✨Chiến dịch tấn công Proskurov–Chernovtsy

Chiến dịch tấn công Proskurov–Chernovtsy

Chiến dịch tấn công Proskurov (Khmelnitskyi)–Chernovtsy (từ 4 tháng 3 đến 17 tháng 4 năm 1944) là một trong các trận đánh lớn nhất giữa Hồng quân Liên Xô và Quân đội Đức quốc xã trong các hoạt động quân sự ở hữu ngạn Ukraina thuộc Chiến tranh thế giới thứ hai. Trong 44 ngày diễn ra chiến dịch, Phương diện quân Ukraina 1 thực hiện các đòn vu hồi sâu đến 350 km từ căn cứ bàn đạp Rovno - Lutsk xuống phía Nam dọc theo kinh tuyến 26 (Đông) đến Chernovtsy, chia cắt Tập đoàn quân xe tăng 1 (Đức) với chủ lực Cụm tập đoàn quân Nam (Đức), tiến ra vùng ngã ba biên giới Liên Xô - Tiệp Khắc - Romania. Cùng thời gian này, Phương diện quân Ukraina 2 phát động cuộc tổng tấn công theo hướng Đông Bắc - Tây Nam từ khu vực Uman - Pervomaisk đến Bălţi và Botosani trên đất Romania. Các hoạt động tấn công do hai phương diện quân mạnh nhất trên mặt trận Ukraina của Quân đội Liên Xô tiến hành đã tạo nên một vòng vây rất rộng bao bọc chủ lực Tập đoàn quân xe tăng 1 và cánh Bắc của Tập đoàn quân 8 (Đức) tại khu vực Proskurov - Vinitsa - Kamenets Podolsky. Chiến dịch này đã làm thiệt hại nặng Tập đoàn quân xe tăng 1 (Đức) và các sư đoàn còn lại của Tập đoàn quân 8 (Đức) chưa bị đánh tan trong Chiến dịch hợp vây Korsun-Shevchenkovsky trước đó.

Lẽ ra chiến dịch này có thể thành công mỹ mãn nếu như cánh phải của Phương diện quân Ukraina 2 tiến công sớm hơn, phối hợp tốt hơn với cánh trái của Phương diện quân Ukraina 1 trong việc kiềm chế Tập đoàn quân xe tăng 1 (Đức) và Phương diện quân Ukraina 1 bố trí nhiều lực lượng dự bị hơn để tăng dày vòng vây phía ngoài trên hướng Lvov - Stanislav. Nguyên soái G. K. Zhukov và Bộ tư lệnh Phương diện quân Ukraina 1 cũng mắc sai lầm khi triển khai một vòng vây quá rộng ở phía Tây với binh lực mỏng và phán đoán sai ý đồ hướng phá vây của Tập đoàn quân xe tăng 1 (Đức). Về phía quân đội Đức Quốc xã, mặc dù rút được một phần lực lượng khỏi "cái túi" Kamenets Podolsky nhưng các sư đoàn xe tăng của Tập đoàn quân xe tăng 1 (Đức) đã bỏ lại 357 xe tăng, 42 pháo tự hành, 280 khẩu pháo xe kéo và thiết bị quân sự hạng nặng cùng những tổn thất lớn về quân số. Các trung đoàn xe tăng hạng nặng 503, 506, 509 (Đức) khi vào trận đều được biên chế 56 xe tăng Tiger I nhưng khi thoát vây chỉ còn lại 5 đến 7 chiếc.

Kết quả của chiến dịch này và cũng là của Chiến dịch tấn công Uman–Botoşani đã cắt đôi mặt trận của Cụm tập đoàn quân Nam (Đức) tại Tây Ukraina. Tổng hành dinh quân đội Đức Quốc xã đã phải chia Cụm tập đoàn quân Nam (Đức) làm đôi. Cụm tập đoàn quân Bắc Ukraina do Thượng tướng Walter Model chỉ huy và Cụm tập đoàn quân Nam Ukraina do Thượng tướng Johannes Hans Frießner chỉ huy. Thống chế Erich von Manstein bị huyền chức sau khi được tặng Thanh kiếm danh dự và Huân chương Chữ thập Hiệp sĩ.

Thành công của chién dịch này đã mở ra trước mặt Phương diện quân Ukraina 1 (Liên Xô) hai hướng tấn công chính. Một hướng qua núi Carpath vào Tiệp Khắc và một hướng qua thượng nguồn sông Vistula tiếp cận biên giới nước Đức. Quân đội Liên Xô bắt đầu tác chiến trên lãnh thổ nước ngoài với nhiều thách thức và điều kiện hoàn toàn khác lạ đang chờ họ ở phía trước. Quân đội Đức Quốc xã đã phải huy động đến nguồn quân lực từ các chính quyền Đông Âu là đồng minh của họ như Romania, Hungaria và cả quân Slovakia, buộc Quân đội Liên Xô phải áp dụng các biện pháp chính trị, ngoại giao để hỗ trợ cho các hoạt động quân sự theo hướng cô lập Quân đội Đức Quốc xã ngay trên lãnh thổ các đồng minh không lấy gì làm chắc chắn lắm của họ.

Bối cảnh lịch sử và tình huống mặt trận

Tình hình mặt trận Xô-Đức tại Ukraina tháng 4 năm 1944

Cuối tháng 2, đầu tháng 3 năm 1944, Cụm tập đoàn quân Nam (Đức) phải liên tục đối phó với nhiều đòn tấn công tổng lực của Quân đội Liên Xô trên khắp chiến trường miền Tây Ukraina. Trong khi Chiến dịch Korsun-Shevchenkovsky đang ở vào giai đoạn gay cấn thì hai chiến dịch nhỏ hơn được Quân đội Liên Xô liên tiếp mở ra tại Rovno–Lutsk và Nikopol-Krivoi Rog. 18 sư đoàn xe tăng, những trụ cột phòng ngự cơ động của Cụm tập đoàn quân Nam (Đức) phải di chuyển như con thoi từ Nam lên Bắc và ngược lại để ứng cứu cho bộ binh Đức tại các đột phá khẩu rất lớn mà Quân đội Liên Xô đã mở ra. Trong Chiến dịch Korsun-Shevchenkovsky, 8 sư đoàn xe tăng Đức (1, 3, 11, 13, 14, 16, 17 và 1 SS) phải tập trung lại trên một địa đoạn hẹp không quá 100 km chính diện để cứu 10 sư đoàn bộ binh và 1 sư đoàn xe tăng trong vòng vây đã để lộ một giãn cách rộng đến hơn 120 km giữa Tập đoàn quân xe tăng 1 với Tập đoàn quân xe tăng 4 (Đức) đang phòng ngự tại khu vực Tarnopol - Proskurov - Vinitsa. Những giãn cách nguy hiểm tương tự của Quân đội Đức Quốc xã cũng xuất hiện tại các khu vực Uman, Novoukrainka, Novyi Bug và dọc theo sông Nam Bug. Mặc dù chiến tranh đã đến gần nước Đức hơn nhưng cự ly giữa mặt trận và các đơn vị dự bị (Đức) vẫn còn rất lớn; nơi gần nhất cũng mất 2 đến 3 ngày chuyển quân bằng xe lửa, chưa kể thời gian chất hàng và xuống hàng. Ở phía Bắc, sau Chiến dịch Rovno–Lutsk, một lỗ hổng lớn trên tuyến phòng ngự của Cụm Tập đoàn quân Nam (Đức) cũng đã xuất hiện tại tuyến Mlynov - Shumskoye - Izyaslav. Đây chính là nơi mà quân đội Liên Xô sẽ khởi sự một trong các đòn đột kích sâu nhất của họ tại hữu ngạn Ukraina.

Trong ba tháng cuối năm 1943 và ba tháng đầu năm 1944, không chỉ Cụm tập đoàn quân Nam mà cả Cụm tập đoàn quân Bắc và Cụm tập đoàn quân Trung tâm (Đức) cũng phải chống trả liên tục các đòn tấn công của quân đội Liên Xô, khởi đầu cho một chuỗi chiến dịch mà giới sử học quân sự vẫn gọi là "Mười đòn đánh của Stalin". Chỉ trong nửa năm đó, đã diễn ra 5 chiến dịch lớn tại chính diện của Cụm tập đoàn quân Bắc, 3 chiến dịch lớn nhằm vào Cụm tập đoàn quân Trung tâm. Quân đội Đức Quốc xã không còn được tự do di chuyển lực lượng tăng - thiết giáp từ những mặt trận còn tương đối yên tĩnh đến những khu vực chiến sự sôi động hơn như thời gian từ giữa năm 1942 đến giữa năm 1943. Với tình trạng bắt đầu thiếu hụt xe tăng, biên chế các trung đoàn xe tăng, đơn vị chiến đấu cơ bản, cũng bị cắt giảm về phương tiện. Nếu như thời kỳ 1941-1943, một trung đoàn xe tăng Đức có thể có từ 72 đến 81 xe tăng, trong đó có từ 36 đến 45 xe tăng hạng nặng thì đến đầu năm 1944, con số này chỉ còn từ 50 đến 60 chiếc, trong đó có từ 27 đến 30 xe tăng hạng nặng. Các nhà máy sản xuất các loại xe tăng cũ (trừ loại Panzer IV) bắt đầu phải sửa chữa, phục hồi nhiều xe tăng hỏng trong khi chưa triển khai được dây chuyền sản xuất xe tăng mới.

