✨Georg Wilhelm Friedrich Hegel
Georg Wilhelm Friedrich Hegel (; Ludwig Fischer và mẹ cậu bé vẫn sống ở Jena.
thumb|upright=0.7|[[Friedrich Immanuel Niethammer (1766–1848) rộng lượng hỗ trợ tài chính cho Hegel và giúp ông có được nhiều chức vụ.]] Với tư cách là biên tập viên của một tờ báo thân Pháp, Hegel hết lời ca ngợi Napoléon và thường viết các bài xã luận mang quan điểm thiên vị Pháp cũng như đả kích tường thuật chiến trường phía Phổ. Trong khoảng thời gian này, Hegel trở thành một nhân vật quan trọng trong đời sống xã hội Bamberg, lọt vào các cuộc chuyện trò phiếm của dân địa phương. Ông thường xuyên đến thăm vị quan chức , chơi bài tại tư gia Liebeskind cùng nhiều nhân sĩ thân hào, đồng thời thưởng thức đồ ăn ngon cùng loại bia Bamberg hảo hạng. Tuy vậy Hegel khinh thường những gì ông coi là "Bayern cũ", thường xuyên gọi miệt thị nó là "Barbaria" (vùng đất rợ) và lo ngại rằng "những vùng quê" như Bamberg sẽ mất quyền tự chủ dưới sự cai trị của nhà nước Bayern mới. Tháng 9 năm 1808, chính quyền Bayern điều tra Hegel với cáo buộc xâm phạm an ninh quốc gia, theo đó ông đã xuất bản và làm lộ động thái tiến quân của Pháp, song may mắn thoát tội. Sau lần đó, Hegel viết thư cho Niethammer, hiện là một quan chức cấp cao ở Munich, thỉnh cầu ông đảm bảo hộ một vị trí giảng dạy. Nhờ công lao của Niethammer, Hegel được bổ nhiệm làm hiệu trưởng của một gymnasium ở Nuremberg vào tháng 11 năm 1808, chức vụ mà ông giữ cho đến năm 1816. Khi ở Nuremberg, Hegel hiệu đính cuốn Hiện tượng học tinh thần để phù hợp cho việc thuyết giảng trên lớp. Một phần trách nhiệm của ông tại đây là dạy khóa học "Dẫn nhập kiến thức về tính thống nhất phổ quát của các khoa học". Năm 1811, Hegel kết hôn với Marie Helena Susanna von Tucher (1791–1855), con gái cả của một Thượng nghị sĩ. Trong phần còn lại của sự nghiệp, Hegel đã hai lần đến Weimar, nơi ông gặp gỡ Goethe, và thực hiện một loạt các chuyến đi tới Brussels, Bắc Hà Lan, Leipzig, Viên, Prague, và Paris.
thumb|upright=0.7|Bia mộ của Hegel tại Berlin Mười năm cuối đời, Hegel không xuất bản cuốn sách nào nữa mà chỉ chỉnh sửa hai lần cuốn Bách khoa thư (tái bản lần hai, 1827; lần ba, 1830). Về mặt triết học chính trị, ông chỉ trích các tác phẩm phản động của Karl Ludwig von Haller trong đó cho rằng luật pháp là điều không cần thiết. Một số tác phẩm khác về triết học lịch sử, tôn giáo, mỹ học và lịch sử triết học của Hegel được biên khảo từ ghi chép của các học trò và xuất bản sau khi ông mất.
Hegel được bổ nhiệm làm Hiệu trưởng Đại học vào tháng 10 năm 1829, nhưng nhiệm kỳ của ông mau chóng kết thúc vào tháng 9 năm 1830. Hegel lo lắng bởi cuộc bạo động đòi cải cách ở Berlin vào năm đó. Năm 1831, Friedrich Wilhelm III trao tặng ông Huân chương Đại bàng Đỏ, Hạng 3 vì các đóng góp của ông cho nhà nước Phổ. Tháng 8 năm 1831, một trận dịch tả tràn đến Berlin, khiến Hegel phải rời thành phố đến Kreuzberg ở trọ. Thời gian đó, sức Hegel đã yếu đi nhiều rồi và ông rất hiếm khi ra ngoài. Khi học kỳ mới bắt đầu vào tháng 10, Hegel trở lại Berlin vì tin lầm rằng trận dịch đã tắt. Ngày 14 tháng 11, Hegel qua đời. Theo nghĩa rộng nhất, Geist "biểu thị tinh thần con người và các sản phẩm của nó, tương phản với tự nhiên và với ý niệm logic."
Khá sáng tỏ trong phần Anthropologie, khái niệm Geist của Hegel được lấy cảm hứng từ khái niệm tự tham chiếu energeia của Aristoteles. Tinh thần không phải là cái gì đó nằm trên hoặc nằm ngoài tự nhiên. Nó là "sự tổ chức và sự phát triển cao nhất" của quyền lực tự nhiên.
Theo Hegel thì "bản chất của tinh thần là sự tự do". Chương Triết học Tinh thần trong cuốn Bách khoa thư lần theo diễn trình đã được tiền định của sự tự do này cho đến khi tinh thần thỏa mãn hoàn toàn câu châm ngôn Delphi mà Hegel đã nêu ban đầu, đó là "biết mình".
Khái niệm tự do của Hegel không phải (hoặc không chỉ đơn thuần) là khả năng đưa ra lựa chọn võ đoán, mà là "quan niệm cốt lõi" cho rằng "điều gì đó, nhất là một cá nhân, là tự do khi, và chỉ khi, là độc lập và tự-quy định, chứ không phải bị quy định hay phụ thuộc vào điều gì khác ngoài bản thân mình." Nói cách khác (ít nhất là chủ yếu, về mặt biện chứng), tự do là một giải trình về điều mà sau này Isaiah Berlin gọi là tự do thực định.
Tinh thần chủ quan
Nằm tại phần chuyển tiếp từ tự nhiên sang tinh thần, vai trò của Triết học Tinh thần Chủ quan là phân tích "những yếu tố cần thiết cho, hoặc tiền giả định bởi, những quan hệ kiểu đó [của tinh thần khách quan], cụ thể là các cấu trúc đặc trưng của, và cần thiết đối với, tác nhân duy lý cá nhân." Điều này được thực hiện bằng cách làm rõ thêm "bản chất cơ yếu của cá nhân con người về mặt sinh học/tinh thần cùng với các điều kiện tiên quyết về tri nhận và thực tiễn của tương tác xã hội giữa người với người."
Phần này, cụ thể là đoạn đầu của nó, có chứa rất nhiều bình phẩm phân biệt chủng tộc mà vào thời Hegel khá phổ biến, chẳng hạn như những khẳng định không có cơ sở về sự phát triển trí thông minh và cảm xúc kém cỏi "thiên bẩm" của người da đen. Trong nhân sinh quan của Hegel, các đặc điểm nhân chủng khác biệt là hệ quả của khí hậu: theo ông, điều kiện khí hậu là yếu tố quyết định người dân một nơi có khả năng tự-quy định tự do hay không. Tuy nhiên, ông tin rằng chủng tộc không phải định mệnh: bất cứ nhóm nhân chủng nào, trên lý thuyết, cũng có thể cải thiện và biến đổi điều kiện của mình bằng cách di cư đến các vùng khí hậu ôn hòa hơn.
