✨Karl Marx

Karl Marx

Karl Heinrich Marx (phiên âm tiếng Việt: Các Mác; 5 tháng 5 năm 1818 – 14 tháng 3 năm 1883) là một nhà triết học, kinh tế học, sử học, xã hội học, lý luận chính trị, nhà báo và nhà cách mạng người Đức. Tên tuổi của Marx gắn liền với hai danh tác nổi bật, đó là cuốn pamfơlê Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản (1848) và bốn tập sách Das Kapital. Những tư tưởng chính trị và triết học của Marx đã có tầm ảnh hưởng lớn lao đến lịch sử của các lĩnh vực tri thức, kinh tế và chính trị mãi tận về sau.

Karl Marx chào đời tại Trier, Đức. Ở bậc đại học, Marx lựa chọn học ngành luật và triết. Ông kết hôn với nhà phê bình kịch nghệ sân khấu kiêm nhà hoạt động chính trị tên là Jenny von Westphalen vào năm 1843. Do liên tục tung ra các ấn bản chính trị làm phật lòng chính quyền sở tại, Marx lâm vào cảnh không quốc tịch, rồi đành sống lưu vong cùng vợ và con cái tại Luân Đôn suốt nhiều thập kỷ. Tại đây, ông tiếp tục xây dựng các tư tưởng của mình với sự trợ giúp của triết gia người Đức Friedrich Engels và cho xuất bản nhiều tác phẩm, miệt mài nghiên cứu tại phòng đọc của Bảo tàng Anh.

Những lý thuyết phê phán của Marx về xã hội, kinh tế, chính trị – gọi chung là chủ nghĩa Marx – cho rằng các xã hội loài người từ xưa đến nay diễn tiến nhờ đấu tranh giai cấp. Trong phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa, điều này hiện thân ở dạng đấu tranh giữa giai cấp thống trị (hay giai cấp tư sản), giai cấp kiểm soát hoàn toàn phương tiện sản xuất, và giai cấp lao động (hay giai cấp vô sản), giai cấp phải vận hành những phương tiện sản xuất sở hữu bởi giai cấp tư sản bằng sức lao động của bản thân để được hưởng tiền công. Marx luôn chủ trương áp dụng lý thuyết vào thực tiễn, ông cho rằng giai cấp lao động phải thực hiện cách mạng vô sản một cách có tổ chức nhằm lật đổ chủ nghĩa tư bản và giải phóng thể chế kinh tế xã hội. Vô số nhà trí thức, các tổ chức công đoàn, các nghệ sĩ và các đảng phái chính trị trên khắp thế giới đều chịu ảnh hưởng tư tưởng từ Marx, theo đó một số cá nhân và đoàn thể tiếp tục phát huy và sửa đổi lý thuyết của ông sao cho phù hợp với thế sự. Marx thường được trích dẫn là một trong những kiến trúc sư chính của ngành khoa học xã hội đương đại.

Tiểu sử

Tuổi thơ và giáo dục thuở sớm: 1818–1836

Marx chào đời ngày 5 tháng 5 năm 1818 tại Brückengasse 664, Trier; một thị trấn cổ kính hồi bấy giờ thuộc tỉnh Rhine Hạ của Vương quốc Phổ. Cha ông là Heinrich Marx (1778 – 1838) và mẹ ông là Henriette Pressburg (1788 – 1863), vốn là một gia đình gốc Do Thái không theo tôn giáo; song trước khi Marx ra đời họ đã chính thức theo Kitô giáo. Ông ngoại Marx là một giáo sĩ rabbi người Hà Lan. Họ hàng bên nội ông có truyền thống làm rabbi tại Trier kể từ năm 1723, và ông nội Marx là Meier Halevi Marx cũng giúp tiếp nối cái truyền thống lâu đời ấy. Cha ông, hồi nhỏ có biệt danh Herschel, là người đầu tiên trong dòng họ được giáo dục theo hướng thế tục. Herschel trở thành một luật sư với mức lương khá giả thuộc lớp thượng trung lưu, hơn nữa gia đình ông cũng sở hữu nhiều mảnh vườn trồng nho ở Moselle. Trước thời điểm Marx ra đời và thời điểm mà phong trào bãi bỏ sự giải phóng Do Thái diễn ra tại Rhineland, Herschel đã cải sang đạo Phúc Âm thuộc giáo hội Phổ, rồi đổi tên thành Heinrich.

thumb|[[Karl-Marx-Haus|Nơi sinh của Marx tại Brückenstraße 10 ở Trier ngày nay. Gia đình Marx sống tại hai phòng ở tầng trệt và ba phòng ở tầng một. Ngôi nhà này được bán cho Đảng Dân chủ Xã hội Đức vào năm 1928, và hiện là một bảo tàng về quãng đời thuở niên thiếu của Marx.]]