Trong khi đó, Quân đội Liên Xô vẫn tiếp tục nhận được binh lực bổ sung đều đặn từ các tập đoàn quân dự bị và các trang bị kỹ thuật ngày càng hiện đại hơn từ nền công nghiệp quốc phòng đã phục hồi nhanh chóng và liên tục phát triển của họ. Việc phục hồi vùng các công nghiệp Kharkov và Donets đã đem lại cho họ thêm 31.000 tấn than mỗi ngày, 10.000 tấn thép cán và 1.094 máy kéo mỗi tháng. Hơn 1.300 nhà máy quốc phòng trọng yếu ở các vùng Ural, Povolzhe, Tây Sibir... trong đó có các nhà máy sản xuất xe tăng, pháo và các vũ khí hạng nặng ở Chelyabinsk, Sverdlovsk, Ural Khimaz, Novosibirsk, Magnitogorsk... vẫn tiếp tục đưa đến tiền tuyến hàng trăm xe tăng, hàng nghìn súng, pháo, hàng vạn tấn đạn dược, hàng chục vạn tấn quân nhu mỗi tuần trên những "con đường xanh", những chuyến vận tải đường sắt ưu tiên tuyệt đối, không phải dừng lại ở bất kỳ ga trung gian nào, trừ lý do kỹ thuật. Các nhà máy công nghiệp quốc phòng cũ như Tula, Gorky, Kirov cũng phục hồi với sản lượng và chất lượng cao hơn hẳn trước chiến tranh.

Khu vực Proskurov, Chernovtsy, Kremenets, Starokonstantinov, Ternopil, Vinitsa chính là nơi khởi đầu các trận đánh mở màn Chiến tranh Xô-Đức tại chiến trường Ukraina. Tại đây đã diễn ra những trận hội chiến biên giới năm 1941, trong đó có Trận Dubno - Lutsk - Brody và Trận Uman. Sau gần 3 năm, những đạo quân xe tăng có nhiều duyên nợ của Quân đội Liên Xô và Quân đội Đức Quốc xã lại gặp nhau trên chiến trường cũ trong những trận quyết đấu. Tuy nhiên, thế và lực của họ đã khác nhau rất nhiều.

Binh lực và kế hoạch

Quân đội Liên Xô

Binh lực

Phương diện quân Ukraina 1 do Nguyên soái G. K. Zhukov tạm thời chỉ huy thay đại tướng N.F.Vatutin bị thương nặng. Đây là một trong hai phương diện quân có binh lực mạnh nhất vùng Ukraina khi đó. G. K. Zhukov chỉ để lại Tập đoàn quân 13 phối hợp với Phương diện quân Byelorussia 2 kiềm chế cánh Bắc của Tập đoàn quân xe tăng 4 (Đức). Còn lại 7 tập đoàn quân của phương diện quân, trong đó có 3 tập đoàn quân xe tăng đều được huy động vào hướng tấn công chính của chiến dịch.

Tập đoàn quân xe tăng 1 do trung tướng M. E. Katukov chỉ huy, biên chế có: Quân đoàn cơ giới cận vệ 8 gồm Lữ đoàn xe tăng cận vệ 1; các lữ đoàn cơ giới cận vệ 19, 20, 21; Trung đoàn pháo chống tăng tự hành 353; Trung đoàn pháo tự hành 756; Trung đoàn súng cối cận vệ 8; Trung đoàn pháo xe kéo 265; Trung đoàn hỏa tiễn cận vệ 405 và Trung đoàn phòng không cận vệ 358. Quân đoàn xe tăng cận vệ 11 gồm các lữ đoàn xe tăng cận vệ 40, 44, 45; các lữ đoàn pháo tự hành cận vệ 9, 27; các trung đoàn pháo chống tăng 362, 391; Trung đoàn súng cối cận vệ 270; Trung đoàn pháo binh cận vệ 54 và Trung đoàn phòng không 1448. Quân đoàn bộ binh 11 gồm các sư đoàn bộ binh 24, 271 và 251. Các đơn vị trực thuộc Tập đoàn quân: Lữ đoàn xe tăng cận vệ 47; các trung đoàn pháo xe kéo 874, 1646, 1664; Sư đoàn phòng không 8; Lữ đoàn công binh 59, các trung đoàn công binh 235, 317.

Tập đoàn quân xe tăng cận vệ 3 do thượng tướng P. A. Rybalko chỉ huy, biên chế có: Quân đoàn xe tăng cận vệ 6 gồm các lữ đoàn xe tăng cận vệ 51, 52, 53; Lữ đoàn cơ giới cận vệ 22; các trung đoàn pháo tự hành 702, 1893; Trung đoàn pháo binh cận vệ 3; Trung đoàn pháo chống tăng 1666; Trung đoàn súng cối cận vệ 272 và Trung đoàn phòng không cận vệ 286. Quân đoàn xe tăng cận vệ 7 gồm các lữ đoàn xe tăng cận vệ 54, 55, 56; Lữ đoàn cơ giới cận vệ 23, các trung đoàn pháo tự hành 1507, 1894; Trung đoàn pháo binh cận vệ 4, Trung đoàn pháo chống tăng cận vệ 312; Trung đoàn súng cối cận vệ 467; Trung đoàn hỏa tiễn cận vệ 53 và Trung đoàn phòng không cận vệ 287. Quân đoàn cơ giới 9 gồm các lữ đoàn cơ giới 69, 70, 71; các trung đoàn xe tăng 47, 59; Lữ đoàn pháo tự hành 100; Trung đoàn pháo chống tăng cận vệ 108; Trung đoàn pháo binh 396; Trung đoàn súng cối 616 và Trung đoàn phòng không 1719. Các đơn vị trực thuộc Tập đoàn quân: Lữ đoàn xe tăng 91; Trung đoàn pháo tự hành 50; Tiểu đoàn trinh sát cơ giới 39, Trung đoàn cơ giới cận vệ 90; các trung đoàn phòng không 1381, 1393; Trung đoàn công binh 182.

Tập đoàn quân xe tăng 4 do trung tướng D. D. Lelyushenko chỉ huy. Biên chế có: Quân đoàn cơ giới cận vệ 6 gồm các lữ đoàn cơ giới cận vệ 16, 17; Lữ đoàn cơ giới 49; các trung đoàn xe tăng 29, 56; Trung đoàn pháo tự hành cận vệ 1, Lữ đoàn pháo binh 95; Trung đoàn pháo binh cận vệ 51; Trung đoàn pháo chống tăng 740; Trung đoàn súng cối 240; Trung đoàn súng cối cận vệ 52 và Trung đoàn phòng không cận vệ 31. Quân đoàn xe tăng cận vệ 10 gồm các lữ đoàn xe tăng cận vệ 61, 62, 63; Lữ đoàn cơ giới cận vệ 29, Trung đoàn pháo tự hành cận vệ 356; Lữ đoàn pháo binh cận vệ 7; Trung đoàn pháo chống tăng cận vệ 357; Trung đoàn pháo binh cận vệ 62; Trung đoàn súng cối cận vệ 299; các trung đoàn phòng không cận vệ 359 và 248. *Các đơn vị trực thuộc tập đoàn quân: Trung đoàn pháo tự hành cận vệ 51, Trung đoàn pháo binh cận vệ 312, Trung đoàn công binh 88.

Tập đoàn quân cận vệ 1 do Thượng tướng A. A. Gresko chỉ huy. Biên chế có: Quân đoàn bộ binh cận vệ 17 có 2 sư đoàn bộ binh 147 và 309. Quân đoàn bộ binh cận vệ 18 có 2 sư đoàn bộ binh 226 và 280. Quân đoàn bộ binh 47 có 2 sư đoàn bộ binh 68 (cận vệ), 146 và Sư đoàn bộ binh xung kích 2. Quân đoàn bộ binh 107 gồm 3 sư đoàn bộ binh 107, 304 và 359. *Các đơn vị trực thuộc tập đoàn quân: Lữ đoàn xe tăng 93, các trung đoàn pháo tự hành cận vệ 1, 29; các trung đoàn pháo chống tăng tự hành cận vệ 374, 399; Lữ đoàn pháo binh cận vệ 3; Trung đoàn pháo binh 518; Lữ đoàn pháo chống tăng 496; Trung đoàn súng cối cận vệ 329, 525; Sư đoàn phòng không 25 và trung đoàn phòng không độc lập 580.

Tập đoàn quân 13 do Trung tướng N. P. Pukhov chỉ huy. Biên chế có Quân đoàn bộ binh 24 gồm các sư đoàn bộ binh 71, 287, 350. Quân đoàn bộ binh 27 gồm các sư đoàn bộ binh 112, 162 và cận vệ 6. Quân đoàn bộ binh 76 gồm các sư đoàn bộ binh 149, 172 và cận vệ 121. Quân đoàn kỵ binh cận vệ 1 gồm các sư đoàn kỵ binh cận vệ 1, 2, 7; Trung đoàn xe tăng 58; Trung đoàn pháo tự hành 1244; Trung đoàn pháo chống tăng cận vệ 143; Trung đoàn pháo binh cận vệ 1; các trung đoàn súng cối 49 và cận vệ 1; Trung đoàn phòng không cận vệ 1. Quân đoàn kỵ binh cận vệ 6 gồm các sư đoàn kỵ binh cận vệ 8, 13; Sư đoàn kỵ binh Cossak 3; Trung đoàn pháo tự hành 1813; Trung đoàn pháo chống tăng cận vệ 142; Trung đoàn pháo binh cận vệ 6; Trung đoàn súng cối cận vệ 11; Trung đoàn phòng không 1732. Các đơn vị trực thuộc tập đoàn quân: Lữ đoàn bộ binh Tiệp khắc 1, Lữ đoàn du kích 160 Ukraina, Lữ đoàn xe tăng 150, các trung đoàn xe tăng nhẹ 11, 25; Trung đoàn cơ giới cận vệ 2; các tiểu đoàn trinh sát cơ giới 45, 49; các lữ đoàn pháo binh 33, 38; các trung đoàn pháo binh cận vệ 19, 111, 112; các trung đoàn pháo binh 805, 1528; Lữ đoàn pháo chống tăng cận vệ 22; các trung đoàn pháo chống tăng 316, 493, 868, 1076, 1643, 1644, 1645; các trung đoàn súng cối 128, 476, 477, 497; các sư đoàn phòng không 10, 37, Trung đoàn phòng không độc lập 1287; Sư đoàn công binh 7, Lữ đoàn công binh 275, các trung đoàn vận tải 9, 20.

Tập đoàn quân 18 do trung tướng E. P. Zhuravlev chỉ huy. Biên chế có: Quân đoàn bộ binh 22 gồm các sư đoàn bộ binh 71, 129 (cận vệ), 317. Quân đoàn bộ binh 52 gồm các sư đoàn bộ binh 24, 117 (cận vệ), 395. *Các đơn vị trực thuộc tập đoàn quân: Sư đoàn bộ binh 161; Trung đoàn pháo tự hành cận vệ 12; các trung đoàn pháo binh cận vệ 69, 112, 108, 312; các trung đoàn chống tăng 408, 493; Trung đoàn súng cối 569, Sư đoàn phòng không 37; Trung đoàn phòng không 269; Lữ đoàn công binh 50.

Tập đoàn quân 38 do thượng tướng K. S. Moskalenko chỉ huy. Biên chế có: Quân đoàn bộ binh 67 gồm các sư đoàn bộ binh 100, 151, 237, 241. Quân đoàn bộ binh 101 gồm các sư đoàn bộ binh 70, 211, 221. *Các đơn vị trực thuộc tập đoàn quân: Các trung đoàn pháo tự hành 1890, 1899, 1900; Trung đoàn pháo binh 628; Lữ đoàn pháo chống tăng 23, các trung đoàn pháo chống tăng 269, 1663; Trung đoàn súng cối 491; Sư đoàn phòng không 21; Lữ đoàn công binh 15; Trung đoàn vận tải 268.

Tập đoàn quân 60 do thượng tướng I. D. Cherniakhovsky chỉ huy. Biên chế có: Quân đoàn bộ binh 15 gồm các sư đoàn bộ binh 148, 322, 336. Quân đoàn bộ binh 28 gồm các sư đoàn bộ binh 107, 140, 246. Quân đoàn bộ binh 94 gồm các sư đoàn bộ binh 99, 117 (cận vệ). Quân đoàn bộ binh 106 gồm các sư đoàn bộ binh 135, 302, 340. *Các đơn vị trực thuộc tập đoàn quân: Sư đoàn pháo binh cận vệ 1; Lữ đoàn pháo binh cận vệ 24; các trung đoàn pháo binh 839, 1156; các lữ đoàn pháo chống tăng cận vệ 7, 8 và 28; các trung đoàn pháo chống tăng 460, 1506, 1660; các trung đoàn súng cối 9, 138; Trung đoàn hỏa tiễn cận vệ 3; Sư đoàn phòng không 23; Trung đoàn phòng không 219; Lữ đoàn công binh 59; các trung đoàn vận tải 235, 317.

Tập đoàn quân không quân 2 do thượng tướng S. A. Krasovsky chỉ huy. Biên chế có 1 sư đoàn tiêm kích, 2 sư đoàn cường kích, 1 sư đoàn ném bom ban ngày, 1 sư đoàn ném bom ban đêm, 2 trung đoàn vận tải, 1 trung đoàn đổ bộ đường không, 1 trung đoàn trinh sát, 1 trung đoàn cứu hộ, 4 trung đoàn phòng không.

Các đơn vị dự bị chiến dịch trực thuộc Bộ tư lệnh Phương diện quân Quân đoàn xe tăng cận vệ 4 của thiếu tướng P. P. Poluboyarov gồm các lữ đoàn xe tăng cận vệ 12, 13, 14; Lữ đoàn cơ giới cận vệ 3; Trung đoàn pháo tự hành 76; Trung đoàn pháo chống tăng 756; Trung đoàn pháo binh 752; Trung đoàn súng cối 264; các trung đoàn phòng không cận vệ 120, 240. Quân đoàn xe tăng 25 của thiếu tướng Fyodor Gerasimovich Anikushkin gồm các lữ đoàn xe tăng 111, 162, 175; Lữ đoàn cơ giới 16; Trung đoàn pháo tự hành 1251; Trung đoàn pháo chống tăng 1497; Trung đoàn súng cối 459; Trung đoàn pháo binh 746; Trung đoàn phòng không 1702; Tiểu đoàn mô tô trinh sát 194; Trung đoàn công binh 140.

Cánh phải của Phương diện quân Ukraina 2 do đại tướng I. S. Konev chỉ huy; chịu trách nhiệm hướng phụ công hợp vây ở phía Nam mặt trận. 2 tập đoàn quân được điều động tham gia chiến dịch.

Tập đoàn quân xe tăng 6 do trung tướng A. G. Kravchenko chỉ huy. Biên chế có: Quân đoàn cơ giới 5 gồm các lữ đoàn cơ giới 2, 9, 45; Lữ đoàn xe tăng 233; các trung đoàn pháo tự hành 697, 745, 999; Lữ đoàn pháo binh 64; Trung đoàn súng cối 458; Tiểu đoàn súng cối cận vệ 35; Trung đoàn phòng không 1700. Quân đoàn xe tăng cận vệ 5 gồm các lữ đoàn xe tăng cận vệ 20, 21, 22; Lữ đoàn cơ giới cận vệ 6; các trung đoàn pháo tự hành 1416, 1458, 1462; Lữ đoàn pháo binh 80; Trung đoàn pháo chống tăng 1667; Trung đoàn súng cối 454; Trung đoàn phòng không 1696; Lữ đoàn hỏa tiễn cơ giới 6; Tiểu đoàn trinh sát cơ giới 156; Phi đội trinh sát đường không 387; Lữ đoàn công binh 181.

Tập đoàn quân 40 do trung tướng F. F. Zhmachenko chỉ huy. Biên chế có: Quân đoàn bộ binh 50 gồm các sư đoàn bộ binh 4 (cận vệ), 133, 163. Quân đoàn bộ binh 51 gồm các sư đoàn bộ binh 42 (cận vệ), 74, 232. Quân đoàn bộ binh 104 gồm các sư đoàn bộ binh 38, 240. Các đơn vị trực thuộc tập đoàn quân: Trung đoàn pháo tự hành 1898; Trung đoàn pháo binh 1950; Lữ đoàn pháo chống tăng 94; Trung đoàn pháo chống tăng 680; Trung đoàn súng cối 10; Sư đoàn phòng không 9; các trung đoàn công binh 4, 14.

Kế hoạch tấn công

Ngay sau khi kết thúc Chiến dịch Korsun–Shevchenkovsky, ngày 18 tháng 2 năm 1944, Bộ tư lệnh Phương diện quân Ukraina 1 đã đặt vấn đề mở cuộc tấn công mới trên hướng Proskurov-Chernovtsy. Ngày 23 tháng 2, Nguyên soái G. K. Zhukov và Hội đồng quân sự Phương diện quân đã thống nhất kế hoạch tấn công và báo cáo lên Đại bản doanh. Ngày 24 tháng 2, Đại bản doanh Liên Xô ra mệnh lệnh số 130315 đồng ý phê duyệt kế hoạch tấn công và chỉ thị:

Đòn đột kích mạnh nhất sẽ được các tập đoàn quân xe tăng Liên Xô giáng vào đoạn tiếp giáp giữa Tập đoàn quân xe tăng 4 và Tập đoàn quân xe tăng 1 (Đức) đang mỏng đi sau nỗ lực phá vây cứu Cụm quân Đức ở Korsun–Shevchenkovsky. Xét thấy một mình Tập đoàn quân xe tăng cận vệ 3 của tướng P. A. Rybalko không đủ mạnh để đột phá sâu, G. K. Zhukov yêu cầu Đại bản doanh lấy Tập đoàn quân xe tăng 4 của tướng D. D. Lelyushenko từ lực lượng dự bị để tăng viện cho Phương diện quân. I. V. Stalin đã đồng ý. Để bảo đảm đột phá sâu hơn và hình thành một vòng vây rộng, G. K. Zhukov điều động Tập đoàn quân 1 của tướng M. E. Katukov vốn đang hoạt động tại Pogrebische, phía trước Vinitsa bí mật chuyển quân đến Shepetovka. Theo kế hoạch, các tập đoàn quân bộ binh 18, 38 và cận vệ 1 phải hành động tích cực trên chính diện Lyubar - Lipovets để "lôi kéo" và "giữ chân" Tập đoàn quân xe tăng 1 (Đức) trên khu vực Vinitsa - Proskorov, tạo điều kiện cho các tập đoàn quân xe tăng khép vòng vây ở phía Tây. Phương diện quân Ukraina 2 phải phối hợp chặt chẽ với Phương diện quân Ukraina 1 về thời điểm mở Chiến dịch tấn công Uman–Botoşani để tạo vòng vây phía Nam, ngăn chặn Tập đoàn quân xe tăng 1 (Đức) thoát sang Romania. Kế hoạch cũng tính đến các hành động tích cực trên cánh Bắc của Phương diện quân Ukraina 1 phối hợp với Phương diện quân Byelorussia 2 để che chắn, bảo đảm phía sau chủ lực của Phương diện quân Ukraina 1 không bị Tập đoàn quân xe tăng 4 (Đức) đột kích bọc hậu.