Hegel chia triết học về tinh thần chủ quan của mình thành ba phần: nhân chủng học, hiện tượng học và tâm lý học. Nhân chủng học "giải quyết vấn đề 'linh hồn', tức là tinh thần vẫn sa lầy trong tự nhiên: mọi thứ bên trong ta tồn tại trước trí tuệ hoặc tâm trí tự-ý thức của ta." Trong phần "Hiện tượng học", Hegel xem xét mối quan hệ giữa ý thức và khách thể của nó và sự nảy nở của lý tính liên-chủ quan. Tâm lý học "giải quyết nhiều vấn đề ngày nay gọi là nhận thức luận (hay 'lý thuyết tri thức'). Hegel sơ thảo về bản chất của sự chú ý, trí nhớ, trí tưởng tượng và khả năng phán xét."
Suốt chương này, nhất là ở phần Nhân chủng học, Hegel sung dụng và phát triển thuyết hylomorph của Aristoteles, học thuyết mà ngày nay thường được coi là nguồn gốc của vấn đề tâm-vật: "Lời giải cho vấn đề tâm-vật [theo thuyết này] phụ thuộc vào sự công nhận rằng, tâm trí không tác động lên vật thể theo kiểu nhân quả, mà tự tác động lên chính mình như một chủ thể đang sống được biểu hiện. Vì vậy, tâm trí tự phát triển chính nó, dần dần đạt lên đến một đặc tính tự-quy định."
Phần cuối của nó, Tinh thần Tự do, phát triển khái niệm "ý chí tự do," góp phần đặt nền tảng cho triết học pháp quyền của Hegel.
Tinh thần khách quan
thumb|upright=0.8|left|Vua Phổ [[Friedrich Wilhelm III (1797–1840) đã bóp chết những cải cách chính trị mà Hegel bấy giờ rất mong mỏi và ủng hộ.]] Theo nghĩa rộng nhất, triết học tinh thần khách quan của Hegel là "triết học của ông về xã hội, triết học của ông về cách tinh thần con người khách quan hóa chính nó trong các hoạt động và sản xuất về mặt xã hội và lịch sử." Nói cách khác, nó là một tường thuật về sự thiết chế hóa tự do. Besier cho hay đây là điểm được phần lớn nhà nghiên cứu Hegel nhất trí, nói rằng: "tất cả các học giả đều đồng ý rằng chẳng có khái niệm nào trong triết học chính trị của Hegel quan trọng hơn sự tự do." Sở dĩ bởi nó là nền tảng của pháp quyền, là bản chất của tinh thần, và là telos của lịch sử.
Bộ phận triết học này của Hegel được trình bày lần đầu tiên trong cuốn Bách khoa thư năm 1817 (tái bản vào năm 1827 và 1830) và được thêm thắt trong cuốn Các Nguyên lý của Triết học Pháp quyền năm 1821 (giống cuốn Bách khoa thư, vốn được xuất bản làm giáo trình giảng dạy). Phần cuối của nó, triết học lịch sử thế giới, được Hegel phân tích sâu hơn trong các bài giảng cùng tên.
Các Nguyên lý của Triết học Pháp quyền đã gây ra nhiều tranh cãi kể từ khi được xuất bản. Phải chú ý rằng tác phẩm này không phải là lời bao biện trắng trợn cho nhà nước Phổ chuyên chế như theo cáo buộc của một số người, mà nó thực ra là một lời bênh vực cho "nước Phổ trong quá trình được hoạch định dưới sự quản lý cải cách."
Inwood xác định từ Recht tiếng Đức không thể được chuyển ngữ trực tiếp sang tiếng Anh (song nó có quan hệ với tiếng Latinh ius và tiếng Pháp droit). Ông liệt kê ba ý nghĩa của từ này như sau (theo bản dịch của Bùi Văn Nam Sơn): một quyền hạn công lý (như trong 'thực thi công lý'...không theo nghĩa của một đức hạnh...) *'pháp luật' như một nguyên lý, hay 'pháp luật' theo nghĩa tập thể.
Beiser thấy rằng thuyết của Hegel là "nỗ lực của ông nhằm cải tạo truyền thống quy luật tự nhiên và đồng thời suy xét các chỉ trích tới từ trường phái lịch sử." Ông thêm rằng "nếu thiếu đi một lối diễn giải hợp lý về thuyết quy luật tự nhiên của Hegel, thì ta sẽ có rất ít sự thấu hiểu đối với chính cái nền tảng của tư tưởng chính trị và xã hội của ông." Đồng thuận với Beiser, Adriaan T. Peperzak cho rằng lập luận của Hegel chống lại thuyết khế ước xã hội, và ngoài ra ông cũng nhấn mạnh nền tảng siêu hình học của triết học pháp quyền Hegel.
Dựa vào "sự phân tích cấu trúc lý luận của Hegel trong Triết học Pháp quyền cho thấy đạt được sự tự trị chính trị là điều cơ bản trong lối phân tích của Hegel về nhà nước và chính phủ," Kenneth R. Westphal đã đưa ra ba điểm tóm tắt sau đây: Pháp quyền Trừu tượng,' bàn về các nguyên tắc quy định sự sở hữu, sự chuyển đổi của nó, và những cái sai chống lại sự sở hữu." Luân lý,' bàn về pháp quyền của chủ thể luân lý, trách nhiệm của một người về hành động của họ, và thuyết tiên nghiệm về pháp quyền." *Đời sống Đạo đức' (Sittlichkeit), phân tích các nguyên tắc và các thiết chế mà quy định các khía cạnh trung tâm của đời sống xã hội thuần lý, bao gồm gia đình, xã hội dân sự, và quốc gia theo góc độ tổng thể, bao gồm cả chính quyền."
Hegel mô tả nhà nước thời buổi bấy giờ, một nền quân chủ lập hiến, như là hiện thân thuần lý của ba nguyên tố xung khắc song lại hợp tác nhau. Chúng bao gồm "chế độ dân chủ (số đông cai trị, được phép tham gia lập pháp), chế độ quý tộc (thiểu số cai trị, có quyền áp dụng, tạo dựng, và thực thi pháp luật), và chế độ quân chủ (một người cai trị, nắm giữ mọi quyền hành)." Aristoteles gọi đây là dạng chính phủ "hỗn hợp", được thiết kế nhằm tổng hòa tất cả các ưu điểm của ba dạng cổ điển. Sự phân lập quyền hành "ngăn cản một quyền hành duy nhất chi phối số còn lại." Hegel đặc biệt chú trọng việc phải trói buộc quân chủ với hiến pháp và hạn định nhiệm vụ của ông ta trong chừng mực những gì các bộ trưởng của ông ta đã quyết định.
Mối quan hệ giữa triết học pháp quyền của Hegel với chủ nghĩa tự do khá phức tạp. Ông nhìn nhận chủ nghĩa tự do như một biểu thức đáng giá và đặc biệt của thế giới đương đại. Tuy nhiên, nó chứa đựng sự nguy khốn trong bản thân nó nhằm băng hoại cái giá trị của chính nó. Thiên hướng tự hoại này có thể được phòng tránh bằng cách đong đo "các mục đích chủ quan của các cá nhân với cái thiện khách quan và toàn thể." Giá trị đạo đức, do đó, chỉ có một "vị trí hạn chế trong cái vĩ mô toàn thể." Thế nhưng, mặc dù Hegel được coi là một trong những người đề xuất khái niệm mà Isaiah Berlin về sau đặt thuật ngữ là tự do thực định, ông thực ra cũng "không lay chuyển và không mập mờ" trong lập luận bênh vực tự do phủ định.