Heinrich không quá gắn bó với tôn giáo mà là người rất ngưỡng mộ phong trào Khai Sáng và lấy làm thú vị những tư tưởng của hai nhà hiền triết Immanuel Kant và Voltaire. Với tư cách là người theo chủ nghĩa tự do cổ điển, ông gia nhập phong trào ủng hộ tạo lập một hiến pháp và thực hiện cải cách tại Phổ, đất nước lúc ấy còn theo chế độ quân chủ chuyên chế. Năm 1815, Heinrich Marx bắt đầu làm luật sư và trong năm 1819 đã chuyển gia đình tới một căn nhà 10 phòng gần Porta Nigra. Vợ ông là Henriette Pressburg, một người phụ nữ Hà Lan theo Do Thái giáo, vốn xuất thân từ một gia đình doanh nhân thành đạt mà về sau sáng lập công ty Philips Electronics nổi tiếng. Em gái bà Sophie Pressburg (1797–1854) kết hôn với Lion Philips (1794–1866); Sophie là bà ngoại của Gerard Philips và Anton Philips, và là bà cố của Frits Philips. Em rể của Henriette, Lion Philips, làm chủ một công xưởng sản xuất thuốc lá Hà Lan rất thịnh vượng. Trong những năm tháng vợ chồng Karl và Jenny Marx lưu đày ở London, hai người họ đã nhiều lần phải vay mượn tiền từ Philips để trang trải cuộc sống.

Ta có rất ít thông tin về thời thơ ấu của Marx. Ông là con thứ ba trong gia đình với 9 anh chị em. Sau khi người anh trai Moritz mất vào năm 1819, ông trở thành người con cả trong mắt cha mẹ mình. Marx và anh chị em còn lại của ông, Sophie, Hermann, Henriette, Louise, Emilie và Caroline, được rửa tội và gia nhập Giáo hội Luther vào tháng 8 năm 1824. Mẹ ông cũng cải theo vào tháng 12 năm 1825. Cha Marx tự mình kèm cặp con trai cho tới năm 1830, khi ông được gửi tới học ở trường Trung học Trier (). Hiệu trưởng trường này là Hugo Wyttenbach, một người bạn của cha Marx. Ông thường thuê các giáo viên theo chủ nghĩa tự do nhân bản đến đứng giảng tại trường, khiến cho giới chức tại địa phương vốn theo chủ nghĩa bảo thủ chính trị rất phẫn nộ. Năm 1832, cảnh sát được lệnh khám xét khẩn cấp ngôi trường và trong quá trình đó đã phát giác nhiều tài liệu chính trị tự do được phân phát cho học sinh. Sau vụ việc đó, chính quyền địa phương tiến hành cải tổ và thay thế nhiều giáo chức của nhà trường.

Vào tháng 10 năm 1835, cậu thiếu niên Marx 17 tuổi lữ hành đến Đại học Bonn, háo hức muốn được nghiên cứu triết học và văn chương tuy rằng cha ông lúc ấy lại muốn hướng con theo ngành luật để phù hợp với thực tiễn hơn. Do được chẩn đoán mắc chứng "lồng ngực yếu", Marx được miễn tòng quân lúc 18 tuổi. Tại Đại học Bonn, Marx đã gia nhập Câu lạc bộ Nghệ sĩ, một hội nhóm quy tụ nhiều nhân vật có tư tưởng chính trị cấp tiến, sở dĩ do vậy mà bị cảnh sát theo dõi rất sát sao. Ngoài ra Marx cũng từng tham gia Câu lạc bộ Tửu quán Trier (), sau giữ chức đồng chủ tịch của hội uống rượu này. Ông cũng rất hay vướng vào những vụ cãi cọ đôi co, có khi còn làm to chuyện lên; ví dụ vào tháng 8 năm 1836, ông đề nghị tỉ thí đấu kiếm với một sinh viên từ Borussian Korps để giải quyết mâu thuẫn. Điểm số kì học đầu của Marx tại trường Bonn tuy khá tốt, song về sau do chểnh mảng mà ngày càng tụt dốc. Điều này khiến cha Marx ép ông chuyển tới Đại học Berlin với hy vọng kết quả học tập của con mình sẽ tiến bộ hơn.

Chủ nghĩa Hegel và nghiệp báo chí thuở sớm: 1836–1843

Dành mùa hè và mùa thu năm 1836 ở Trier, Marx trở nên nghiêm túc hơn về nghiệp học và cuộc sống của mình. Ông đính hôn với Jenny von Westphalen, một thiếu nữ có học thức sinh ra trong một gia đình tiểu quý tộc, người đã quen Marx từ thuở ấu thơ. Jenny đã từ khước hôn ước với một chàng quý tộc trẻ tuổi để có thể ở bên Marx. Mối quan hệ này đã gây nhiều lùm xùm vì hai người họ khác biệt về cả tôn giáo lẫn tầng lớp xã hội, song mọi chuyện được giải quyết ổn thỏa sau khi Marx kết thân với cha cô là Ludwig von Westphalen (một quý tộc theo chủ nghĩa tự do). Bảy năm sau khi đính hôn, vào ngày 19 tháng 6 năm 1843, Marx và Jenny kết hôn tại một nhà thờ Tin lành ở Kreuznach.

Tháng 10 năm 1836, sau khi trúng tuyển khoa luật của trường đại học Berlin, Marx lên Berlin và thuê trọ ở Mittelstrasse. Trong học kỳ đầu, Marx tham dự các bài giảng của Eduard Gans (đại biểu cho quan điểm Hegel tiến bộ, giảng giải rõ hơn về sự phát triển thuần lý trong lịch sử bằng cách nhấn mạnh vào các khía cạnh tự do của nó, và tầm quan trọng của nghi vấn xã hội) và của Karl von Savigny (đại biểu của Trường phái Luật Lịch sử Đức). Mặc dù theo ngành luật, ông lại rất say mê triết học và tìm cách tổng hòa hai lĩnh vực ấy, với niềm tin rằng "không có triết học thì không thể đạt được điều gì". Marx bắt đầu quan tâm hơn đến vị triết gia người Đức Georg Wilhelm Friedrich Hegel, nhân vật mà có tầm ảnh hưởng đáng kể đến giới triết học châu Âu hậu thế. Trong thời gian dưỡng bệnh ở Stralau, ông tham gia câu lạc bộ , một hội sinh viên chuyên thảo luận về tư tưởng của chủ nghĩa Hegel. Qua đó, Marx biết đến trường phái Hegel Trẻ có tư tưởng chính trị cấp tiến và gia nhập nhóm này vào năm 1837. Ludwig Feuerbach và Bruno Bauer là hai nhân vật chủ chốt trong nội bộ nhóm lúc đó. Giống như Marx, những người Hegel Trẻ phê phán các giả định siêu hình học của Hegel, song họ tiếp thu phép biện chứng của Hegel để áp dụng nó theo quan điểm tả khuynh nhằm phê phán xã hội, chính trị và tôn giáo đã được thiết lập. Cha của Marx qua đời vào tháng 5 năm 1838, khiến thu nhập của gia đình bị giảm sút. Marx rất trân trọng ký ức của người cha quá cố, bởi ông và cha khi trước cực kỳ gần gũi với nhau.

thumb|upright|left|Chân dung [[Jenny von Westphalen những năm 1830]]

Đến năm 1837, Marx thử sức mình sáng tác một số tác phẩm văn học hư cấu và phi hư cấu; lúc bấy giờ ông đã hoàn thành một cuốn tiểu thuyết ngắn mang nhan đề Bọ cạp và Felix (), và một vở kịch mang nhan đề Oulanem, cùng như một số bài thơ tình dành riêng cho Jenny von Westphalen. Không một tác phẩm nào trong thời kỳ này được xuất bản khi Marx còn sống. Những bài thơ tình được biên khảo và xuất bản trong cuốn Tuyển văn Karl Marx và Frederick Engels: Tập 1 (). Marx nhanh chóng từ bỏ viết tiểu thuyết để theo đuổi những mục tiêu khác, bao gồm nghiên cứu tiếng Anh, tiếng Ý, lịch sử nghệ thuật và dịch thuật các tác phẩm Latinh kinh điển. Ông hợp tác với Bruno Bauer để biên tập cuốn Triết học tôn giáo Hegel vào năm 1840. Marx đồng thời cũng chắp bút viết luận văn tiến sĩ mang tên Sự khác biệt giữa triết học tự nhiên Democritus và Epicurus, và hoàn thành nó vào năm 1841. Đây được mệnh danh là "một kiệt tác táo bạo và nguyên bản, trong đó Marx nỗ lực chứng tỏ rằng thần học phải quy phục trước sự thông thái siêu việt của triết học". Bài luận đã gây khá nhiều tranh cãi, đặc biệt là đối với giới giáo sư bảo thủ của Đại học Berlin. Thay vào đó, Marx quyết định nộp luận văn của mình cho Đại học Jena có tư tưởng phóng khoáng hơn và được trao bằng Tiến sĩ vào tháng 4 năm 1841. Vì Marx và Bauer đều theo chủ nghĩa vô thần, vào tháng 3 năm 1841 hai ông lên kế hoạch sáng lập tạp chí Văn khố vô thần (), nhưng rốt cuộc điều này không được thực hiện. Tháng 7 cùng năm, Marx và Bauer khởi hành từ Berlin đến Bonn. Ở đây, họ gây tai tiếng cho tập thể lớp do say xỉn, cười cợt trong nhà thờ và cưỡi lừa phi nước đại trên đường phố.

Marx đã xem xét theo đuổi một sự nghiệp học thuật thực thụ, song giấc mơ này dường như đã bị ngăn cản bởi sự thù ghét chủ nghĩa tự do cổ điển và trường phái Hegel Trẻ của nhà nước Phổ. ​​Marx chuyển đến sống và làm việc ở Cologne vào năm 1842. Tại đây, ông viết cho tờ báo chính trị cấp tiến Rheinische Zeitung, bày tỏ những quan điểm ban sơ của ông về chủ nghĩa xã hội, đồng thời cũng dần để tâm hơn đến lĩnh vực kinh tế học. Marx chỉ trích các chính phủ cánh hữu ở châu Âu lúc bấy giờ, cũng như các nhân vật dẫn đầu các phong trào tự do và xã hội chủ nghĩa, những người mà ông cho là chẳng làm được tích sự gì hoặc thậm chí còn gây phản tác dụng. Tờ báo thu hút sự chú ý của cơ quan kiểm duyệt trực thuộc chính phủ Phổ. Họ được lệnh rà soát các bản thảo nhằm chắt lọc nội dung kích động bạo loạn trước khi đem ra in ấn, đúng theo lời than phiền của Marx: "Tờ báo của chúng tôi phải được đệ trình cho đám cảnh sát đánh hơi, và nếu mũi chúng ngửi thấy bất cứ mùi gì phi-Kitô hoặc phi-Phổ, thì tờ báo đó sẽ không được phép xuất hiện". Sau khi Rheinische Zeitung xuất bản một bài báo chỉ trích kịch liệt chế độ quân chủ Nga, Sa hoàng Nicholas I đã đề nghị cấm tờ báo, khiến chính phủ Phổ phải thực thi ngay lệnh cấm vào năm 1843.

Tại Paris: 1843–1845

Năm 1843, Marx trở thành đồng chủ biên của tờ báo chính trị tả khuynh cấp tiến Deutsch-Französische Jahrbücher (Niên giám Đức-Pháp) đặt trụ sở tại Paris, vốn được thành lập bởi nhà hoạt động người Đức Arnold Ruge nhằm tập hợp những người có tư tưởng chính trị cấp tiến từ Đức và Pháp. Marx và vợ chuyển đến Paris vào tháng 10 năm 1843 để dễ bề làm việc. Ban đầu họ ở chung với gia đình Ruge tại số 23 Rue Vaneau, song do điều kiện kham khổ, họ đành chuyển ra ngoài sau khi con gái đầu lòng Jenny của họ chào đời vào năm 1844. Trái với mục đích ban đầu của nó, tờ Jahrbücher chỉ thu hút được toàn những người Đức cấp tiến chứ ít có bóng người ngoại quốc. Trên thực tế, cây bút duy nhất trong ban biên tập không phải người Đức là triết gia theo thuyết vô trị người Nga Mikhail Bakunin. Marx đóng góp tổng cộng hai bài tiểu luận cho tờ báo, đó là "Góp phần phê phán triết học pháp quyền của Hêgen" và "Về vấn đề Do Thái". Tác phẩm Vấn đề Do Thái thể hiện niềm tin của Marx rằng giai cấp vô sản là lực lượng cách mạng và đánh dấu xuất phát điểm theo con đường chủ nghĩa cộng sản của ông. Chỉ duy nhất một ấn bản của Jahrbücher được ra mắt, song nó vẫn tương đối thành công, nhờ phần lớn vào chùm thơ châm biếm của Heinrich Heine nhằm vào vua Ludwig I của Bayern. Vụ việc này khiến các bang Đức ra lệnh cấm lưu hành tờ báo và tịch thu các bản sao nhập khẩu của nó (bản thân Ruge cũng từ chối tài trợ cho việc xuất bản các số tiếp theo, điều mà khiến tình bạn giữa ông và Marx tan vỡ). Sau khi tờ Jahrbücher phá sản, Marx soạn cho tờ báo tiếng Đức theo tư tưởng cấp tiến duy nhất còn lại lọt qua lưới kiểm duyệt, đó là tờ Vorwärts! (Tiến lên!). Tờ này đặt trụ sở tại Paris và có kết nối với Liên đoàn Công bình (), một hội kín theo chủ nghĩa xã hội không tưởng của giai cấp công nhân và nghệ nhân địa phương. Marx dự một số cuộc họp của hội này nhưng không gia nhập. Trong thời gian này, ông cũng hoàn thiện quan điểm xã hội chủ nghĩa của mình dựa trên những sáng kiến triết học của Hegel và chủ nghĩa duy vật biện chứng của Feuerbach, và đồng thời cũng phê phán gay gắt những người theo chủ nghĩa tự do và những người theo chủ nghĩa xã hội khác đang hoạt động ở châu Âu.

thumb|upright|Marx lần đầu gặp [[Friedrich Engels vào cuối năm 1842. Engels về sau trở thành bằng hữu và cộng sự trung thành suốt đời của Marx.]]

Ngày 28 tháng 8 năm 1844, Marx gặp nhà xã hội chủ nghĩa người Đức Friedrich Engels tại quán Café de la Régence, đánh dấu khởi đầu của một tình bạn khăng khít suốt đời. Tại đây, Engels đã đưa Marx đọc tác phẩm Tình cảnh giai cấp công nhân Anh do chính ông viết và mới được xuất bản ít lâu. Ông thuyết phục Marx rằng giai cấp công nhân chính là tác nhân lẫn công cụ của cuộc cách mạng cuối cùng trong lịch sử. Mặc dù phê phán Bauer, Marx ngày càng chịu ảnh hưởng tư tưởng của những người theo phái Hegel trẻ, bao gồm Max Stirner và Ludwig Feuerbach, song Marx và Engels rốt cuộc cũng cáo chung với chủ nghĩa duy vật kiểu Feuerbach. tìm tòi và nghiền ngẫm về các tác giả kinh tế chính trị (như Adam Smith, David Ricardo, James Mill, v.v.), các nhà xã hội chủ nghĩa không tưởng của Pháp (đặc biệt là Henri de Saint Simon và Charles Fourier) và lịch sử Pháp. Marx sẽ bám theo sự nghiệp nghiên cứu và phê bình kinh tế chính trị suốt quãng đời còn lại của ông, và cũng trong quá trình đó, ông đã cho ra đời công trình kinh tế chính trị đồ sộ và nổi bật nhấtbộ ba tập sách Das Kapital. Chủ nghĩa Marx được xây dựng dựa trên ba cột trụ lớn, đó là: phép biện chứng của Hegel, chủ nghĩa xã hội không tưởng Pháp và kinh tế chính trị Anh. Điều này nghĩa là, kết hợp với những nghiên cứu trước đó của Marx về phép biện chứng, ba yếu tố chính yếu cấu thành "chủ nghĩa Marx" hầu như đã được ông chắp ghép đâu vào đấy kể từ mùa thu năm 1844.

Khung sườn của "chủ nghĩa Marx" chắc hẳn đã thành hình trong tâm trí ông vào cuối năm 1844. Thật vậy, nhiều đặc điểm trong thế giới quan Mác-xít đã được mường tượng khá chi tiết, song Marx vẫn cần thảo các ý tưởng đó xuống giấy để làm sáng tỏ thêm lối phê phán kinh tế chính trị chỉ mới nằm trong suy nghĩ. Theo đó, Marx đã chắp bút viết các bản thảo kinh tế và triết học để bàn luận về nhiều chủ đề và trình bày kĩ càng khái niệm tha hóa lao động. trong đó nổi bật nhất với luận cương thứ 11, phát biểu rằng "các nhà triết học tự cổ chí kim lý giải thế giới bằng nhiều cách khác nhau, song mấu chốt là làm cách nào để cải tạo thế giới ấy". Qua đó Marx đã bày tỏ sự phê phán của ông về chủ nghĩa duy vật (còn quá trầm tư chiêm nghiệm), về chủ nghĩa duy tâm (đề cao lý thuyết hơn thực tiễn), và về triết học tổng thể (đề cao thực tại trừu tượng hơn thế giới vật chất). Mary Burns, một người bạn lâu năm của Engels, cũng rời Manchester để đồng hành cùng ông sang Bruxelles.

Giữa tháng 7 năm 1845, Marx và Engels sang Anh thăm các nhà lãnh đạo phong trào hiến chương của giai cấp công nhân địa phương. Đây là chuyến đi đầu tiên của Marx đến Anh quốc. Engels đóng vai trò là hướng dẫn viên lý tưởng cho chuyến công du này bởi lẽ ông đã từng dành hai năm sinh sống ở Manchester, từ tháng 11 năm 1842 đến tháng 8 năm 1844. Trong thời gian đó, Engels không chỉ học được tiếng Anh mà còn tạo lập thêm nhiều mối quan hệ với các nhà lãnh đạo của phòng trào hiến chương. Ngoài ra, Engels khi trước cũng từng làm phóng viên cho một số tờ báo tiếng Anh theo chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa hiến chương. Về phần Marx, ông đã tranh thủ dịp này để khảo cứu tư liệu kinh tế có sẵn trong các thư viện ở London và Manchester.

Hợp tác với Engels, Marx lên kế hoạch viết tác phẩm Hệ tư tưởng Đức luận về chủ nghĩa duy vật lịch sử. Trong đó, Marx đã tuyên bố cáo chung với triết học của Ludwig Feuerbach, Bruno Bauer, Max Stirner nói riêng và phái Hegel Trẻ nói chung, cũng như từ khước triết học của Karl Grün và các "nhà xã hội chủ nghĩa chân chính" vẫn níu giữ "chủ nghĩa duy tâm". Qua đó, Marx và Engels cuối cùng đã hoàn thiện triết lý của riêng mình, coi rằng chủ nghĩa duy vật như là thế lực duy nhất thúc đẩy tiến trình lịch sử. Hệ tư tưởng Đức được viết theo phong cách hài hước với dụng ý châm biếm, song điều này không qua mắt được các cơ quan kiểm duyệt. Giống các công trình ban sớm của Marx, Hệ tư tưởng Đức chỉ được xuất bản sau khi ông mất, cụ thể là vào năm 1932.

Sau khi hoàn thành cuốn Hệ tư tưởng Đức, Marx muốn viết một tác phẩm làm rõ lập trường của ông về "lý thuyết và chiến thuật" của một "phong trào cách mạng vô sản" khả thi đứng trên quan điểm của một triết học "duy vật khoa học" thực thụ, cũng là nhằm để phân định chủ nghĩa xã hội không tưởng của những triết gia đời trước với chủ nghĩa xã hội khoa học của Marx. Để bản thảo đây có thể lọt lưới kiểm duyệt, Marx đã đặt nhan đề cho nó là Sự khốn cùng của triết học (1847), quảng bá nó là một phản ứng đối với "triết học tiểu-tư sản" của nhà xã hội chủ nghĩa vô chính phủ người Pháp Pierre-Joseph Proudhon, như được thể hiện trong cuốn Triết học về sự khốn cùng (1840) của ông ta.

thumb|Marx chụp cùng những người con gái và người bạn Engels

Những cuốn sách trên đã đặt nền móng cho danh tác nổi bật nhất của Marx và Engels, cuốn pamfơlê chính trị mà ngày nay thường được biết đến với tên gọi Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản. Marx, hồi năm 1846 tại Bruxelles, vẫn còn giữ liên lạc với Liên đoàn Công bình khi trước. Ông đánh giá rằng tổ chức đây đóng vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy giai cấp công nhân châu Âu hướng tới phong trào quần chúng, điều mà tất yếu dẫn đến một cuộc cách mạng của giai cấp công nhân. Tuy nhiên để đạt được mục đích ấy, Liên đoàn phải chấm dứt chủ trương hoạt động "bí mật" hoặc "ngấm ngầm" của họ mà phải mạnh dạn hoạt động công khai như một chính đảng thực sự. Các thành viên của Liên đoàn rốt cuộc bị thuyết phục bởi quan điểm của Marx; vào tháng 6 năm 1847, Liên đoàn Công bình được tái cơ cấu thành một đảng chính trị công khai đấu tranh vì lợi ích của công nhân lao động, đổi tên thành Liên đoàn Cộng sản. Cả Marx và Engels đều tham gia vào việc vạch ra cương lĩnh và nguyên tắc của tổ chức mới này.

Tại Köln: 1848–1849

Tạm thời ổn định cuộc sống ở Paris, Marx chuyển trụ sở điều hành của Liên đoàn Cộng sản lên thành phố và sáng lập Hội Công nhân Đức cùng nhiều nhà xã hội người Đức tại đó. Hi vọng một ngày sẽ được chứng kiến cuộc cách mạng lan khắp nước Đức, năm 1848, Marx quay trở lại Köln, nơi ông tuyên truyền bản thông cáo Yêu sách của Đảng Cộng sản tại Đức. Tuy nhiên, ở đây Marx chỉ đề cập đến bốn trong số mười điểm nêu ra trong Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản, bởi lẽ ông tin rằng ở Đức thời bấy giờ, giai cấp tư sản phải lật đổ chế độ quân chủ phong kiến ​​và tầng lớp quý tộc trước đã, rồi giai cấp vô sản mới có thể lật độ giai cấp tư sản. Mùng 1 tháng 6 cùng năm, Marx bắt đầu cho xuất bản tờ nhật báo Neue Rheinische Zeitung bằng khoản tiền ông mới được thừa kế từ người cha quá cố.

Nghiên cứu về toán học

Trong lời giới thiệu bản thân năm 1885 của cuốn "Chống Duhrinh", Engels có viết: "Nhưng từ khi Karl Marx qua đời, thời giờ của tôi phải ngừng công việc nghiên cứu của tôi lại. Lúc bấy giờ tôi đành tạm bằng lòng với những phác thảo đã đưa ra trong sách này và đợi sau này có dịp thì sẽ tập hợp và công bố những kết quả đã thu nhận được, có thể là cùng một lúc với những bản thảo toán học rất quan trọng do Marx để lại."

Cuốn tuyển tập _[https://www.marxists.org/archive/marx/works/download/Marx_Mathematical_Manuscripts_1881.pdf Mathematical manuscripts of Karl Marx]_ (tạm dịch: Các công trình Toán học của Karl Marx) gồm hầu hết các tìm hiểu của Marx về nền tảng của phép tính vi tích phân được viết khoảng những năm 1873–1883. Một phiên bản Tiếng Nga được Sofya Yanovskaya dịch và biên tập lại cuối cùng cũng được xuất bản năm 1968, và sao đó bản dịch sang tiếng Anh (dài hơn 300 trang) được xuất bản vào năm 1983. Các học giả cho rằng dường như Marx muốn sử dụng công cụ của phép tính tích phân để nghiên cứu định lượng về kinh tế sâu sắc hơn.

Glivenko cho rằng cách tiếp cận của Marx về phép tính vi tích phân tương tự như cách của Hadamard trong cuốn Cours d'Analyse xuất bản 50 năm sau đó. Kennedy cũng đã biện giảng về cách hiểu của Marx về phép vi phân như một quá trình biện chứng.

Đời tư

Gia đình

Marx và von Westphalen có với nhau 7 đứa con, song do do điều kiện sống kham khổ khi ở London, chỉ có 3 người con sống sót đến tuổi trưởng thành. Những người con của họ gồm: Jenny Caroline (cưới Longuet; 1844–1883); Jenny Laura (cưới Lafargue; 1845–1911); Edgar (1847–1855); Henry Edward Guy ("Guido"; 1849–1850); Jenny Eveline Frances ("Franziska"; 1851–1852); Jenny Julia Eleanor (1855–1898) và một đứa con mất ở cữ trước khi được đặt tên (tháng 7 năm 1857). Con rể Marx, Paul Lafargue, miêu tả ông là người cha hết mực yêu thương con cái. Năm 1962, rộ lên tin đồn cho rằng Marx có một người con trai ngoài giá thú tên là Freddy với người hầu nữ Helene Demuth,

Tư tưởng

Các ảnh hưởng đến Marx

Tư tưởng của Marx chịu ảnh hưởng từ lối suy nghĩ của nhiều nhà hiền triết khác nhau, chẳng hạn:

  • Triết học của Georg Wilhelm Friedrich Hegel
  • Tư tưởng xã hội chủ nghĩa ở Pháp, cũng như triết học duy vật của ông. Sử quan của Marx, gọi là chủ nghĩa duy vật lịch sử, bắt nguồn trực tiếp từ khẳng định của Hegel khi cho rằng người ta phải nhìn nhận thực tại (cũng như lịch sử) theo mặt biện chứng.

Triết lý và quan niệm về xã hội

Marx thường luận chiến với các nhà tư tưởng khác thông qua các bài phê bình, vì lẽ ấy mà ông được mệnh danh là "vĩ nhân đầu tiên sử dụng phương pháp phê phán trong khoa học xã hội". Ngoài ra, sự đàn áp chính trị và các vấn đề kinh tế của nhiều nhà nước Cộng sản lịch sử đã làm giảm sút khá nhiều danh tiếng của Marx ở phương Tây, đặc biệt sau sự sụp đổ của Bức tường Berlin và của Liên bang Xô viết. John Maynard Keynes coi chủ nghĩa Marx là một học thuyết phi logic và gọi cuốn Das Kapital là "một cuốn sách lỗi thời mà tôi biết không chỉ có nhiều lỗi về mặt khoa học mà còn không được quan tâm hay có thể áp dụng vào thế giới hiện đại".

Tuy sự tàn phá kinh tế của cuộc Đại Giảm phát trong thập niên 1930 đã làm gia tăng lời kêu gọi tới chủ nghĩa Marx ở các quốc gia phát triển, sự phục hồi kinh tế sau đó và việc chính phủ áp dụng các biện pháp cứu vãn đã làm giảm sút tầm ảnh hưởng của nó. Trái lại, chủ nghĩa Marx trở nên đặc biệt có ảnh hưởng tại các xã hội phong kiến và chưa phát triển về công nghiệp như nước Nga thời Sa hoàng trước năm 1917, nơi cuộc Cách mạng Bolshevik đã chứng tỏ là một sự thành công.

Tới đầu thế kỷ XXI, những bài học, chính sách phúc lợi xã hội và quyền của người lao động mà các nước thuộc hệ thống cộng sản chủ nghĩa để lại trong việc xây dựng một xã hội mới công bằng, tiến bộ hơn đã được các nhà nước hiện đại tiếp thu. Một số biện pháp kinh tế – xã hội mà chủ nghĩa Marx đề ra đã được áp dụng ở khắp mọi nơi, ngay cả ở các nước phương Tây vốn từng là đối thủ. J. Arch Getty nhận xét: :Công cuộc cải tạo quyền lao động ở phương Tây trong thế kỷ qua được thúc đẩy bởi một phong trào lao động quốc tế, được bảo vệ và hỗ trợ bởi Liên Xô. Chính sách New Deal của Tổng thống Mỹ Franklin Roosevelt có một phần được sao chép từ chính sách của Liên Xô. Các mục tiêu xã hội phổ biến ngày hôm nay, bao gồm các quyền của phụ nữ và bình đẳng chủng tộc, là chính sách của các Đảng Cộng sản từ rất lâu trước khi được chính phủ Mỹ thi hành một cách nghiêm túc. Những người Cộng sản đầu tiên đã đi đến Nam Mỹ và bắt đầu tổ chức những người da trắng, người Mỹ gốc Phi và người nghèo xung quanh vấn đề đòi hỏi công bằng xã hội. Trên trường quốc tế, Liên Xô cung cấp hỗ trợ cho Nelson Mandela chống lại chế độ áp bức chủng tộc và những cải cách khác. Chủ nghĩa Cộng sản tạo ra sự cạnh tranh khó khăn cho các nước phương Tây, và người ta nghi ngờ rằng những cải cách xã hội ở phương Tây đã không xảy ra nếu nước Nga Xô viết không tồn tại. Trớ trêu thay, sự tồn tại của Liên Xô đã giúp phương Tây tư bản tự cải cách và tránh khỏi những cuộc cách mạng đẫm máu của phương Đông. Chủ nghĩa cộng sản trong thế kỷ XX không phải là ảo tưởng thoáng qua; di sản của nó đang hiện diện ở khắp mọi nơi.

Hệ thống

Những người khác chỉ trích Marx từ khía cạnh triết lý khoa học. Karl Popper chỉ trích các lý thuyết của Marx là không có tính khả thi, điều mà ông tin là xuất phát từ một số khía cạnh lý luận lịch sử và chính trị xã hội phi khoa học của Marx; tiêu chuẩn tính khả thi của Popper, dù rất có ảnh hưởng, cũng đã bị chứng minh có thể gây tranh cãi. Popper cũng chỉ trích Marx về 'chủ nghĩa lịch sử'; nghĩa là, việc giả định rằng sự phát triển của những xã hội loài người tuân theo một bộ quy luật cố định và có thể thấy trước.

Murray Rothbard cho rằng "...Marx không bao giờ tìm cách đưa ra một câu trả lời. Quả thực ông không thể, bởi nếu ông gắn tình trạng kỹ thuật hay sự thay đổi công nghệ với những hành động của con người, của con người cá nhân, toàn bộ hệ thống của ông sẽ sụp đổ. Với ý thức của loài người, và ý thức cá nhân với điều đó, thì khi ấy mới xác định phương thức sản xuất chứ không phải cách thức khác theo hình tròn." Tuy nhiên, bài viết Lời nói đầu cho một sự đóng góp vào việc phê bình Kinh tế chính trị nổi tiếng của Marx phát biểu rằng "Trong sự sản xuất xã hội của sự tồn tại của nó, con người không tránh được phải tham gia vào những quanh hệ xác định, phụ thuộc vào ý chí của họ, nói rõ ra là những quan hệ sản xuất thích ứng với một giai đoạn cho trước trong sự phát triển các lực lượng sản xuất vật chất của họ." Marx đã gắn một cách rõ ràng các lực lượng sản xuất và sự phát triển của chúng với những hành động của loài người, nhưng nhấn mạnh bản chất xã hội của sự phát triển này, dựa trên nhu cầu, nhu cầu phải duy trì sự tồn tại của con người, vì thế phát triển "độc lập của ý chí của họ", như các cá nhân, và vì thế ảnh hưởng ngược lại tới cá nhân theo những cách phản ứng các điều kiện xã hội cho trước.

Từ cánh tả

Nhà triết học cánh tả Peter Singer, trong cuốn sách Một người Darwin cánh Tả, đã đặt nghi vấn quan điểm Marxist về bản chất con người là rất dễ thay đổi. Nhà khoa học Lionel Tiger cũng đã trình bày lý lẽ chống lại quan điểm Marxist về bản chất con người. Lionel Tiger cho rằng những tuyên bố Marxist đã không thể loại bỏ và trao quyền lực cho giai cấp vô sản bởi chủ nghĩa xã hội Marxist không nhận ra rằng bởi con người đã được thừa hưởng khuynh hướng cạnh tranh và chuyên chế từ những tổ tiên thời nguyên thủy của mình trong một hệ thống "kiểm tra và cân bằng" và những hạn chế với việc cá nhân giành lấy quyền lực và tài sản là cần thiết để duy trì một xã hội xã hội chủ nghĩa quân bình.

Ngoài ra, những nhà tư tưởng cánh tả theo tư tưởng vô chính phủ như Mikhail Aleksandrovich Bakunin tại Nga, người có chủ trương "xóa bỏ giai cấp, đưa mọi của cải vào làm của chung, thủ tiêu Nhà nước và mọi quyền lực" – đã chỉ trích Marx về những thành phần chuyên chính trong triết lý của ông và miêu tả ông như là một kẻ "thân chính phủ Bismarck" bị ám ảnh với việc nắm quyền lực quốc gia.

Marx và chống Semit

Một số nhà bình luận, như Bernard Lewis, Edward H. Flannery và Hyam Maccoby, đã coi Về Vấn đề Do Thái của Marx như một tác phẩm chống Semit, và xác định những tính chất chống Semit trong các tác phẩm đã xuất bản và tác phẩm riêng của ông. Theo họ, Marx coi người Do Thái như một hiện thân của chủ nghĩa tư bản và là những người tạo ra các tính chất ma quỷ của nó. Theo quan điểm của họ, sự đánh đồng chủ nghĩa Do Thái với chủ nghĩa tư bản của Marx, cùng với những tuyên bố của ông về người Do Thái, đã gây ảnh hưởng mạnh mẽ tới các phong trào xã hội chủ nghĩa và định hình nên thái độ và chính sách của họ với người Do Thái. Theo những ý kiến của các học giả này, tác phẩm Về Vấn đề Do Thái của Marx đã ảnh hưởng tới chủ nghĩa Phát xít, cũng như các tình cảm chống Semit của Liên bang Xô viết và người Ả Rập. Albert Lindemann và Hyam Maccoby đã cho rằng Marx cảm thấy bối rối vì lý lịch Do Thái của mình.

Những tác gia trên thường trích dẫn đoạn sau trong Về Vấn đề Do Thái để làm cơ sở cho lý luận của mình:

Tuy nhiên, Giáo sư khoa học chính trị Iain Hamphsher-Monk cho rằng các chỉ trích trên là từ những người chưa đọc kỹ tác phẩm của Marx. Ông đã viết trong tác phẩm của mình: "Tác phẩm này [Về Vấn đề Do Thái] đã được nêu ra như một bằng chứng về cái được cho là tình cảm chống Semit của Marx, nhưng chỉ việc đọc nó một cách hời hợt mới có thể dẫn tới một sự giải thích như vậy." Tương tự, McLellan và Francis Wheen cho rằng các độc giả phải hiểu Về Vấn đề Do Thái trong bối cảnh các cuộc tranh cãi của Marx với Bruno Bauer, tác giả của Vấn đề Do Thái, về sự giải phóng Do Thái ở Đức. