khích, tham gia các hoạt động khủng bố và nhúng tay vào vụ giết hại Marceli Nowotka nên ngày 31 tháng 12 năm 1943, Moloets Boleslaw bị Ban chấp hành PPR bãi chức. Paweł Finder lên làm Tổng thư ký. Ngày 14 tháng 11 năm 1943, đến lượt Paweł Finder bị Gestapo bắt và sau đó, bị thủ tiêu ngày 26 tháng 7 năm 1944 cùng với một lãnh tụ khác của đảng này là Margareta Formalska. Người thay thế ông là Władysław Gomułka. Đảng Công nhân Ba Lan cũng lập ra tổ chức vũ trang riêng của mình là Quân đội "Gwardii Ludowej" (Quân đội cận vệ nhân dân) do Bolesław Mołojec làm Tổng tư lệnh. Đây là một quân đội hoạt động bí mật bằng chiến tranh du kích trên lãnh thổ Ba Lan và các vùng giáp biên với quân số ban đầu khoảng 20.000 người và đến tháng 7 năm 1944 lên đến hơn 100.000 người. Bộ chỉ huy "Gwardii Ludowej" chia đất nước Ba Lan thành 6 quân khu: Quân khu I (còn gọi là Quân khu Warshawa) gồm nội đô Warshawa, các quận của Warshawa bên tả ngạn sông Wisla và các quận của Warshawa bên hữu ngạn sông Wisla. Quân khu II (còn gọi là Quân khu Lubel) gồm các quận Lublin, Janów Lubelski và Siedlce Quân khu III (còn gọi là Quân khu Radom-Kielce) gồm các quận Radom, Kielce, Częstochow và Piotrków. Quân khu IV (còn gọi là Quân khu Krakow) gồm các quận Kraków, Podhale, Miechów, Tarnów, Rzeszów và Jasło Quân khu V (còn gọi là Quân khu Śląs) gồm các quận Zagłębie Dąbrowskie, Bielsko, Katowice và Chrzanów Quân khu VI (còn gọi là Quân khu Łódz) gồm các quận Łódź-Miast, Łódź Podmiejski, Poznań và Płock
Bản tuyên ngôn của Ủy ban giải phóng dân tộc Ba Lan ban hành ngày 22 tháng 7 năm 1944 Người dân Ba Lan đọc bản tuyên ngôn của Ủy ban giải phóng dân tộc Ba Lan
Quân đội cận vệ nhân dân đấu tranh vũ trang chống phát xít Đức và có mối liên hệ mật thiết với các tổ chức du kích Liên Xô hoạt động ở vùng giáp ranh Ba Lan - Byelorussia và Ba Lan - Ukraina. Ngày 1 tháng 1 năm 1944, theo sáng kiến của Văn phòng trung ương Đảng Cộng sản Ba Lan, quân đội "Gwardii Ludowej" hợp nhất với Sư đoàn bộ binh Ba Lan 1 "Tadeuz Kosciuszko" và Sư đoàn bộ binh Ba Lan 2 "Wanda Wasilewska" thành Quân đội nhân dân Ba Lan.
Ngay khi quân đội Liên Xô vượt qua đường Curzon, ngày 21 tháng 7 năm 1944, tại Khelm, Ủy ban Giải phóng Dân tộc Ba Lan (PKWN) đã được thành lập. Ban đầu, nó gồm 15 thành các chính đảng cánh tả như Đảng Công nhân Ba Lan, Đảng Xã hội Ba Lan, Đảng Dân chủ Ba Lan, Đảng Nông dân Ba Lan và những người không đảng phái, trong đó có các tướng lĩnh của Quân đội nhân dân Ba Lan: Chủ tịch ủy ban là Edward Osóbka-Morawski, người của Đảng Xã hội Ba Lan, kiêm nhiệm phụ trách đối ngoại. Wanda Wasilewska, người của Đảng Công nhân Ba Lan là phó chủ tịch, phụ trách Liên minh yêu nước Ba Lan (IPP) Andrzej Witos, người của Đảng Nông dân Ba Lan là phó chủ tịch, kiem nhiệm phụ trách các vấn đề nông nghiệp và cải cách ruộng đất. Stanisław Kotek-Agroszewski, người của Đảng Nông dân Ba Lan, phụ trách văn phòng của Ủy ban. Stanisław Radkiewicz, người của Đảng Công nhân Ba Lan, phụ trách an ninh công cộng. Jan Stefan Haneman, người của Đảng Xã hội Ba Lan, phụ trách kinh tế và tài chính. Stefan Jędrychowski, người của Đảng Công nhân Ba Lan, phụ trách thông tin và truyền thông. Jan Michał Grubecki, người của Đảng Nông dân Ba Lan, phụ trách giao thông liên lạc. Trung tướng Michał Żymierski, người của Đảng Công nhân Ba Lan phụ trách quân sự, quốc phòng. Wincenty Rzymowski, người của Đảng Dân chủ Ba Lan, phụ trách văn hóa nghệ thuật. Emil Sommerstein, người không đảng phái, phụ trách các vấn đề thương binh và hậu quả chiến tranh. Stanisław Skrzeszewski, người của Đảng Công nhân Ba Lan, phụ trách giáo dục. Bolesław Drobner, người của Đảng Xã hội Ba Lan, phụ trách các vấn đề lao động, y tế và phúc lợi xã hội. Jan Czechowski, người của Đảng Nông dân Ba Lan, phụ trách các vấn đề pháp luật.
Ngày 22 tháng 7, PKWN ra bản tuyên ngôn nêu rõ các vấn đề chủ yếu gồm cải cách ruộng đất, quốc hữu hóa các ngành côgn nghiệp chủ chốt và tiếp tục đấu tranh chống phát xít Đức. Ngày 27 tháng 7 năm 1944. Ủy ban này chuyển đến hoạt động tại Lyublin và bắt đầu các hoạt động hành chính của một chính phủ lâm thời tại các vùng đất Ba Lan (theo đường Curzon) vừa được Liên Xô giải phóng. Cùng ngày, Chủ tịch Edward Osóbka-Morawski thay mặt PKWN ký kết với Chính phủ Liên Xô hiệp định về đường biên giới Ba Lan - Liên Xô trên cơ sở đường Curzon. Trên cơ sở cuộc đàm phán tay đôi từ ngày 26 đến ngày 27 tháng 7 giữa các đại diện của PKWN do Edward Osóbka-Morawski đứng đầu với Stanisław Mikołajczyk, thủ tướng chính phủ Ba Lan lưu vong ở London và nhiều cuộc đàm phán do Liên Xô làm trung gian nhằm thống nhất hành động của các lực lượng Ba Lan chống phát xít, ngày 1 tháng 1 năm 1945, Ủy ban giải phóng dân tộc Ba Lan được cải tổ thành Chính phủ lâm thời của nước Cộng hòa Ba Lan (Rząd Tymczasowy Rzeczypospolitej Polskiej - RTRP). Chính phủ này vẫn do Edward Osóbka-Morawski đứng đầu. 5 thành viên của Chính phủ Ba Lan lưu vong ở London đã tham gia chính phủ này. Trong đó, Stanisław Mikołajczyk giữ chức vụ Phó Thủ tướng kiêm Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp.
Ngay từ khi mới ra PKWN mới ra đời, Chính phủ Ba Lan lưu vong ở Anh đã tuyên bố đó là một chính phủ "con rối" của Moskva. Để đáp lại lời tuyên bố đó, ngày 26 tháng 7, Chính phủ Liên Xô ra tuyên bố nêu rõ:
Cuộc đàm phán giữa Chính phủ lưu vong Ba Lan và PKWN ở Moskva
Các chỉ huy đầu tiên của Quân đội nhân dân Ba Lan. Từ trái sang phải: Karol Świerczewski, Marian Spychalski và Michał Rola-Żymierski
Stanisław Mikołajczyk, Thủ tướng Chính phủ Ba Lan lưu vong ở London
Ngay sau khi Ủy ban giải phóng dân tộc Ba Lan được thành lập tại Khelm trên đất Ba Lan và khi bản tuyên bố của Chính phủ Liên Xô về vấn đề Ba Lan vừa được phát sóng, ngày 26 tháng 7 năm 1944, Stanisław Mikołajczyk, thủ tướng Chính phủ Ba Lan lưu vong ở London lên đường đi Moskva để đàm phán với Chính phủ Liên Xô về các vấn đề của Ba Lan liên quan đến các hoạt động quân sự của Liên Xô trên lãnh thổ Ba Lan. Ngày 28 tháng 7, Stanisław Mikołajczyk dừng chân tại Cairo và có cuộc gặp với các đại diện của Ba Lan tại đây. Ngày 31 tháng 7, Ngoại trưởng V. M. Molotov tiếp Stanisław Mikołajczyk tại trụ sở Bộ ngoại giao Liên Xô. Tại buổi tiếp kiến, Stanisław Mikołajczyk tuyên bố mọi kế hoạch hành động của lực lượng Armia Krajowa đã được lên kế hoạch và Chính phủ Ba Lan ở London đang cho tập trung lực lượng. Riêng về phương án hành động tại Warshawa, Stanisław Mikołajczyk cho biết Chính phủ Ba Lan còn đang suy nghĩ tới kế hoạch tổng khởi nghĩa. Ông ta đề nghị Liên Xo cho không quân ném bom, bắn phá các sân bay quanh Warszawa để hỗ trợ cho cuộc khởi nghĩa nếu nó xảy ra. Ngoài ra, Stanisław Mikołajczyk không cho người Nga biết thêm các chi tiết và cũng không đặt kế hoạch phối hợp hành động cụ thể.
Tại cuộc đàm phán chính thức giữa đoàn đại biểu Chính phủ Ba Lan lưu vong ở London gồm Stanisław Mikołajczyk, S. Grebowski và tướng Romera-Żeligowski với đoàn đại biểu Liên Xô tại điện Kremly ngày 3 tháng 8, mặc dù khởi nghĩa Warrshawa đã nổ ra được hai ngày nhưng Stanisław Mikołajczyk không hề cho chính phủ Liên Xô biết về cuộc khởi nghĩa ở Warshawa và cũng không đề nghị phối hợp với phía Liên Xô. Chỉ đến khi tướng S. M. Stemenko, đại diện Bộ Tổng tham mưu Liên Xô thông báo cho Stanisław Mikołajczyk biết người Nga đã nắm được một số thông tin sơ bộ về cuộc khởi nghĩa Warshawa thì ông ta mới thừa nhận có chuyện đó và đề nghị Liên Xô giúp đỡ thả vũ khí và lương thực xuống Warshawa cho quân khởi nghĩa bằng máy bay. I. V. Stalin nói Liên Xô sẽ giúp những người khởi nghĩa bằng cách đó nhưng trước hết, Liên Xô phải nắm được vị trí hiện tại của quân khởi nghĩa thì mới có thể thả hàng đúng chỗ mà không bị rơi vào tay quân Đức. Đáp lại, cả Stanisław Mikołajczyk và hai thành viên đi cùng đều nói rằng họ cũng không biết gì hơn. Khi được tướng S. M. Stemenko đề nghị bàn việc phối hợp hành động giữa hai bên, Stanisław Mikołajczyk vẫn giữ thái độ im lặng và lặp lại đề nghị phía Liên Xô thả dù hàng để giúp những người khởi nghĩa về vũ khí và lương thực. Kết thúc cuộc đàm phán, I. V. Stalin khuyên Stanisław Mikołajczyk nên gặp các thành viên của Hội đồng quốc gia dân tộc Ba Lan (KRN) và Ủy ban giải phóng dân tộc Ba Lan để thống nhất kế hoạch hành động với họ. Phía Liên Xô sẽ mời họ từ Lyublin đến và sẽ cung cấp mọi điều kiện để cuộc đàm phán diễn ra thuận lợi.
Ngày 5 tháng 8, Boleslaw Bierut, Chủ tịch KRN, Edward Osóbka-Morawski, Chủ tịch PKWN và trung tướng Michał Żymierski có mặt tại Moskva và cuộc đàm phán bắt đầu. Người Nga không tham gia cuộc hội đàm này. Tuy nhiên, trong suốt 4 ngày đàm phán, phái đoàn của Chính phủ Ba Lan lưu vong do Stanisław Mikołajczyk dẫn đầu đã giữ thái độ khiêu khích và bất hợp tác. Họ đòi phải dành cho Chính phủ Ba Lan lưu vong ở London giữ 80% số ghế trong chính phủ liên hiệp lâm thời, đòi lập lại Hiến pháp 1935. Họ cũng bác bỏ đề nghị của phái đoàn PKWN về việc công nhận tình hình chính trị tại Ba Lan dã thay đổi trong mùa hè năm 1944 với các chính đảng mới ra đời mà không phải là Đảng Cộng sản. Những người đại diện cho KRN và PKWN vẫn giữ lập trường của mình. Đàm phán đổ vỡ.
Để cứu vãn tình hình, ngày 5 tháng 9, I. V. Stalin tiếp riêng Stanisław Mikołajczyk. Tại buổi hội kiến, I. V. Stalin cho Stanisław Mikołajczyk biết ông vừa nhận được bức giác thư của phái bộ quân sự Anh tại Moskva gửi đến Bộ Tổng tham mưu quân đội Liên Xô. Bức giác thư thông báo về việc họ nhận được bức điện tín của "những người của London" nói về cuộc khởi nghĩa dã nổ ra ở Warshawa ngày 1 tháng 8. Đến lúc này, Stanisław Mikołajczyk buộc phải thông báo cho phía Liên Xô một cách tỷ mỷ hơn về cuộc khởi nghĩa ở Warshawa cũng như cho biết về tình trạng thiếu vũ khí trầm trọng của quân khởi nghĩa. Căn cứ thông điệp của phái bộ quân sự Anh ở Moskva. Ngày 6 tháng 8, I. V. Stalin đã gọi điện trực tiếp cho nguyên soái K. K. Rokossovsky, yêu cầu cử trinh sát nhảy dù xuống Warsahawa để bắt liên lạc ngay với lãng đạo quân khởi nghĩa. Tuy nhiên, tướng Tadeusz Bur-Komorowski không thèm tiếp họ. Ngày hôm sau, các trinh sát Liên Xô đã sa vào tay quân Đức. Cùng ngày, Stanisław Mikołajczyk lên đường trở về London. Chính phủ PKWN và Chính phủ Ba Lan lưu vong ở London đã không đạt được bất kỳ một thỏa thuận nào. Ngày 25 tháng 7, khi Tập đoàn quân xe tăng 2 (Liên Xô) còn cách quận Praga hơn 20 km về phía đông nam và phải đối phó với các đòn phản kích ngày càng mạnh hơn của các sư đoàn xe tăng Đức thì tướng Tadeusz Bur-Komorowski, Tổng chỉ huy "Armija Krajowa" tại Warshawa đã phớt lờ cảnh báo của Bộ chỉ huy tối cao quân đồng minh Anh - Mỹ tại châu Âu rằng họ không thể trông đợi vào sự giúp đỡ của người Anh. Ông báo tin cho Chính phủ Ba Lan lưu vong tại London:
Do sợ bị "chậm chân" nên Bộ chỉ huy "Armia Krajowa" tổ chức cuộc khởi nghĩa một cách vội vã. Vì vậy, thời điểm cuộc khởi nghĩa nổ ra không thống nhất, công tác bảo mật cũng rất kém cỏi khiến tính chất bất ngờ của cuộc khởi nghĩa bị mất. Nhiều binh sĩ của "Armia Krajowa" phải tự đi tìm người chỉ huy của mình. Đến lượt họ, những chỉ huy này cũng không nắm được địa điểm đặt các kho vũ khí, trang bị. Đến hết ngày đầu tiên, mới chỉ có 3.500 chiến binh trong tổng số 16.000 chiến binh của "Armia Krajowa" được trang bị vũ khí bộ binh cá nhân. Điều đó làm cho các cuộc tấn công diễn ra với cường độ yếu ớt. Quân Đức tại Warshawa vẫn chiếm giữ được các trung tâm thông tin, các đầu mối giao thông, các sở chỉ huy và các trung tâm năng lượng chủ chốt.
Tướng Bor-Komorowski và đại tá Radoslaw-Mazurkiewicz kiểm tra các vị trí của quân khởi nghĩa, ngày 4 tháng 8 năm 1944
Kế hoạch của Bộ tham mưu quân đội Krajowa do tướng Tadeusz Bur-Komorowski dự kiến chỉ sử dụng quân đội Krajowa đánh chiếm các mục tiêu trọng yếu trong thành phố, sau đó tổ chức phòng thủ và "ngồi chờ" quân đội Liên Xô kéo vào. Nhưng tin tức về cuộc khởi nghĩa sắp nổ ra đã lan đi khắp hang cùng ngõ hẻm của Warrshawa khiến cho hầu như toàn thể người dân Ba Lan còn sinh sống tại Warshawa đều tự nguyện tham gia vào cuộc khởi nghĩa này. Quy mô của nó vượt ra ngoài dự tính của tướng Tadeusz Bur-Komorowski và Chính phủ lưu vong Ba Lan ở London. Hàng nghìn người Ba Lan xếp hàng tại các điểm đóng quân của các chi đội Armia Krajowa để chờ được phân phát vũ khí. Hàng vạn người Ba Lan đã tự nguyện xây dựng các chiến lũy, đặt các chướng ngại vật trên các tuyến phố, tổ chức tiếp tế hậu cần cho các chi đội Armia Krajowa. Người dân Warshawa nhân cơ hội này đã trút mọi căm thù của mình tích tụ từ năm 1939 đến nay lên đầu quân phái xít chiếm đóng. Mặc dù trong lời kêu gọi của tướng Tadeusz Bur-Komorowski không hề nhắc đến sự giúp đỡ của người Nga nhưng người dân Ba Lan vẫn tin rằng quân đội Liên Xô sẽ đến giúp đỡ họ. Thống chế Đức Walter Model đứng trước hai sự lực chọn: hoặc là dẹp quân khởi nghĩa trước r