Nếu nền quốc chủ lý tưởng của Hegel yếu hơn đáng kể những nền quân chủ điển hình lúc bấy giờ, thì nguyên tố dân chủ của ông cũng yếu hơn đáng kể nguyên tố dân chủ điển hình của thời đại chúng ta. Mặc dù ông nhấn mạnh tầm quan trọng của việc công dân tham gia vào các vấn đề quốc sự, Hegel chủ trương hạn chế quyền bầu cử và noi theo chế độ lưỡng viện ở Anh, theo đó chỉ những thành viên thuộc hạ viện, tức tầng lớp dân đen và giai cấp tư sản, mới được bầu lên làm quan chức. Tầng lớp quý tộc thuộc thượng viện, ví dụ quân vương, thì thừa kế sẵn chức vị.
Hegel đặt tiêu đề phần cuối của Triết học Tinh thần Khách quan là "Lịch sử thế giới." Ở đây, ông cho rằng "quy luật nội tại này [khái niệm logos của phái Khắc kỷ] sản xuất với sự tất yếu logic một sự bành trướng các khả năng tự-quy định ('tự do') của giống loài và một sự đào sâu cái tự-giác tính của nó ('sự tự-biết')." Theo lời Hegel: "Lịch sử thế giới diễn tiến trong ý thức về tự do – một diễn trình mà ta phải lĩnh hội có tính khái niệm."
Tinh thần tuyệt đối
thumb|right|Hegel thuyết giảng cho các sinh viên ở Berlin
Bản phác của Franz Kugler
Cách dùng từ "tuyệt đối" (tiếng Đức: absolute) của Hegel có thể khiến nhiều độc giả bị bối rối. Triết gia người Anh Michael Inwood phân trần rằng: từ này bắt nguồn từ tiếng Latinh absolutus, nghĩa là "không phụ thuộc vào, không bị điều kiện hóa, không liên quan hay bị giới ước bởi bất cứ cái gì khác; tự mãn tự túc, hoàn hảo, hoàn chỉnh." Theo Hegel, điều này nghĩa là tri thức tuyệt đối chỉ đang sở thị tới "một 'quan hệ tuyệt đối' mà trong đó nền tảng kinh nghiệm và tác nhân trải nghiệm đều là cùng một thứ: khách thể được biết chính là khách thể chủ động biết." Tức là, "thứ" duy nhất (điều mà thực chất là một hoạt động) mà thực sự "tuyệt đối" đó chính là cái thứ hoàn toàn tự điều kiện hóa, và theo Hegel, điều đó chỉ xảy ra khi tinh thần bắt đầu coi chính nó như một khách thể của riêng nó. Phần cuối của chương Triết học Tinh thần trình bày ba dạng của tri thức tuyệt đối: nghệ thuật, tôn giáo, và triết học.
Nhờ sự quy chiếu đến các phương thức khác nhau của ý thức – trực quan, biểu tượng và tư duy thấu hiểu - mà Hegel mới có thể phân loại ba dạng thức của tri thức tuyệt đối. Triết gia người Mỹ Frederick Beiser tóm tắt ý tưởng của Hegel như sau: "nghệ thuật, tôn giáo và triết học đều có chung một đối tượng, cái tuyệt đối hoặc đích thân cái chân lý; song cốt của chúng phải nằm ở các dạng tri thức khác nhau về nó. Nghệ thuật phô cái tuyệt đối ở dạng trực quan tức thời (Anschauung); tôn giáo phô nó ở dạng biểu tượng (Vorstellung); triết học phô nó ở dạng khái niệm (Begriffe)."
Triết gia người Đức Rüdiger Bubner nói thêm rằng sự tăng trưởng của sự minh bạch khái niệm mà theo đó những lĩnh vực này được sắp xếp có hệ thống hoàn toàn không mang tính tôn ti phân cấp nào cả.
Tuy phần thảo luận của Hegel về tinh thần tuyệt đối trong cuốn Bách khoa thư khá vắn tắt, ông có bàn luận thêm về nó trong các bài giảng về triết học nghệ thuật, về triết học tôn giáo, và về lịch sử triết học.
Triết học nghệ thuật
thumb|upright|right|Người [[Athens cổ đại, theo Hegel, đã nắm rõ trực tiếp ý nghĩa của Athena Parthenos mà không cần tới sự phán xét phản tư nào, như thể bản chất thuần lý của ông. (Pho tượng Athena Varvakeion, Bảo tàng Khảo cổ học Quốc gia Athens)]]
Trong cuốn Hiện tượng học, và ngay cả trong ấn bản năm 1817 của Bách khoa thư, Hegel chỉ thảo luận về nghệ thuật khi nó được thể hiện bởi thứ mà ông gọi là "Nghệ thuật – Tôn giáo" của người Hy Lạp cổ đại. Chỉ từ những năm 1820 trở đi, Hegel mới bắt đầu giảng về triết học nghệ thuật như một lĩnh vực riêng.
Mặc dù sử gia người Đức H. G. Hotho đặt nhan đề cho các bài giảng của Hegel trong lĩnh vực này là Vorlesungen über die Ästhetik [Các bài giảng về mỹ học], Hegel đã tuyên bố rành mạch rằng chủ đề thảo luận ở đây không phải "lĩnh vực rộng rãi của cái đẹp", mà là "nghệ thuật, hay đúng hơn là mỹ thuật." Hegel nhấn mạnh điều này ở đoạn tiếp theo, phân biệt tường minh cơ đồ triết học của ông với các cơ đồ triết học rộng lớn hơn với cái tên "mỹ học" của Christian Wolff và Alexander Gottlieb Baumgarten.
Một số nhà phê bình – nhất là Benedetto Croce, vào năm 1907 – cho rằng luận đề mà Hegel muốn truyền tải là nghệ thuật đã "chết". Tuy nhiên, Hegel chưa bao giờ phát biểu bất cứ điều gì như thế, và quan điểm kiểu vậy không nên được gán cho ông. Quả thực, một nhà bình luận đã đặt tranh luận này vào tương quan với quan sát rằng câu nói "nghệ thuật không còn phụng sự cho mục đích cao cả của ta nữa" của Hegel là "cực đoan, không phải vì ngụ ý rằng nghệ thuật hiện nay không còn làm được điều đó, mà vì ngụ ý rằng nó đã từng làm được điều đó."
Phân tích của Hegel về các loại hình nghệ thuật khác nhau trải dài trên nhiều phương diện, rất tỉ mỉ và có hệ thống. Điều này đã khiến Ernst Gombrich phải ca ngợi Hegel là "cha đẻ của ngành lịch sử nghệ thuật." Thật vậy, cho đến gần đây, phần lớn giới triết gia phớt lờ Các bài giảng của Hegel song giới phê bình văn học và sử học nghệ thuật lại bày tỏ sự quan tâm đáng kể đến chúng.
Dẫu vậy, cơ đồ khái niệm hẹp hơn của triết học nghệ thuật là nhằm để làm rõ và bảo vệ "tính tự trị của nghệ thuật, làm cho khả dĩ một tường thuật về các công trình nổi bật tính cá biệt đặc trưng về sự quý giá mỹ học."
Theo Hegel, cái đẹp nghệ thuật mặc khải chân lý tuyệt đối thông qua tri giác.' Ông cho rằng nghệ thuật hay nhất khi nó truyền tải tri thức siêu hình bằng sự mặc khải, thông qua tri giác cảm nhận, điều mà chính là chân lý vô điều kiện," nghĩa là, "cái thứ mà thuyết siêu hình của ông khẳng định là vô điều kiện hoặc tuyệt đối." Vì vậy, tuy Hegel "tôn vinh nghệ thuật miễn là nó truyền tải tri thức siêu hình," song "ông kiềm chế sự thẩm định của mình theo quan niệm rằng môi trường cảm tính của nghệ thuật không bao giờ có thể truyền tải một cách hợp lý thứ hoàn toàn vượt trên tính bất tất của cảm giác." Theo Hegel, đây là lý do tại sao nghệ thuật chỉ có thể là một trong ba hình thức tương hỗ lẫn nhau của tinh thần tuyệt đối.