Công tác hậu cần đảm bảo cho chiến dịch của quân đội Liên Xô ban đầu có gặp những khó khăn do đường giao thông kéo dài, hệ thống đường sắt bị phá hoại trong các chiến dịch chậm được khôi phục, các kho dã chiến, kho trung chuyển chưa kịp đưa lên gần mặt trận. Mãi đến ngày 1 tháng 3, Tập đoàn quân 60 mới vượt được 60 km từ Mlinov đến Yampol trên một vùng hầu như không có đường sá. Tập đoàn quân xe tăng 1 đến ngày 2 tháng 3 mới đổ quân xuống ga Shepetovka trong khi nhiên liệu của họ vẫn còn đang nằm ở đâu đó trên tuyến đường sắt Berdichev - Shepetovka. Tập đoàn quân xe tăng cận vệ 3 phải san sẻ cho Tập đoàn quân xe tăng 1 dự trữ xăng dầu của mình để bảo đảm bước vào chiến đấu đúng kế hoạch. Chỉ đến ngày 4 tháng 3, đúng ngày mở màn chiến dịch, tuyến đường sắt Novograd Volynsky đi Shepetovka mới được khai thông và việc tiếp tế cho các tập đoàn quân Liên Xô ổn định trở lại. Đến ngày 4 tháng 3, các tập đoàn quân chủ lực của Phương diện quân Ukraina 1 đã được đảm bảo 3 đến 4 cơ số đạn dược, 15 cơ số xăng dầu, 20 cơ số lương thực, thực phẩm và 2,7 cơ số y cụ, thuốc men.

Quân đội Đức Quốc xã

Binh lực

Đối diện với Phương diện quân Ukraina 1 (Liên Xô) là hai tập đoàn quân xe tăng mạnh nhất của Quân đội Đức Quốc xã ở mặt trận phía Đông. Hai đạo quân này chiếm hơn nửa số xe tăng Đức trên toàn chiến trường Xô-Đức và đều do các tướng lĩnh cao cấp có nhiều kinh nghiệm chỉ huy.

Tập đoàn quân xe tăng 1 do thượng tướng Hans-Valentin Hube chỉ huy được biên chế 3 quân đoàn xe tăng và 1 quân đoàn bộ binh:

Quân đoàn xe tăng 3 của trung tướng Hermann Breith, biên chế có: Sư đoàn xe tăng 1 SS "Leibstandarte Adolf Hitler" của trung tướng Theodor Wisch, quân số 19.867 người; gồm Trung đoàn xe tăng 1, các trung đoàn xe tăng SS 1, 2; Trung đoàn pháo binh 1 SS; Trung đoàn pháo tự hành 1 SS; Trung đoàn súng cối 1 SS; Tiểu đoàn thiết giáp trinh sát SS; Tiểu đoàn cơ giới 1 SS; Tiểu đoàn kỹ thuật SS. Sư đoàn xe tăng 11 của trung tướng Wend von Wietersheim, quân số 15.579 người; gồm các trung đoàn xe tăng 5, 110, 111, Trung đoàn pháo tự hành 277, Trung đoàn pháo tự hành 61, Trung đoàn pháo binh 119, Trung đoàn pháo chống tăng 11; Tiểu đoàn trinh sát 209, Tiểu đoàn kỹ thuật 89. Sư đoàn xe tăng 16 của thiếu tướng Hans-Ulrich Back. Lữ đoàn cơ giới 249 *''Trung đoàn xe tăng hạng nặng của đại tá Franz Bäke gồm các tiểu đoàn xe tăng hạng nặng 506, 509.

Quân đoàn xe tăng 24 của tướng Walther Nehring, trong biên chế có: Sư đoàn xe tăng 20 của tướng Georg Jauer. Sư đoàn xe tăng 25 của tướng Hans Tröger. Sư đoàn bộ binh 208 của tướng Hans Pieckenbrock. Sư đoàn bộ binh 371 của tướng Hermann Niehoff. Lữ đoàn cơ giới 300. Tiểu đoàn xe tăng hạng nặng 616 Tiểu đoàn xe tăng hạng nặng 731. Tiểu đoàn cơ giới trinh sát 473

Quân đoàn xe tăng 46 của tướng Friedrich Schulz. Biên chế có: Sư đoàn xe tăng 6 của tướng Rudolf Freiherr von Waldenfels Sư đoàn xe tăng 19 của tướng Hans Källner. Lữ đoàn cơ giới 276 Lữ đoàn cơ giới 280 Sư đoàn bộ binh 254 của tướng Oskar Eckholt. Sư đoàn bộ binh 96 của tướng Richard Wirtz. Tiểu đoàn xe tăng hạng nặng 88 Tiểu đoàn xe tăng hạng nặng 503

Quân đoàn bộ binh 59 của tướng Kurt von der Chevallerie. Biên chế có: Sư đoàn bộ binh 1 của tướng Ernst-Anton von Krosigk. Sư đoàn bộ binh 75 của tướng Helmuth Beukemann. Sư đoàn bộ binh 82 của tướng Hans-Walter Heyne. Sư đoàn bộ binh 101 của tướng Emil Vogel. Sư đoàn bộ binh 254 của tướng Alfred Thielmann. Sư đoàn pháo binh 18 của tướng Karl Thoholte.

Tập đoàn quân xe tăng 4 do thượng tướng Erhard Raus chỉ huy được biên chế 3 quân đoàn xe tăng và 1 quân đoàn bộ binh:

Quân đoàn xe tăng 42 của tướng Franz Mattenklott (phục hồi). Biên chế có: Sư đoàn xe tăng 1 của tướng Werner Marcks. Sư đoàn xe tăng 17 của tướng Karl-Friedrich von der Meden. Sư đoàn cơ giới 381 Sư đoàn bộ binh 72 Sư đoàn đổ bộ đường không 1 Tiểu đoàn xe tăng hạng nặng 302

Quân đoàn xe tăng 48 của tướng Hermann Balck. Biên chế có: Sư đoàn xe tăng 2 SS "Das Reich" của tướng Otto Weidinger. Sư đoàn xe tăng 8 của tướng Gottfried Frölich. *Sư đoàn bộ binh 208

Quân đoàn xe tăng 56 của tướng Friedrich Hoßbach. Biên chế có: Sư đoàn xe tăng 4 của tướng Dietrich von Saucken. Sư đoàn xe tăng 5 của tướng Karl Decker. Sư đoàn xe tăng 12 của tướng Freiherr von Bodenhausen. Sư đoàn bộ binh 203 của tướng Rudolf Pilz. *Sư đoàn bộ binh 11

Quân đoàn bộ binh 13 của tướng Arthur Hauffe. Biên chế có: Sư đoàn xe tăng 7 của tướng Karl Mauss Sư đoàn bộ binh 68 của tướng Paul Scheuerpflug Sư đoàn bộ binh 340 của tướng Werner Ehrig Sư đoàn bộ binh 213 của tướng Alex Göschen *Tiểu đoàn xe tăng hạng nặng 21

Kế hoạch phòng thủ

Sau khi giải thoát được hơn 4.000 quân Đức khỏi lòng chảo Korsun - Shevchenkovsky, thống chế Erich von Manstein kiên trì thuyết phục Hitler từ bỏ Phòng tuyến Panther-Wotan để lui về giữ các tuyến sông Nam Bug và sông Dniestr. Khác với chiến thuật bố trí phòng thủ tuyến sông Dniepr, sơ đồ phòng thủ mới của Cụm tập đoàn quân Nam (Đức) sẽ gồm hai tuyến chính.

Tuyến thứ nhất dọc theo sông Nam Bug là các cụm cứ điểm Proskorov (nay là Khmenniskyi), Vinitsa, Zhmerinka, Ladyzhin, Pervomaisk, Voznesensk, Nikolayev. Các cụm cứ điểm này sẽ dựa vào tuyến đường sắt Tarnopol đi Pervomaisk để cơ động lực lượng xe tăng và cơ giới, ứng cứu kịp thời cho các điểm bị đột phá. Các tuyến đường ngang Proskurov - Starokonstantinov, Zmerinka - Vinitsa, Vabniarka - Ladyzin, Kotovsk - Pervomaisk và Odessa - Voznesensk cũng phục vụ mục tiêu tác chiến phòng ngự cơ động từ trong ra ngoài và ngược lại. Các cụm cứ điểm Starokonstantinov, Vinitsa, Uman - Khristinovka, Pomoshnaya - Novoukrainka sẽ là các chốt phòng ngự tiền tiêu, ngăn chặn từ xa các đòn công kích của Quân đội Liên Xô khi họ tiếp cận tuyến sông Nam Bug.

Tuyến thứ hai dọc theo sông Dniestr gồm các cụm cứ điểm Tarnopol, Zalesye, Khotin, Soroky (Soroca), Ryvnita, Bendery và Akkerman. Khi đó, con đường sắt Lvov qua Stanislav (Ivano Frankivsk), Chernovtsy, Yassy (Iasi), Kishinev, Izmail sẽ phục vụ cơ động cho tuyến phòng thủ này. Bộ tư lệnh Cụm tập đoàn quân Nam tính toán rằng, cuộc tấn công từ Đông sang Tây của các phương diện quân Ukraina (Liên Xô) sẽ phải khắc phục khó khăn khi vượt qua hai con sông. Tuy không rộng và sâu bằng sông Dniepr nhưng sông Nam Bug và sông Dniestr cũng là những chướng ngại rất đáng kể, đặc biệt là trong mùa xuân tan băng, nước sông lên cao hơn.

Khó khăn lớn nhất của quân đội Đức Quốc xã vẫn là thiếu xe tăng. Từ năm 1943, quân đội Đức Quốc xã không thể lấy lại được ưu thế về số lượng xe tăng trên mặt trận Xô-Đức mặc dù họ đã được trang bị nhiều xe tăng tốt hơn hẳn như Tiger I, Tiger II, Panther. Pháo binh cũng trong tình trạng tương tự vì suốt từ đầu cuộc chiến tranh, Quân đội Liên Xô luôn có tỷ lệ trội hơn về số lượng pháo, súng cối và đặc biệt là hỏa tiễn Katyusha, thứ vũ khí đột phá còn khủng khiếp hơn cả đại bác mà quân đội Đức Quốc xã từng gặp trong cuộc chiến tranh thế giới thứ hai. Khó khăn tiếp theo là vấn đề nhiên liệu. Mặc dù vẫn sản xuất được hơn 3 triệu tấn xăng dầu mỗi năm nhưng sản lượng đó vẫn không đủ cung cấp cho Quân đội Đức Quốc xã, đặc biệt là thiết giáp, cơ giới và không quân. Việc cơ động lực lượng xe tăng đến các mặt trận trông chờ rất nhiều vào đường sắt. Trong khi đó, đường sắt và các nhà ga đầu mối luôn là mục tiêu oanh tạc của không quân đối phương. Đây là một trong những điểm yếu nhất của kế hoạch phòng thủ dựa trên chiến thuật cơ động xe tăng phối hợp với bộ binh chốt giữ của người Đức.

Diễn biến

Đến cuối ngày 3 tháng 3, trên tiền duyên của Phương diện quân Ukraina 1 đã tập trung 56 sư đoàn bộ binh, 6 sư đoàn kỵ binh, 7 quân đoàn xe tăng và cơ giới, 2 cụm pháo binh dã chiến với 24 trung đoàn pháo và súng cối. Đối diện với họ, các Tập đoàn quân xe tăng 1 và 4 (Đức) có 25 sư đoàn, trong đó có 10 sư đoàn xe tăng và cơ giới, 1 trung đoàn và 6 tiểu đoàn xe tăng hạng nặng, 12 trung đoàn pháo tự hành, 2 cụm tác chiến độc lập, 11 trung đoàn pháo binh. Các đơn vị này được các Tập đoàn quân không quân 4 và 8 yểm hộ. Các ước lượng tình báo được báo cáo lên Thống chế Erich von Manstein và Tổng tham mưu trưởng quân đội Đức Quốc xã, tướng Kurt Zeitzler đều cho rằng, hướng tấn công tiếp theo của Quân đội Liên Xô sẽ nhằm vào Lvov - Peremysl. Ngày 4 tháng 3 được chọn là ngày N của Phương diện quân Ukraina 1 và họ chọn điểm đột phá ở nơi quân Đức ít ngờ tới nhất và tiến công theo hướng khác hẳn với phán đoán của cơ quan tình báo quân sự Đức.

Hướng chủ công của Phương diện quân Ukraina 1

Chọc thủng các tuyến phòng ngự vòng ngoài

Quân đội Liên Xô tấn công và bao vây Tập đoàn quân xe tăng 1 (Đức)

8 giờ 00 sáng ngày 4 tháng 3, sau 30 phút pháo binh bắn dọn đường, Tập đoàn quân cận vệ 1 và Tập đoàn quân 60 (Liên Xô) phát động tấn công trên hướng Shumskoys - Kremenets và Yampol - Belogorye. Ngay sau khi bộ binh vượt qua được tuyến phòng thủ đầu tiên của quân Đức, các Tập đoàn quân xe tăng 4 và cận vệ 3 lập tức được tung vào đột phá khẩu. Đến cuối ngày 5 tháng 3, đòn tấn công bằng cả hai "quả đấm thép" của hai tập đoàn quân xe tăng Liên Xô đã chọc sâu từ 25 đến 45 km thủng tuyến phòng thủ thứ hai của quân Đức trên một chính diện rộng gần 50 km từ Yampol đến Yzyaslav, phía Nam Shepetovka. Ngày 5 tháng 3, tướng Hans-Valentin Hube điều các sư đoàn xe tăng 6, 19, các sư đoàn bộ binh 96 và 245, trong đó có các tiểu đoàn xe tăng hạng nặng 88 và 203 từ Proskurov kéo lên phản kích. Các sư đoàn xe tăng Đức công kích ác liệt vào nhà ga đầu mối Ostrov. Đến cuối ngày 7 tháng 3, Quân đoàn xe tăng 4 do tướng V. N. Badanov được điều đến cửa đột phá, hợp lực với Tập đoàn quân cận vệ 1 và cánh trái của Tập đoàn quân xe tăng cận vệ 3 đẩy lùi đòn phản kích của các sư đoàn xe tăng Đức, dồn quân Đức về phía Starokonstantinovka. Tập đoàn quân xe tăng cận vệ 3 (Liên Xô) đánh chiếm Ostrov, cắt đứt giao thông đường sắt giữa Proskurov và Tarnopol.

Ở cánh phải của cụm xung kích, ngày 7 tháng 3, Tập đoàn quân xe tăng 4 và Tập đoàn quân 60 đã vượt qua Volochisk, tấn công xuống phía Nam. Các sư đoàn xe tăng 11 và 16, trong đó có các tiểu đoàn xe tăng hạng nặng 616 và 731 cùng sư đoàn bộ binh 208 (Đức) cũng tổ chức phản kích từ Yarmolintsy lên Chernyi (???) nhưng không ngăn được dòng thác xe tăng Liên Xô từ phía Bắc tràn xuống. Sau một ngày kịch chiến tại thị trấn Chernyi, các sư đoàn xe tăng Đức phải rút về Gusyatin. Các sư đoàn xe tăng 6, 19 (Đức) phải rút về Solobkovtsy do không chống lại được đòn tấn công của Tập đoàn quân xe tăng cận vệ 3 (Liên Xô) nhưng vẫn tiếp tục phản kích vào bên sườn Tập đoàn quân xe tăng 4 (Liên Xô) lúc này đã tiến đến gần Gusyatin.

Ngày 8 tháng 3, Tập đoàn quân 38 triển khai Quân đoàn bộ binh 67, được tăng cường Quân đoàn xe tăng 25 tấn công trên khu vực Vinitsa. Cuộc tấn công bị hoãn lại ba ngày vì phải đối phó với đoàn phản kích của Quân đoàn xe tăng 3 (Đức) tại phía Tây Lipovets. Cùng thời điểm, Quân đoàn bộ binh 101 (Tập đoàn quân 38) tổ chức tấn công theo tuyến Starokonstantinov, Nemirovka và Zhmerinka. Ngày 11 tháng 3, Quân đoàn bộ binh 67 đã đánh bật đòn phản kích của sư đoàn xe tăng 1 SS và các lữ đoàn cơ giới 249, 300 (Đức) tại Lipovets và bắt đầu tấn công dọc theo đường cao tốc Fastov - Vinnitsa. Quân đoàn xe tăng 25 đã vượt lên phía trước, đánh chiếm Troshchiev (???), Voronovitsa, Demidovka, vây bọc Vinnitsa từ phía Nam. Quân đoàn bộ binh 67 tiến công liên tục từ Bogdanovka, Lipovets lần lượt đánh chiếm các cứ điểm Vladimirovka, Mervin, Lopatinka. Ngày 14 tháng 3, lợi dụng kẽ hở giữa Tập đoàn quân 38 và Tập đoàn quân 40 (Phương diện quân Ukraina 2), Quân đoàn bộ binh (Đức) sử dụng các sư đoàn bộ binh 75 và 82 tổ chức phản kích vào Ilintsy. Quân đoàn xe tăng 2 được điều động chuyển hướng sang cánh trái, khôi phục tình hình tại Ilintsy. Cuộc công kích đánh chiếm Vinitsa chỉ do một mình Quân đoàn bộ binh 101 thực hiện nên bị chậm trễ vài ngày. Ngày 20 tháng 3, Quân đoàn bộ binh 101 mới vào được Vinitsa. Các trung đoàn pháo tự hành 1890, 1899, 1900 và Lữ đoàn pháo chống tăng 23 được điều động vọt tiến lên phía trước nhanh chóng đánh chiếm cây cầu đường sắt, thọc sâu qua sông Nam Bug, đánh chiếm Zhmerinka ngày 21 tháng 3 và phát triển theo hướng Kopaygorod.

Ở phía Tây, ngày 10 tháng 3, Tập đoàn quân xe tăng 1 (Liên Xô) hành quân đường bộ từ Shepetovka luồn theo sau các tập đoàn quân xe tăng 4 và cận vệ 3 (Liên Xô) đã đến phía Đông Tarnopol 20 km. Nguyên soái G. K. Zhukov giao cho Tập đoàn quân 60 tấn công Tarnopol với sự tăng viện của Quân đoàn xe tăng cận vệ 4. Tập đoàn quân xe tăng 1 tiếp tục tiến xuống Chertkov theo đúng kế hoạch. Ngày 11 tháng 3, một trận kịch chiến giữa Tập đoàn quân xe tăng cận vệ 3 (Liên Xô) và các sư đoàn xe tăng 6, 17, 19 (Đức) đã diễn ra tại phía nam Ostrov, bên kia con đường sắt Proskurov - Tarnopol. Sau các đòn phản kích của quân Đức, Tập đoàn quân xe tăng cận vệ 3 (Liên Xô) phải dừng lại. Trong khi quân đội Đức quốc xã đang lo đối phó với ba cánh quân xe tăng cùng lúc xuất hiện thì Tập đoàn quân 4 (Liên Xô) giáng đòn đột kích quyết định vào Khmelnik và tiếp tục tấn công Proskurov từ phía Đông. Ngày 13 tháng 3, Tập đoàn quân xe tăng 1 (Đức) tiếp tục tung ra 200 xe tăng chặn đánh Tập đoàn quân xe tăng 4 tại khu vực Arkadievtsy, Shpichentsy, Davydkovtsy, buộc Tập đoàn quân xe tăng 4 (Liên Xô) phải quay mũi xuống phía Nam đối phó. Ngày 16 tháng 3, 100 xe tăng Đức được sử dụng cùng với sư đoàn bộ binh 254 chặn đánh Tập đoàn quân xe tăng cận vệ 3 ngay trước cửa ngõ phía Bắc Proskurov. Ngày 18 tháng 3, Tập đoàn quân xe tăng cận vệ 3 được Tập đoàn quân 18 chi viện đã chặn đứng đón phản công của quân Đức ở Ostrov.

Đêm 25 tháng 3, Quân đoàn cơ giới cận vệ 6 (Tập đoàn quân xe tăng 4) và Quân đoàn cơ giới 9 (Tập đoàn quân xe tăng cận vệ 3) bắt đầu công kích Kamenets - Podolsky. Theo tin tức ban đầu từ quân báo của Phương diện quân Ukraina 1, quân Đức phòng thủ tại thành phố có khoảng 9.000 người, 85 xe tăng, 62 khẩu pháo và hơn 300 súng máy. Ngày 26 tháng 3, Quân đoàn bộ binh 28 và hai quân đoàn cơ giới Liên Xô đã lần lượt tiêu diệt các cụm chốt của quân Đức trong thành phố. Chiến sự lớn nhất diễn ra tại tòa nhà Tureshky, nơi quân Đức cố ngăn chặn quân đội Liên Xo tiến sang bên kia sông Smotrich và Muktsa, nơi chủ lực Tập đoàn quân xe tăng 1 đang bị các tập đoàn quân 38 và xe tăng cận vệ 3 truy kích từ tuyến Proskurov, Solobkovtsy, Novo Ushitsya đổ dồn về đó. 20 giờ ngày 26 tháng 3, Quân đội Liên Xô hoàn thành việc đánh chiếm Kamenets Podolsky.

Bị thiệt hại nặng nề sau các trận đấu xe tăng quyết liệt ở khu vực Ostrov và cửa ngõ Proskurov. Ngày 28 tháng 3, Tập đoàn quân xe tăng cận vệ 3 được rút về Kiev để củng cố lại. Quân đoàn xe tăng 25 được điều đến thay thế vị trí của Tập đoàn quân xe tăng cận vệ 3. Trong khi đó, Kamenets Podolsky đã trở thành một chiếc nút chặn Tập đoàn quân xe tăng 1 (Đức). Tuy nhiên, việc tập trung binh lực của Tập đoàn quân xe tăng 4 đã bị tiêu hao vào cái nút này cùng với việc Đại bản doanh Bộ tổng tư lệnh Liên Xô rút Tập đoàn quân xe tăng cận vệ 3 khỏi mặt trận của đã làm cho tuyến bao vây bên trong của Phương diện quân Ukraina 1 bắt đầu xuất hiện những "đứt gãy" ở khu vực Balin, nơi tiếp giáp giữ Tập đoàn quân xe tăng 4 với Tập đoàn quân cận vệ một trong khi Tập đoàn quân xe tăng 1 đã tiến sâu xuống phía Nam.

Đánh chiếm Chernovtsy và hình thành các tuyến bao vây

Du kích Liên Xô hoạt động trong hậu phương quân Đức

Sau khi chiếm giữ cây cầu đường sắt còn nguyên vẹn tại Zaletsiky, ngày 25 tháng 3, Quân đoàn xe tăng cận vệ 11 và Quân đoàn cơ giới cận vệ 8 (Tập đoàn quân xe tăng 1) cùng song hành tiến về phía Nam. Ngày 26 tháng 3, Quân đoàn bộ binh 11 phối hợp với Tập đoàn quân cận vệ 1 mở hướng tấn công sang phía Tây, đánh chiếm thị trấn Kolomyia trên thượng nguồn sông Prut. Quân đội Liên Xô đang tiến quân trên con đường mà quân kỵ binh Podolsk của Ukraina khi xưa do Bogdan Khmelnitsky, anh hùng dân tộc Ukraina chỉ huy đã đi qua. Chiều 25 tháng 3, Lữ đoàn cơ giới 20 (Quân đoàn cơ giới cận vệ 8 khi tấn công làng Romanovka đã vấp phải nhiều ổ hỏa lực súng chống tăng và súng máy của quân Đức. Lữ đoàn này phải dừng lại phòng ngự lâm thời, chờ xe tăng đến phối hợp. Không để chậm tốc độ tấn công, 17 giờ cùng ngày, tướng M. E. Katukov tung Lữ đoàn xe tăng 47 còn đủ quân số và trang bị từ lực lượng dự bị đến tiếp ứng. 22 giờ đếm 25 tháng 3, các ổ hỏa lực của quân Đức lần lượt bị dập tắt. Lữ đoàn xe tăng 47 và Lữ đoàn cơ giới 20 đột nhập nhà ga Moshi (???), phía Bắc Chernovtsy.

Ngày 5 tháng 3, Tập đoàn quân 40 bắt đầu đột kích từ khu vực Rizino vào Khristinovka và điểm cao 244,7. Đến cuối ngày, Tập đoàn quân này đã tạo được một bàn đạp rộng 8 km. Ngày 6 tháng 3, Tập đoàn quân 27 cũng tấn công từ Ryzhanovka về Talnoye và Uman. Đến ngày 7 tháng 3, cả hai tập đoàn quân đều vượt sông Gornyi Tikich và tiến đến tuyến Kishintsy (???), Monastyrysche. Ngày 8 tháng 3, Tập đoàn quân xe tăng được đưa đến dải tấn công của Tập đoàn quân 27 và đẩy nhanh tốc độ đánh chiếm đầu mối đường sắt Khristinovka. Ngày 10 tháng 3, các lữ đoàn cơ giới 9 và 45 (Quân đoàn cơ giới cận vệ 5) đã có mặt ở Gaysin. Từ ngày 12 đến ngày 15 tháng 3, Quân đoàn cơ giới cận vệ 5 hợp lực với Tập đoàn quân 40 vượt sông Nam Bug tại Ladyzhin trong điều kiện Sư đoàn cơ giới "Đại Đức" phản kích quyết liệt, nhiều lần hất bộ binh và xe tăng Liên Xô sang tả ngạn sông Nam Bug. Đến ngày 16 tháng 3, khi Lữ đoàn xe tăng 233 bắt kịp đội hình của Quân đoàn cơ giới cận vệ 5, quân đoàn này mới mở rộng được bàn đạp Ladyzhin và dồn quân Đức về Vapnyarka. Ngày 17 tháng 3, Tập đoàn quân 40 cũng thừa thắng đánh chiếm thị trấn Tulchinsk (Tulchyn). Ngày 19 tháng 3, Tập đoàn quân xe tăng 6 đánh chiếm đầu mối giao thông Mogilev - Podolsky và phải dừng lại vài ngày trước sông Dniestr chờ Tập đoàn quân 27 đuổi theo. Trong khi đó, Tập đoàn quân 40 của tướng F. F. Zhmachenko di chuyển lên phía Bắc và ngày 23 tháng 3 đã mở cuộc vượt sông Dniestr tại Movchan.

Cuộc phá vây của Tập đoàn quân xe tăng 1 (Đức)

Nếu tính theo đơn vị tác chiến cơ bản thì số sư đoàn Đức bị bao vây tại khu vực phía Đông Kamenets - Podolsky mùa xuân 1944 ngang bằng với số sư đoàn Đức bị vây tại Tây Bắc Stalingrad cuối năm 1942 với tổng số 21 sư đoàn. Tuy nhiên, cánh quân Đức bị vây tại Kamenets - Podolsky có cơ cấu mạnh hơn cánh quân của Thống chế Paulus tại Stalingrad. Nó gồm các sư đoàn bộ binh 1, 68, 75, 82, 96, 101, 168, 254, 291, 371, 291; các sư đoàn xe tăng 1, 6, 7, 11, 16, 17, 19, 20; Sư đoàn xe tăng 1 SS "Adolf Hitler" và Sư đoàn pháo binh 18. Cụm quân khổng lồ này được bố trí trên hai hướng. Đối đầu với Tập đoàn quân xe tăng 4 và Tập đoàn quân 38 (Liên Xô) trên hướng Melnitsy Podolsky là các sư đoàn bộ binh 1, 82, 168, 254, 371, 75, 101 và 2 trung đoàn của Sư đoàn pháo binh 18. Phía trước Tập đoàn quân cận vệ 1 và Tập đoàn quân 18 (Liên Xô) trên khu vực Skala Podolsky (???) là các sư đoàn bộ binh 68, 96, 291; các sư đoàn xe tăng 1, 6, 7, 11, 16, 17, 19; Sư đoàn xe tăng 1 SS "Adolf Hitler"; Sư đoàn cơ giới 20 và 2 trung đoàn của Sư đoàn pháo binh 18. So sánh lực lượng trên chiến trường cũng khác với Chiến dịch Cái vòng (1943). Tập đoàn quân xe tăng 4 (Liên Xô) chỉ có sức chiến đấu tương đương với 3 sư đoàn xe tăng Đức. Các tập đoàn quân cận vệ 1, 18 và 38 đều là các tập đoàn quân bộ binh. Lực lượng thiết giáp của các tập đoàn quân này chỉ có 1 lữ đoàn xe tăng và 8 trung đoàn pháo tự hành, trong đó có 2 trung đoàn pháo chống tăng. Trong khi đó, các Sư đoàn xe tăng đang sở hữu 6 tiểu đoàn xe tăng hạng nặng ngoài biên chế 3 trung đoàn xe tăng hạng trung và hạng nhẹ cho mỗi sư đoàn. So sánh binh lực về xe tăng nghiêng về phía Tập đoàn quân xe tăng 1 (Đức) với tỷ lệ 1,8:1. Các tập đoàn quân Liên Xô chỉ chiếm ưu thế về pháo binh với tỷ lệ 4:1 và ưu thế không đáng kể về quân số với tỷ lệ 1,2:1.

Ngay từ ngày 27 tháng 3, cánh quân phía Nam gồm các sư đoàn bộ binh 1, 68, 75, 82, 96, Sư đoàn xe tăng 17 và Sư đoàn sơn chiến 101 đã thử mở một cuộc đột kích vượt sông Dniestr để qua Khotin rút về hướng biên giới Romania nhưng không thành công. Tập đoàn quân xe tăng 4 và các trung đoàn pháo tự hành 1890, 1899, 1900 (Tập đoàn quân 38) đã có mặt ở bờ Bắc sông Dniestr để cản phá. Ngày 28 tháng 3, quân Đức lùi về Novo Ukraina (???), bỏ lại chiến trường hơn 300 xác lính, 40 xe tăng, 12 pháo tự hành, gần 400 súng máy, hơn 300 ô tô các loại. Tập đoàn quân xe tăng 4 (Liên Xô) bắt 140 tù binh Đức. Theo tướng D. D. Lelyushenko tổng kết, chỉ tính khu vực tác chiến của Tập đoàn quân xe tăng 4 (Liên Xô) đã có 460 xe tăng và xe bọc thép Đức bị phá hủy (trong đó có 72 xe tăng Tiger I), 386 pháo và súng cối bị tịch thu. Quân đội Liên Xô còn phá hủy và tịch thu 9.500 ô tô, 250 mô tô, 60 máy kéo, hơn 60 kho nhiên liệu, đạn dược và thực phẩm; 152 máy bay Đức bị bắn rơi, 60 chiếc khác bị tịch thu; hơn 20.000 quân Đức chết trận, 14.000 người khác bị bắt làm tù binh.

Quân đội Liên Xô cũng chịu những tổn thất không nhỏ. Tập đoàn quân xe tăng cận vệ 3 chỉ còn lại hơn 50 xe tăng và phải rút khỏi cuộc chiến, đưa về lực lượng dự bị để củng cố lại. Tập đoàn quân xe tăng 4 cũng suy yếu nặng, chỉ còn lại hơn 90 xe tăng, không thể hoàn thành được nhiệm vụ chủ công trong việc chia cắt và tiêu diệt cụm quân Đức bị vây.

Đánh giá

Quân đội Liên Xô

Điểm mạnh

Thành công lớn nhất của Bộ tư lệnh Phương diện quân Ukraina 1 là việc họ chọn hướng tấn công chính tương đối bất ngờ và thuận lợi cho các cuộc đột kích bằng xe tăng nhưng lại phù hợp với một yếu tố ảnh hưởng lớn đến tác chiến, đó là địa hình. Nếu tấn công theo hướng cũ từ Đông sang Tây như các chiến dịch trước đó, tốc độ tấn công bị giảm đi rất nhiều không chỉ do đối phương phòng ngự cứng rắn mà còn do sự ngăn cách của chướng ngại sông nước. Bất kỳ bên nào trong chiến tranh thông thường cũng dựa vào chướng ngại sông nước để tăng hiệu quả phòng ngự. Kinh nghiệm các chiến dịch vượt sông Dniepr năm 1943 và các chiến dịch tấn công vượt sông khác cho thấy các cuộc tấn công vượt sông thường gây ra những tổn thất lớn về người và vũ khí, trang bị; việc chuẩn bị vượt sông cho xe tăng, cơ giới và pháo binh hạng nặng đòi hỏi thời gian và phương tiện đặc chủng, tốc độ tấn công bị giảm xuống rất nhiều. Vì vậy, tấn công theo các "cửa ngõ tự nhiên" dọc các Thung lũng sông ngòi tạo ra lợi thế cho các phương tiện cơ giới.

Trong chiến dịch Proskurov–Chernovtsy, Bộ tư lệnh Phương diện quân Ukraina 1 đã chọn hướng đột kích chính từ Bắc xuống Nam, dọc theo các con sông Zalozh, Khoryn, Zbruch và năm con sông nhỏ khác chảy dọc từ cao nguyên Khmelnik đổ vào sông Dniestr theo hướng Bắc - Nam. Hướng tấn công dọc theo Thung lũng các con sông kể trên của ba tập đoàn quân xe tăng 1, 4 và cận vệ 3 (Liên Xô) trong chiến dịch này đã gần như loại bỏ được chướng ngại sông nước, một thứ rào cản hữu hiệu đối với xe tăng, cơ giới. Các đòn tấn công này cũng loại bỏ được những hàng rào phòng ngự mà quân Đức thiết lập dọc theo các con sông. Các quân đoàn xe tăng Liên Xô có thể nhanh chóng tiếp cận hậu tuyến của Tập đoàn quân xe tăng 1 (Đức) phá hủy các căn cứ hậu cần, làm rối loạn đội hình và kế hoạch tác chiến của đối phương, giành thế chủ động ngay trong giai đoạn đột phá đầu tiên.

Trong chiến dịch này, Quân đội Liên Xô đã tập trung cả ba Tập đoàn quân xe tăng và hai Tập đoàn quân bộ binh vào cùng một hướng tấn công thuận lợi nhất, đột phá trên một địa đoạn hẹp và sau đó tỏa ra tấn công theo hình rẻ quạt. Các tập đoàn quân bộ binh đã yểm hộ tương đối tốt các bên sườn cho các Tập đoàn quân xe tăng đột kích sâu trong giai đoạn đầu của chiến dịch. Sức đột phá của đội quân xe tăng lên đến hơn 1.000 chiếc đã tạo ra những "lỗ thủng" lớn không thể "vá" lại trên phòng tuyến của Tập đoàn quân xe tăng 1 (Đức). Trong giai đoạn đầu và giai đoạn 2 của chiến dịch, chỉ một đòn đột kích sâu của các Tập đoàn quân xe tăng 1 và 4 (Liên Xô) đã hoàn toàn bỏ lại sau lưng những sư đoàn xe tăng Đức đang phòng thủ trên tuyến đầu, buộc các sư đoàn này phải xoay chính diện về phía Nam và bị các Tập đoàn quân bộ binh Liên Xô đột kích từ sau lưng. Đòn đột kích đó cũng tạo ra tuyến chia cắt sâu và rộng giữa hai Tập đoàn quân xe tăng lớn của Đức trên cánh Bắc Cụm tập đoàn quân Nam, đẩy hai tập đoàn quân này vào thế bị động đối phó trên nhiều hướng cùng một lúc. Do đó, quân Đức bị phân tán lực lượng, không còn đủ sức tập trung binh lực để mở các trận phản kích lớn, giành lại các vị trí đã mất.

Việc giữ bí mật hướng tấn công chính cũng là một trong các yếu tố quan trọng tạo nên thành công của quân đội Liên Xô trong giai đoạn thực hành chiến thuật đột phá và bao vây. Tập đoàn quân xe tăng 1 vốn đang hoạt động ở Pogrebishensky, phía trước Vinitsa được bí mật điều động đến Shepetovka là bất ngờ thứ nhất đối với Tập đoàn quân xe tăng 1 (Đức). Điều bất ngờ thứ hai là Tập đoàn quân này được sử dụng làm thê đội 2 để phát triển đột kích sâu ở giai đoạn 2 của chiến dịch đã tạo hiệu quả rất lớn. Tướng Hans-Valentin Hube hoàn toàn không thể ngờ rằng xe tăng Liên Xô từ phía Bắc có thể đột kích sâu đến Chernovtsy. Trong khi theo tư duy quân sự thông thường, các tập đoàn quân xe tăng của Phương diện quân Ukraina 2 sẽ làm việc đó bởi Chernovtsy nằm trong chiều sâu nhiệm vụ của họ trên chính diện được phân công.

Điểm yếu

Nếu như trong Chiến dịch Stalingrad, không có đơn vị nào của quân Đức thoát vây bằng đường bộ hay ở Chiến dịch hợp vây Korsun-Shevchenkovsky chỉ có không quá 10% quân Đức thoát vây bằng đường bộ thì ở chiến dịch Proskurov–Chernovtsy, ít nhất 1/3 quân Đức trong vòng vây đã chạy thoát. Đó không chỉ là một vài đơn vị nhỏ lẻ mà có đến gần chục trung đoàn, bao gồm cả một số lượng đáng kể xe tăng, cơ giới. Đây là điều rất khó chấp nhận đối với I. V. Stalin.

Đối với Quân đội Liên Xô, chiến dịch Proskurov–Chernovtsy được giới nghiên cứu lịch sử Nga coi là thành công nhưng không thực sự toàn vẹn. Ngay từ khâu vạch kế hoạch, đã có sự không ăn khớp giữa Bộ Tổng tham mưu với Bộ tư lệnh Phương diện quân Ukraina 1 và Bộ tư lệnh Phương diện quân Ukraina 2. Trong khi đòn vu hồi sâu của ba tập đoàn quân xe tăng 1, 4, và cận vệ 3 cần có sự phối hợp ở phía Nam từ Phương diện quân Ukraina 2 nhưng trong kế hoạch Chiến dịch tấn công Uman–Botoşani, Bộ Tổng tham mưu đã không coi trọng đúng mức hướng phụ công do cánh phải của Phương diện quân Ukraina 2 thực hiện mặc dù hai chiến dịch này gần như diễn ra đồng thời. Hướng tấn công chính của Phương diện quân Ukraina 2 được Bộ Tổng tư lệnh tối cao Liên Xô chỉ định gồm hai tuyến chính: từ Ladyzhin, Gayvoron, Novo-Ukrainka đến Mogilev-Podolsky-Yagorlyk ở giai đoạn 1 và tuyến sông Prut ở giai đoạn 2, không hề có nhiệm vụ nào đề cập đến các mục tiêu Kopaygorod và Khotin, những địa điểm có ảnh hưởng trực tiếp đến việc phối hợp bao vây cụm quân Đức ở Kamenets - Podolsky. Trong quá trình triển khai chiến dịch, Tập đoàn quân 40 bên cánh cực hữu của Phương diện quân đã phải san sẻ bớt hỏa lực của mình gồm 300 khẩu pháo để hỗ trợ cho Tập đoàn quân 27 đột phá sâu, trong khi Tập đoàn quân 40 có vai trò phối hợp không nhỏ đối với việc hợp vây Tập đoàn quân xe tăng 1 (Đức) ở Kamenets - Podolsky.

Sai lầm trong đánh giá tin tức tình báo của G. K. Zhukov và Bộ tư lệnh Phương diện quân Ukraina 1 về hướng phá vây của Tập đoàn quân xe tăng 1 (Đức) đã dẫn đến việc tập trung lực lượng của các tập đoàn quân xe tăng 1 và 4 (Liên Xô) quá sâu về phía Tây Nam khu vực Kamenets - Podolsky, khiến cho tuyến bao vây cả bên trong và bên ngoài ở hướng Tây, nơi tiếp giáp gần nhất giữa Tập đoàn quân xe tăng 1 với Tập đoàn quân xe tăng 4 (Đức) còn đang sung sức trở nên mỏng yếu. Đến khi phát hiện quân Đức phá vây về hướng này, Bộ tư lệnh Phương diện quân mới điều động Tập đoàn quân xe tăng 1 quay lại phía Bắc thì thời gian đã trôi qua mất ba ngày quý giá. Các lữ đoàn xe tăng phái đi trước của Quân đoàn xe tăng cận vệ 11 không đủ sức ngăn cản cuộc đột phá qua vòng vây của 4 sư đoàn xe tăng Đức. Trong khi đó, các tập đoàn quân 18 và 38 vẫn giữ nguyên chiến thuật đánh kiềm chế như cũ, không kịp thời tung các quân đoàn chủ lực để cùng với Tập đoàn quân xe tăng 4 truy kích vào sau lưng cánh quân Đức đang rút lui.

Điểm yếu cuối cùng của Quân đội Liên Xô vẫn là vấn đề hậu cần. Trên các báo cáo thì việc tập trung quân số, phương tiện, tích lũy đạn dược, nhiên liệu, thực phẩm đều bảo đảm cho giai đoạn đột phá đầu tiên và có kế hoạch cho các giai đoạn sau đó nhưng trên thực tế, việc thực hiện không được như dự kiến. Trong 15 cơ số xăng dầu cần đáp ứng cho các Tập đoàn quân xe tăng, chỉ có 7 cơ số ban đầu được đưa đến đúng kỳ hạn và địa điểm tiếp nhận, đạt chưa đầy 50%. Số còn lại đến rải rác và thường không theo kịp tốc độ tấn công của các quân đoàn xe tăng, cơ giới. Mặc dù được tiếp tế đủ đạn dược nhưng chủng loại đạn dùng cho pháo tăng không phải lúc nào cũng đáp ứng được yêu cầu của tình huống chiến đấu thực tế. Tại Tập đoàn quân xe tăng cận vệ 3, đã có lúc pháo tăng phải dùng chung đạn trái phá cùng cỡ (85 mm và 76 mm) của pháo tự hành, ảnh hưởng không nhỏ đến hỏa lực của xe tăng khi tấn công.

Mặc dù một số lượng lớn quân Đức đã thoát khỏi vòng vây nhưng thất bại của Tập đoàn quân xe tăng 1 (Đức) làm cho Hitler "điên tiết" và ông ta bắt đầu đi tìm những "vật tế thần". Giới quân sự Đức rất ngạc nhiên khi hai thống chế hàng đầu của quân đội Đức Quốc xã phải chịu cơn thịnh nộ của Hitler là Erich von Manstein và Paul Ludwig Ewald von Kleist. Trong buổi lễ huyền chức của hai vị thống chế này, sau khi trao tặng họ các Huân chương Chữ thập Hiệp sĩ hạng nhất và thanh kiếm danh dự, Hitler đã nói với Manstein:

Do hao hụt quân số quá lớn, nguồn động viên từ nước Đức và các nước Trung Âu không đủ, Bộ Tổng tư lệnh quân đội Đức Quốc xã đã phải bổ sung trang bị cho quân đội các nước chư hầu Đông Âu (Hungary, Rumania, Slovakia) những vũ khí, kỹ thuật hiện đại hơn để sử dụng các đơn vị này chiến đấu dưới sự chỉ huy của các tư lệnh Đức Quốc xã. Các tập đoàn quân Romania 3, 4; Tập đoàn quân Hungary 1; Quân đoàn Slovakia đều có các tướng lĩnh quân sự Đức tham gia chỉ huy và các sĩ quan cao cấp SS giám sát để đảm bảo sự trung thành của họ đối với nước Đức Quốc xã.

Kết quả chiến dịch đã đem lại cho quân đội Liên Xô một thế trận thuận lợi hơn rất nhiều so với khi họ phải vượt sông Dniepr. Mỗi cụm tập đoàn quân Đức ở biên giới Ukraina giờ đây phải đối phó với 2 phương diện quân Liên Xô có ưu thế về người và vũ khí trang bị. Trong khi các cụm tập đoàn quân Đức bị chia cắt bởi đầm lầy Polesia ở phía Bắc và dãy Carpath ở giữa mặt trận thì Quân đội Liên Xô lại có thể tự do cơ động lực lượng của họ trên các tuyến đường sắt ở khắp Ukraina để chuẩn bị cho chiến cục mùa hè. Quân đội Liên Xô bắt đầu các hành động quân sự trên lãnh thổ nước ngoài và họ được các lực lượng kháng chiến chống Đức Quốc xã ủng hộ, trong đó có nhiều tổ chức cộng sản, những người cùng chí hướng với họ. Nhiều tổ chức dân tộc chủ nghĩa khác cũng hợp tác với những người cộng sản ở Rumania, Bulgaria và Slovakia. Những hoạt động vũ trang và các trận đánh theo chiến thuật du kích của họ dù không có hiệu quả bằng hoạt động của du kích Liên Xô những cũng đủ làm cho hậu phương trực tiếp của quân Đức luôn trong tình trạng bất ổn.

Nguyên soái G. K. Zhukov, người trực tiếp chỉ huy chiến dịch chỉ được tặng thưởng Huân chương Chiến thắng hạng nhất (lần thứ tư). I. V. Stalin đã hạ một mức khen thưởng đối với ông vì chiến dịch đã không thành công trọn vẹn. Khi về đến Moskva để dự hội nghị bàn kế hoạch hoạt động quân sự mùa hè 1944 tại Byelorussia, G. K. Zhukov đã không đến nhận huân chương mà đi thẳng đến phòng làm việc của Stalin. Trước khi khai mạc hội nghị, I. V. Stalin đã phải nhắc ông đến phòng làm việc của N. M. Shvernik để nhận tấm huân chương này.

Sau chiến dịch này, 31 đơn vị chiến đấu xuất sắc của quân đội Liên Xô đã được trao tặng các tên gọi danh dự tương ứng với các địa danh trong chiến dịch. T

👁️ 1 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Chiến dịch tấn công Proskurov (Khmelnitskyi)–Chernovtsy** (từ 4 tháng 3 đến 17 tháng 4 năm 1944) là một trong các trận đánh lớn nhất giữa Hồng quân Liên Xô và Quân đội Đức quốc xã
**Chiến dịch tấn công Rovno–Lutsk** là một chiến dịch nhỏ do cánh Bắc của Phương diện quân Ukraina 1 (Liên Xô) thực hiện từ ngày 27 tháng 1 đến ngày 11 tháng 2 năm 1944
**Chiến dịch tấn công Polesia** là một trận đánh giữa quân đội Liên Xô và quân đội Đức quốc xã diễn ra trong Chiến tranh Xô-Đức thuộc Chiến tranh thế giới thứ hai. Các lực
**Chiến dịch tấn công hữu ngạn Dniepr** ở Ukraina (1944), hay còn được gọi là **Chiến dịch tấn công Dniepr–Carpath**, kéo dài từ ngày 24 tháng 12 năm 1943 đến ngày 14 tháng 4 năm
**Chiến dịch tấn công Uman–Botoşani** hay _Chiến dịch tấn công Uman-Botoshany_ Chiến dịch này có quy mô lớn về binh lực của hai bên Liên Xô và Đức tại giai đoạn hai của các hoạt
**Chiến dịch Đông Carpath** là hoạt động quân sự lớn trong Chiến tranh Xô-Đức thuộc Chiến tranh thế giới thứ hai do Hồng quân Liên Xô tổ chức nhằm tấn công vào các tuyến phòng
**Nikolay Fyodorovich Vatutin** (tiếng Nga: _Николай Федорович Ватутин_; sinh ngày 16 tháng 12 năm 1901, mất ngày 14 tháng 4 năm 1944) là một chỉ huy Hồng quân nổi tiếng trong Chiến tranh thế giới
**Phương diện quân Ukraina 1** (tiếng Nga: _1-й Украинский фронт_) là tổ chức tác chiến chiến lược của Hồng quân Liên Xô trong Thế chiến thứ hai. Phương diện quân đã tham gia các chiến
**Georgy Konstantinovich Zhukov** (; , 1 tháng 12 năm 1896 – 18 tháng 6 năm 1974) là một sĩ quan cấp tướng và là Nguyên soái Liên Xô. Ông cũng từng là Tổng Tham mưu
**Sergey Sergeyevich Varentsov** (; , Dmitrov, tỉnh Moskva - 1 tháng 3 năm 1971, Moskva) là một tướng lĩnh cao cấp của quân đội Liên Xô, Chánh nguyên soái Pháo binh (6 tháng 5 năm
nhỏ|259x259px|
Huy hiệu ve áo trao cho các cựu binh Tập đoàn Xe tăng cận vệ 1
**Tập đoàn quân xe tăng Cận vệ 1 Huân chương Cờ Đỏ** là một đơn vị quân