Tư tưởng Kitô giáo
Mặc dù cách hiểu về đạo Kitô của ông thay đổi theo thời gian, Hegel tự nhận là người theo Giáo thuyết Luther. Ông đặc biệt trân trọng sự thấu hiểu của Kitô giáo về cái giá trị và sự tự do ẩn chứa bên trong mỗi con người.
Các bản thảo Lãng mạn chủ nghĩa
Hegel viết về Kitô giáo vào khoảng giữa những năm 1783 và 1800. Ông mới chỉ phát triển sơ qua các ý tưởng của mình lúc bấy giờ, và tất cả số bản thảo thời đó hoặc chỉ là nháp hoặc là chưa bao giờ được ông hoàn thiện. Hegel không hài lòng với những sự giáo điều và thực định trong đạo Kitô, cũng từ đó mà phản đối tôn giáo tự phát của người Hy Lạp cổ. Trong Tinh thần của Kitô giáo, ông đề xuất dung hòa tính phổ quát trong đạo đức học của Kant và tính phổ quát trong giáo huấn của Jesus; thuật lại lời Hegel: "Đạo lý của Phúc âm là lòng khoan dung hoặc tình yêu, và tình yêu là vẻ đẹp của trái tim, một vẻ đẹp tinh thần kết tụ từ Hồn Hy Lạp và Lý tính Đạo đức của Kant." Tuy về sau ông đoạn tuyệt với chủ nghĩa Lãng mạn, sự hợp nhất hai dòng tư tưởng Hy Lạp – Kitô sẽ tiếp tục xuất hiện đó đây trong triết lý của Hegel.
Tư tưởng Kitô trong Hiện tượng học tinh thần
Tôn giáo là chủ đề bàn luận xuyên suốt cuốn Hiện tượng học tinh thần (1807), xuất hiện thậm chí trước cả chương thảo luận về Tôn giáo ở gần cuối. Điều này có thể được thấy rõ ở khái niệm "bất hạnh" siêu hình của ý thức Augustinô ở chương IV, cũng như trong các minh họa của Hegel về sự đối kháng giữa giáo dân ngoan đạo của Giáo hội và các triết gia Thời kỳ Khai sáng ở chương VI.
Tuy nhiên, quan điểm của Hegel về Kitô giáo được thể hiện rõ nhất ngay trước chương kết của cuốn Hiện tượng học – Ý niệm Tuyệt đối. Nó được trình bày dưới đề mục Tôn giáo Mặc khải [die offenbare Religion]. Thông qua phương pháp phơi bày triết học các học thuyết Kitô ví dụ như Xuống thế và Phục sinh, Hegel khẳng định là đã biểu diễn và làm "hiện ra" cái chân lý khái niệm của đạo Kitô,
Về lịch sử, chính luận và triết luận
"Lịch sử," theo Frederick Beiser, "là trung tâm quan niệm triết học của Hegel." Triết học chỉ khả dĩ "nếu nó mang tính lịch sử, chỉ nếu một triết gia có nhận thức về nguồn gốc, bối cảnh, và quá trình phát triển các học thuyết của chính mình." Trong bài luận năm 1993 với nhan đề "Chủ nghĩa duy sử Hegel," Beiser tuyên bố điều này "hoàn toàn là một cuộc cách mạng trong lịch sử triết học." Tuy nhiên, trong chuyên khảo năm 2011, Beiser lại loại Hegel khỏi bàn luận của ông về truyền thống duy sử Đức, sở dĩ vì ông cho rằng Hegel quan tâm nhiều hơn đến triết học lịch sử chứ không phải dự án tri thức luận nhằm hợp lý hóa nó như một ngành khoa học. Hơn nữa, chống lại các ngụ ý tương đối tính mà chủ nghĩa duy sử đã phân tích hẹp hòi, siêu hình học tinh thần của Hegel lại cung cấp một telos, một thứ nội tại của bản thân lịch sử, theo đó mà sự tiến triển mới có thể được đánh giá. Điều đó chính là sự tự-ý thức của tự do. Theo Hegel, một nền văn hóa mà càng nhận thức được về sự tự do bản chất ấy của tinh thần, thì nó càng tiến bộ.
Bởi lẽ sự tự do, theo Hegel, là bản chất của tinh thần, vậy nên sự tự-nhận thức đang phát triển của nó vừa là sự phát triển trong chân lý, cũng vừa là sự phát triển trong đời sống chính trị. Tư duy là hành động tiền giả định một "niềm tin bản năng" trong chân lý; và lịch sử triết học, theo Hegel, là một chuỗi tiến triển của khái niệm "hệ thống-đồng nhất hóa" của chân lý.
Hegel có thật là một nhà duy sử luận không còn tùy vào định nghĩa của từng người. Tuy vậy, tầm quan trọng của lịch sử trong triết học Hegel không thể bị phủ nhận.
Tiếng Đức có hai từ chỉ "lịch sử," Historie và Geschichte. Từ đầu tiên có thể được hiểu là "sự tổ chức tự sự về vật chất thực nghiệm." Từ thứ hai "bao gồm một trình thuật về logic phát triển ẩn dưới ('cơ sở nội tại') về hành động và sự kiện." Ở đây, chỉ cách giải nghĩa thứ hai mới có thể dẫn đến một lịch sử phổ quát hoặc triết lý hoàn hảo, và đây cũng là cách giải nghĩa mà Hegel sử dụng trong tất cả các bản thảo lịch sử của mình. Theo Hegel, con người là những sinh vật lịch sử rất đặc biệt, bởi lẽ chúng ta không chỉ tồn tại trong thời gian, mà còn có khả năng nội hóa các sự kiện trong thời gian để chúng trở thành, theo nghĩa sâu sắc nhất, một phần của bản dạng chúng ta, "cần thiết cho sự tự-hiểu và tự-kiến thức của nhân loại." Đó là lý do tại sao lịch sử triết học, chẳng hạn, là cần thiết đối với bản thân triết học; các triết gia tiền bối không thể biết các triết gia hậu thế, tiếp thu tất cả các tinh túy từ các triết gia đời trước, sẽ nghĩ như thế nào – và có lẽ, với khoảng cách ấy, cho ra những công trình triệt để hoặc mạch lạc hơn.
Trong phần dẫn nhập giản lược vào Các bài giảng về triết học lịch sử, Hegel chia lịch sử nhân loại thành ba kỷ nguyên: Ở kỷ nguyên "Đông phương", chỉ một người (pharaoh hoặc hoàng đế) tự do. Ở kỷ nguyên Hy-La, ít người (công dân giàu) tự do. Ở kỷ nguyên "Giéc-manh" (tức là, các Kitô quốc Âu Châu) tất cả mọi người tự do.
thumb|upright=0.8|right|Học giả [[Francis Fukuyama từng cho rằng các nền tự do dân chủ tư bản phương Tây là hồi kết của lịch sử.]] Một số nhà bình luận – đáng chú ý là Alexandre Kojève và Francis Fukuyama – cho rằng, theo Hegel, một khi khái niệm phổ quát về tự do được lĩnh hội, lịch sử sẽ hoàn tất và chạm tới mốc cuối cùng. Chống lại diễn giải này, tuy nhiên, người ta có thể lập luận rằng tự do chưa thể được mở rộng về mặt tầm cỡ và nội dung của nó. Chúng ta đã, kể từ thời Hegel, mở rộng tầm cỡ của tự do khái niệm để chấp nhận việc bao hàm rất đúng đắn cả phụ nữ, nhân dân từng bị nô dịch và bị thuộc địa hóa, những người mắc bệnh tâm thần, và những người mà trước đây từng bị coi là lệch lạc tình dục hoặc giới tính, v.v. Còn đối với nội dung của tự do, Bộ luật Nhân quyền Quốc tế của Liên Hiệp Quốc chẳng hạn, đã mở rộng khái niệm tự do ra ngoài định nghĩa của Hegel. Thêm vào đó, tuy Hegel biểu diễn nhất quán lịch sử triết luận của ông như các tường thuật từ Đông-sang-Tây, một số học giả như J. M. Fritzman cho rằng, thiên kiến này không chỉ khá tình cờ đối với bản thể lập trường triết học Hegel, mà còn – với Ấn Độ là một trong những nền dân chủ lớn nhất hiện nay, hoặc nỗ lực đáng nể của Nam Phi nhằm vượt bỏ apartheid – chúng ta có thể đang chứng kiến sự vận động của tự do trở lại phương Đông.
Phép biện chứng, sự tư biện, thuyết duy tâm
Biện chứng và tư biện
Hegel thường được coi là triết gia tâm đắc với "phương pháp biện chứng"; song trên thực tế, bản thân Hegel mô tả triết học của mình mang tính "tư biện" (tiếng Đức: Spekulativ) nhiều hơn, chứ không hẳn là biện chứng, và ông cũng "khá hiếm" khi sử dụng thuật ngữ "biện chứng" (tiếng Đức: Dialektik). Sở dĩ bởi "Dialektik đôi khi đại diện cho toàn bộ tiến triển của sự tự-chắp nối ý nghĩa hoặc tư tưởng, thuật ngữ này đề cập cụ thể hơn đến sự tự-phủ định các quy định của giác tính (Verstand), khi chúng đã được tư duy thông suốt qua tính cố định và tính đối lập của chúng."
Trái lại, "Hegel miêu tả tư duy đúng đắn như là sự tác động lẫn nhau mang tính phương pháp giữa ba mô-men[:] :(a) cái trừu tượng và cái giác tính (verständig), :(b) thuần lý biện chứng hoặc thuần lý phủ định (negativvernünftig), và :(c) thuần lý tư biện hoặc thuần lý thực định (positivvernünfig)."
Ví dụ, sự tự-ý thức là "khái niệm mà ý thức có được về chính nó. Vì thế ở trường hợp này khái niệm và vật sở chỉ tương đồng nhau:... Ý chỉ của 'sự tự-ý thức' là việc tâm trí khoác lên vai sự tự-mâu thuẫn (vì vậy nên kèm theo luôn sự tự-phủ định) về sự tồn tại khách thể và chủ thể của cùng một hành động thức nhận – đồng thời và theo cùng một khía cạnh." Vì thế mà nó là khái niệm mang tính tư biện.
Theo Beiser, "nếu Hegel thật sự có một phương pháp luận nào đó, âu là phản-phương pháp luận, tức một phương pháp đình hoãn mọi phương pháp." Thuật ngữ "(phép) biện chứng" của Hegel phải được hiểu là chỉ tới cái khái niệm của đối tượng khảo sát. Điều cần phải nắm rõ đó là "tính tự tổ chức" của vấn đề bàn luận, 'tính tất yếu bên trong' và 'sự vận động cố hữu' của nó." Hegel từ khước mọi phương pháp bên ngoài như có thể được "áp dụng" cho một số vấn đề bàn luận.
Vượt bỏ/thải hồi
Đặc điểm biện chứng của quá trình tư biện của Hegel thường làm nhiễu lập trường thực sự của ông về một vấn đề đang bàn tới. Thay vì tìm câu trả lời cho một câu hỏi hóc búa hay trực tiếp giải quyết một vấn đề, ông thường lật lại vấn đề bằng cách chi ra, chẳng hạn, "rằng bản chất nước đôi nằm dưới tranh chấp thật ra sai lầm, vì vậy nên hoàn toàn có thể tổng hòa các yếu tố từ cả hai quan điểm." Khi thành công, tư tưởng tư biện bảo lưu những gì đúng khỏi các lý thuyết rõ ràng đối lập trong một quá trình mà Hegel gọi là "aufheben".
Động từ aufheben tiếng Đức có 3 nghĩa chính: 'nâng lên, giữ lấy, đưa lên'; 'hủy bỏ, thủ tiêu, phá hủy, đình chỉ'; và, *'giữ, lưu, bảo lưu.'
Hegel thường dùng thuật ngữ này với cả ba nghĩa, đặc biệt nhấn mạnh hai ý cuối, trong đó các mâu thuẫn biểu kiến được vượt bỏ một cách tư biện. Ông gọi những thứ đã được thải hồi là "mô-men" (das Moment, giống ngữ pháp neuter), sở thị "một đặc điểm bản chất hoặc bình diện của một toàn thể được nhìn nhận như một hệ thống tĩnh, và một giai đoạn bản chất trong một toàn thể được nhìn nhận như một hoạt động hoặc quá trình biện chứng." (Khi Hegel nói một thứ có tính "mâu thuẫn," tức là ông nói thứ ấy chưa thể tự tồn một cách độc lập tự thân nó, và vì vậy, nó chỉ có thể được hiểu [begreifen] như là một mô-men của cái toàn thể lớn hơn.)
Theo Hegel, việc suy nghĩ coi sự hữu hạn như một mô-men của cái toàn thể, hơn là một thực tồn tự-quy định độc lập, chính là ý nghĩa của việc nắm bắt nó như một ý thể (das Ideelle). Thuyết duy tâm, do vậy, "là học thuyết cho rằng các thực thể hữu hạn là có tính ý niệm hay ý thể (ideel): sự hiện hữu của chúng không chỉ phụ thuộc vào chính bản thân chúng mà còn phụ thuộc vào thực thể tự tồn ở mức độ rộng hơn nào đó [tức là cái toàn thể] đặt nền tảng hay bao hàm chúng."
Chủ nghĩa/Thuyết duy tâm
Những biểu thức đại từ – mô-men, vượt bỏ thải hồi, và lý tưởng hóa – là đặc trưng cho thuyết duy tâm của Hegel. Ta có thể hiểu chúng như là các giai đoạn tư duy mà trong đó "khách thể, về mặt khái niệm, ban đầu chỉ hiện diện ở dạng điềm báo, rồi thuận theo các hoàn cảnh ở bên trong lẫn bên ngoài của nó, và cuối cùng đứng hoàn toàn tự thân nó." Phân tích này, về mặt hiện tượng học và mặt khái niệm, phân biệt thuyết duy tâm của Hegel với chủ nghĩa duy tâm siêu việt của Kant và chủ nghĩa duy tâm tinh thần luận của Berkeley. Đối nghịch với các tư tưởng duy tâm đi trước, thuyết duy tâm của Hegel phù hợp với duy thực luận và tự nhiên luận phi-cơ giới. Lập trường này bác bỏ duy nghiệm luận trong vai trò của nó như một tường thuật tiên nghiệm của tri thức, song nó không xung khắc với tính chính đáng triết học của các kiến thức lấy từ kinh nghiệm. Luận điểm duy tâm của Hegel, điều mà ông khẳng định là đã được minh họa, cho rằng tồn-tại chính nó có tính thuần lý.
Tuy gọi triết học của Hegel là "chủ nghĩa duy tâm tuyệt đối" không hẳn sai, cái biệt danh này lúc bấy giờ thường được liên hệ với Schelling nhiều hơn, và bản thân Hegel sử dụng biệt danh ấy để chỉ triết học của mình có ba lần trong các tư liệu được khảo cứu.
Hegel cho rằng "tất cả triết học, về bản chất, đều là thuyết duy tâm." Khẳng định này dựa trên giả thiết rằng sự khái niệm hóa hiện diện ở tất cả các cấp bậc tri nhận. Bởi lẽ nếu chối bỏ giả thiết này, thì niềm tin của ta vào các khả năng khái niệm cần thiết cho sự lĩnh hội kiến thức khách quan sẽ bị lung lay – và vì vậy sẽ khiến ta luôn hoài nghi các kiến thức đó. Chính vì thế, theo Robert Stern, thuyết duy tâm của Hegel, "chẳng khác gì một dạng duy thực luận khái niệm, cắt nghĩa là 'niềm tin rằng các khái niệm là bộ phận cấu thành thực tại.
Phê phán và di sản
Ảnh hưởng của Hegel đến truyền thống triết học Tây phương hậu thế là cực kỳ đáng kể. Ở Anh cuối thế kỷ 19 và đầu thế kỷ 20, trường phái chủ nghĩa duy tâm Anh đã sáng lập một thuyết duy tâm tuyệt đối rút ra trực tiếp từ các tác phẩm của Hegel. Các thành viên nổi bật của phái này bao gồm J. M. E. McTaggart, R. G. Collingwood, và G. R. G. Mure. Độc lập với họ, các triết gia như Marx, Dewey, Derrida, Adorno, và Gadamer đã chắt lọc các ý tưởng của Hegel và tích hợp chúng vào hệ thống triết học của mình. Số khác như Kierkegaard, Russell, G. E. Moore, và Foucault thì phát triển các học thuyết chống lại hệ thống của Hegel. Trong thần học, dấu vết ảnh hưởng của Hegel có thể được tìm thấy trong các tác phẩm của Karl Barth và Dietrich Bonhoeffer. Những danh nhân trên, tuy vậy, chỉ là một phần nhỏ trong vô vàn các nhà tư tưởng đã tiếp xúc với triết học của Hegel.
Phái Hegel Hữu và Tả
Nhiều nhà sử học chia sự ảnh hưởng hậu thế của Hegel thành hai phe đối lập, Hữu và Tả. Những người theo phái Hegel Hữu, tức những môn đồ trực tiếp của Hegel tại Friedrich-Wilhelms-Universität, ủng hộ chủ nghĩa chính thống Tin lành và chủ nghĩa bảo thủ chính trị của thời kỳ Khôi phục hậu-Napoléon. Những người theo phái Hegel Tả, còn được gọi là những người Hegel Trẻ, diễn giải Hegel theo chiều hướng cách mạng, thành ra ủng hộ chủ nghĩa vô thần trong tôn giáo và dân chủ tự do trong chính trị. Tuy vậy một số nghiên cứu gần đây lại nghi ngờ sự phân chia truyền thống này.
Phái Hegel Hữu "nhanh chóng rơi vào dĩ vãng" và "ngày nay chỉ được biết đến bởi những chuyên gia"; ngược lại thì phái Hegel Tả "bao gồm một số nhà tư tưởng quan trọng nhất của thời đại này," và "nhờ việc nhấn mạnh vào thực tiễn, một số nhà tư tưởng [thuộc trường phái này] vẫn có ảnh hưởng cực kỳ lớn," chủ yếu thông qua chủ nghĩa Marx.
Chủ nghĩa Marx
thumb|upright=0.8|left|[[Karl Marx (1818–1883)]] Phái Hegel Trẻ là nhóm những người Đức tiên phong của trào lưu phê phán hệ thống triết học Hegel vào thế kỷ 19. Nhóm này bao gồm một số nhân vật nổi bật như Feuerbach, Marx và Engels. Trọng tâm phê phán của nhóm này được thể hiện hàm súc trong "Luận cương về Feuerbach" thứ 11, trích từ cuốn Hệ tư tưởng Đức (1845) của Marx:
Mặc dù ảnh hưởng của Hegel lên tư duy triết học Marx thường được cho là chỉ giới hạn ở các tác phẩm ông viết thời niên thiếu, như được thể hiện trong các bản thảo kinh tế – triết học năm 1844. Song bằng chứng về ảnh hưởng của nó tới dàn ý tác phẩm Das Kapital vẫn sáng tỏ trong các bản thảo Marx viết nháp từ năm 1857 đến năm 1858, được biên khảo thành cuốn Grundrisse và xuất bản sau khi ông mất.
Vào thế kỷ 20, lối diễn giải Marxist về Hegel được phát triển thêm bởi trường phái Frankfurt. Trào lưu này phát sinh bởi nhiều nguyên nhân, trong đó bao gồm: (a) sự tái khám phá và suy xét lại Hegel như là nhân vật triết học khả dĩ khởi xướng chủ nghĩa Marx; (b) sự tái sinh sử quan Hegel; và (c) tầm quan trọng của phương pháp biện chứng Hegel ngày càng được nhiều người công nhận. Đặc biệt hơn, tác phẩm Lịch sử và ý thức giai cấp của György Lukács (1923) đã góp phần tái hợp Hegel vào kho tàng tư tưởng Marxist chính thống.
Đón nhận ở Pháp
thumb|right|upright=0.8|[[Alexandre Kojève (1902-1968), vị triết gia có nhiều ảnh hưởng đối với cách đọc Hegel ở Pháp]] Ngày nay khi nhắc đến "Hegel Pháp", người ta sẽ liên tưởng ngay tới những bài giảng của triết gia Alexandre Kojève. Các công trình của ông rất chú trọng vào biện chứng chủ – nô và sử quan triết học Hegel; góc nhìn này, tuy vậy, lại bỏ qua lịch sử hơn 60 năm phân tích Hegel khi trước tại Pháp, theo đó chủ nghĩa Hegel được đồng nhất với "hệ thống" đã trình bày trong Bách khoa thư. Các cách hiểu sau đó về Hegel (kể cả Kojève), thì lại lấy Hiện tượng học tinh thần làm xuất phát điểm, do đó đây có thể coi là một trào lưu phản ứng chống lại cách đọc Hegel cũ. Sau năm 1945, "thứ chủ nghĩa Hegel 'kịch tính' này, tập trung vào chủ đề sự-trở-thành mang tính lịch sử thông qua xung đột, được xem là tương thích với chủ nghĩa hiện sinh và chủ nghĩa Marx."
Bằng cách hạn định phép biện chứng với lịch sử, các hướng diễn giải nổi bật ở Pháp của Jean Wahl, Alexandre Kojève, và Jean Hyppolite cho hay triết học của Hegel đã cung cấp cho ta "một nhân học triết học thay vì một siêu hình học phổ biến." Hướng diễn giải này xoáy vào đề tài ham muốn trong vai trò là tiêu điểm của sự can thiệp. Mặc dù không thể quy toàn bộ công trạng này cho riêng Kojève, song lối đọc hiểu Hegel của ông đã định hình tư tưởng của nhiều nhà hiền triết hậu bối, chẳng hạn như Jean-Paul Sartre, Maurice Merleau-Ponty, Claude Lévi-Strauss, Jacques Lacan, và George Bataille.
Kiến giải của Kojève về "biện chứng chủ – nô" như là mô hình cơ bản của sự phát triển lịch sử đã có một sức ảnh hưởng rất lớn đến tư tưởng nữ quyền của Simone de Beauvoir và công trình chống phân biệt chủng tộc và chống thực dân của Frantz Fanon.
Phân biệt chủng tộc
Giữa thế kỷ thứ 20 và đầu thế kỷ thứ 21, với sự lớn mạnh của phong trào hậu thực dân luận, nhiều học giả quay trở lại các phát biểu của Hegel về chế độ nô dịch và nguồn gốc của tinh thần con người và nhận ra rằng ông ủng hộ nhiều giả thuyết phân biệt chủng tộc giống như các triết gia đương thời khác, điều mà trước đó chưa ai để tâm kỹ đến.
Tuy nhiên cũng phải chú ý rằng, Hegel ủng hộ cuộc Cách mạng Haiti của nô lệ da đen chống lại giới chủ nô Pháp, xem nó như là ví dụ về phép biện chứng chủ – nô. Haiti là quốc gia hậu nô lệ đầu tiên giới thiệu các quyền con người phổ quát, trước cả Pháp và Hoa Kỳ. Điều này, đối với Hegel, là một bước tiến quan trọng trong sự hiện thực hóa tự do của lịch sử thế giới.
Chủ tịch Hiệp hội Hegel Quốc tế, Dina Emundts, đã phát biểu vào năm 2020 rằng: "Vừa phân biệt chủng tộc vừa đòi nhân quyền cho tất cả các dân tộc không hẳn là một sự mâu thuẫn. Cả Kant và Hegel đều làm thế."
Cáo buộc ủng hộ chủ nghĩa chuyên chế
Ở phần 2 của tác phẩm Xã hội mở và những kẻ thù của nó (1945), Karl Popper cáo buộc hệ thống triết lý của Hegel biện minh lộ liễu cho chính phủ chuyên chế đời vua Friedrich Wilhelm III và rằng Hegel coi nhà nước Phổ những năm 1830 như là hình thức tột cùng của tiến trình lịch sử. Popper cho rằng triết học Hegel là nguồn cơn của các chính phủ toàn trị theo hệ tư tưởng cộng sản và phát xít vào thế kỷ 20, theo đó phép biện chứng là công cụ để hợp thức hóa mọi đức tin. Tuy nhiên, Kaufmann và Shlomo Avineri chỉ trích quan điểm của Popper về Hegel.
Theo Benedetto Croce thì triết gia kiêm chính trị gia phát-xít người Ý Giovanni Gentile "được vinh dự là người theo chủ nghĩa tân-Hegel khắt khe nhất trong toàn bộ lịch sử triết phương Tây và nhục nhã do là nhà triết học chính thức theo chủ nghĩa phát-xít ở Ý."
Isaiah Berlin liệt kê Hegel là một trong sáu "kiến trúc sư" của chủ nghĩa chuyên chế hiện đại, cùng với Rousseau, Claude Adrien Helvétius, Fichte, Henri de Saint-Simon và Joseph de Maistre.
Chính đề – phản đề – hợp đề
Ba thuật ngữ này được phát triển phần lớn nhờ công lao của Fichte, sau được Heinrich Moritz Chalybäus phổ biến thông qua những bản thảo của ông về triết học Hegel. Chẳng hạn, Walter Kaufmann cho rằng:
Fichte giới thiệu triết học Đức với quá trình ba bước chính đề, phản đề, và hợp đề, sử dụng đúng ba thuật ngữ ấy. Schelling sau cũng sử dụng theo. _Hegel thì chưa từng._ Ông chưa một lần sử dụng ba từ này cùng nhau để chỉ ba giai đoạn của lý lẽ hoặc tường thuật trong bất cứ một trước tác nào. Và ba thuật ngữ ấy không tài nào giúp ta hiểu được cuốn _Hiện tượng học_ của ông, cuốn _Logic_ của ông, hoặc triết học sử quan của ông; chúng cản trở sự thông hiểu phóng khoáng về thứ ông thực sự truyền tải bằng cách xen lấn vào một hệ thống, [cái hệ thống] mà sẵn có cho ông và bị ông cố tình trút bỏ.
Lập trường của Beiser thậm chí cực đoan hơn. Ông phủ nhận mối liên hệ của ba khái niệm này với Fichte hoặc Schelling, huống hồ là Hegel.
Tuy nhiên, cũng có ý kiến cho rằng điều này "chỉ là một lối hiểu hời hợt, cần phải chấn chỉnh." Điểm mà nó hiểu đúng đó là, theo Hegel, "chân lý sinh ra từ lỗi lầm" trong dòng phát triển lịch sử theo cách hàm chỉ một "thuyết toàn thể mà trong đó các sự thật một phần dần dần được chấn chỉnh để sự phiến diện của chúng được vượt bỏ." Điều mà nó bóp méo đó là, sự mô tả kiểu vậy chỉ khả thi khi quá trình đó đã diễn ra. Cái "chính đề" và "phản đề" không "xa lạ" với nhau. Bởi vì có thể nói là tồn tại một "phép biện chứng" như thế, nó không phải là khái niệm bên ngoài mà có thể "áp dụng" vào một vấn đề đang bàn.
Tương tự, Stephen Houlgate lập luận rằng, theo bất cứ ý hiểu hẹp nào về "phương pháp" mà Hegel sở hữu, thì nó hoàn toàn là phương pháp nội tại; tức là, nó xuất phát từ sự chìm đắm tư tưởng bên trong bản thân cái chủ đề đang bàn. Nếu điều này dẫn đến biện chứng pháp, thì chắc chắn tồn tại một mâu thuẫn bên trong bản thân cái khách thể, chứ không phải bất kỳ quá trình phương pháp luận bên ngoài nào khác.
Chủ nghĩa thực dụng Hoa Kỳ
thumb|upright=1|left|[[Richard J. Bernstein (1932–2022), nổi danh với những công trình về Hegel và chủ nghĩa thực dụng Hoa Kỳ.]] Theo nhà nghiên cứu Richard J. Bernstein, ảnh hưởng của Hegel đối với trào lưu chủ nghĩa thực dụng tại Hoa Kỳ có thể được chia thành ba giai đoạn: cuối thế kỷ 19, giữa thế kỷ 20 và hiện tại. Giai đoạn đầu mở ra với những ấn bản sớm của Tạp chí triết học tư biện (thành lập năm 1867). Giai đoạn hai gắn liền với những triết gia nổi tiếng như John Dewey, Charles Sanders Peirce và William James.
Bản thân Dewey giải thích sức hút của chủ nghĩa Hegel như sau: "Tuy nhiên, cũng tồn tại các lý do 'chủ quan' về sức lôi cuốn của tư tưởng Hegel đối với tôi; nó cung cấp yêu cầu về sự thống nhất mà chắc chắn là một khao khát xúc cảm mãnh liệt, song cũng là cơn đói mà chỉ một chủ đề tri thức hóa mới có thể thỏa mãn." Ông chấp thuận phần lớn trình thuật của Hegel về lịch sử và xã hội, nhưng chối bỏ (có lẽ sai) sự khái niệm hóa diễn trình của Hegel về tri thức tuyệt đối.
Hai nhà triết học, John McDowell và Robert Brandom (đôi khi được gọi là "những nhà Hegel chủ nghĩa Pittsburgh"), cấu thành, theo Bernstein, đợt thứ ba trong ảnh hưởng của Hegel lên chủ nghĩa thực dụng. Tuy nhiên, dù công khai thừa nhận tầm ảnh hưởng của Hegel, hai ông đều không dám khẳng định đó là quan điểm của Hegel mà chỉ là cách hiểu của riêng bản thân mình. Hơn nữa, hai ông rõ ràng đều chịu ảnh hưởng của triết gia Wilfrid Sellars. McDowell đặc biệt quan tâm đến việc đạp đổ vấn đề "myth of the given," hay cái lưỡng phân giữa khái niệm và trực giác; trong khi đó, Brandom tập trung vào việc phát triển trình thuật xã hội của Hegel về sự đưa-lý-tính và ngụ ý quy phạm. Những ví dụ về sự trưng dụng tư tưởng này là hai trong số nhiều cách đọc "phi-siêu hình" về Hegel.
Diễn giải phi-siêu hình
thumb|upright=0.8|right|Tượng bán thân của Hegel, tạc bởi [[Gustav Bläser (Blaeser) (1872), tại Hegelplatz (Dorotheenstraße) ở Berlin-Mitte, Berlin]]
Trong các bài viết năm 2005 cho độc giả Anh ngữ, Frederick Beiser phát biểu rằng tình trạng của siêu hình học Hegel "có thể được coi là câu hỏi bị tranh cãi gay gắt nhất trong giới học giả Hegel." Một số học giả nghiêng về hướng diễn giải siêu hình học Hegel có âm hưởng tôn giáo như là một nỗ lực nhằm biện minh các đức tin Kitô giáo thông qua lý lẽ.
Một số học giả lại diễn giải ông theo chiều hướng phi-siêu hình, cho rằng triết học của ông là "một thuyết phạm trù, một tri thức luận tân-Kant, một thông diễn học, hoặc thậm chí một chủ nghĩa nhân bản phản-Kitô."
Nếu triết học Hegel thật sự là một siêu hình học, thì Beiser cho hay những triết gia đây tin rằng nó "ắt lỗi thời" và là một "cơ đồ phá sản", bởi lẽ Kant từng lập luận trong trước tác Phê phán của ông rằng việc rút ra tri thức vô điều kiện từ lý tính thuần túy là điều bất khả thi.
Tuy nhiên, kể từ Kant, người kiến giải "phi siêu hình [về Hegel] có thể coi là quan trọng nhất hiện nay", Robert B. Pippin, đã rút lại phát biểu trước đó của mình, như có thể thấy trong . Ngay cả trước đó, trong một buổi dẫn nhập thuộc tọa đàm 2014 của Hiệp hội Hegel Hoa Kỳ, Allegra de Laurentiis đã báo cáo rằng, mọi học giả thuyết trình về vấn đề "Hegel mà không cần siêu hình học?" [Hegel Without Metaphysics?] đều xác nhận chiều kích siêu hình học trong tư tưởng của Hegel.
Điều mà vẫn bị tranh cãi, đó là làm thế nào để diễn tả chính xác quan điểm của Hegel (hậu-Kant công khai) về siêu hình học. Như Hegel từng nói sơ qua, "con người là loài vật tư duy, và họ sinh ra đã là những nhà siêu hình học. Điều quan trọng duy nhất ở đây đó là loại siêu hình học mà được sử dụng có đúng chuẩn hay không."
Trước tác và bản thảo
Ngoặc vuông đơn biểu thị nhan đề được đặt bởi nhà biên tập; ngoặc kép biểu thị bài viết được xuất bản; chữ in nghiêng biểu thị sách được xuất bản.
Bern, 1793–96
- 1793–94: [Những mẩu tiểu luận về Tôn giáo Dân gian và Kitô giáo]
- 1795–96: [Tính thực định của Kitô giáo]
- 1796–97: [Hệ thống-Cương lĩnh cổ nhất của chủ nghĩa duy tâm Đức] (không rõ tác giả thật)
Frankfurt am Main, 1797–1800
- 1797–98: [Các bản nháp về Tôn giáo và Tình yêu]
- 1798: Các bức mật thư về các quan hệ hiến pháp trước đó giữa Wadtlandes (Pays de Vaud) và Thành phố Bern. Vạch trần hoàn toàn chế độ đầu sỏ hồi trước của Đẳng cấp Bern. Dịch từ bản tiếng Pháp của một người Thụy Sĩ quá cố [Jean Jacques Cart], thêm phần Bình chú. Frankfurt am Main, Jäger. (Bản dịch của Hegel được xuất bản khuyết danh)
- 1798–1800: [Tinh thần của Kitô giáo và Định mệnh của nó]
- 1800–02: Hiến pháp nước Đức (bản nháp)
Jena, 1801–07
- 1801: De orbitis planetarum; 'Sự khác biệt giữa hệ thống triết học của Fichte và Schelling'
- 1802: 'Về bản chất của Phê phán Triết học nói chung và quan hệ của nó với thực trạng Triết học nói riêng' (Dẫn nhập vào Tạp chí Phê bình Triết học, biên tập bởi Schelling và Hegel)
- 1802: 'Làm thế nào Thường thức chiếm lấy Triết học, Minh họa bởi các công trình của Ngài Krug'
- 1802 'Quan hệ của Chủ nghĩa hoài nghi với Triết học. Sự phô diễn về nhiều sự biến đổi và sự so sánh giữa đương đại và cổ đại'
- 1802: 'Đức tin và Tri thức, hoặc Triết học Phản ánh tính chủ quan trong Sự hoàn thiện của các dạng thức của nó như là Triết học Kant, Jacobi và Fichte'
- 1802–03: [Hệ thống Đời sống Đạo đức]
- 1803: 'Về các Tiếp cận Khoa học đối với Quy luật Tự nhiên, Vai trò của nó trong triết học thực tiễn và quan hệ của nó với khoa học quy luật chắc chắn'
- 1803–04: [Triết học về Tinh thần đầu tiên (Phần III của Hệ thống Triết học Tư biện 1803/4)]
- 1807: Hiện tượng học tinh thần
Bamberg, 1807–08
- 1807: 'Đề tựa: Về Tri nhận Khoa học' (Đề tựa cho Hệ thống Triết học của ông, xuất bản cùng cuốn Hiện tượng học)
Nürnberg, 1808–16
- 1808–16: [Cẩm nang Dẫn nhập Triết học]
Heidelberg, 1816–18
- 1812–13: Khoa học Logic, Phần 1 (Quyển 1, 2)
- 1816: Khoa học Logic, Phần 2 (Quyển 3)
- 1817: 'Bình luận về các công trình của Friedrich Heinrich Jacobi, Tập 3'
- 1817: 'Đánh giá Tập biên chuyên đề của Hội đồng Đẳng cấp thuộc Công quốc Württemberg vào năm 1815 và 1816'
- 1817: Bách khoa thư các khoa học triết học, ẩn bản thứ nhất
Berlin, 1818–31
- 1820: Triết học pháp quyền, hoặc Quy luật Tự nhiên và Khoa học Chính trị đại cương
- 1827: Bách khoa thư các khoa học triết học, ẩn bản thứ hai duyệt lại
- 1831: Khoa học Logic, ấn bản thứ hai, thêm các sửa đổi lớn ở Quyển 1 (xuất bản năm 1832)
- 1831: Bách khoa thư các khoa học triết học, ấn bản thứ ba duyệt lại
Loạt bài giảng tại Berlin
- Logic học 1818–31: hằng năm
- Triết học Tự nhiên: 1819–20, 1821–22, 1823–24, 1825–26, 1828, 1830
- Triết học Tinh thần chủ quan: 1820, 1822, 1825, 1827–28, 1829–30
- Triết học Pháp quyền: 1818–19, 1819–20, 1821–22, 1822–23, 1824–25, 1831
- Triết học Lịch sử thế giới: 1822–23, 1824–25, 1826–27, 1828–29, 1830–21
- Triết học Nghệ thuật: 1820–21, 1823, 1826, 1828–29
- Triết học Tôn giáo: 1821, 1824, 1827, 1831
- Lịch sử của triết học: 1819, 1820–21, 1823–24, 1825–26, 1827–28, 1829–30, 1831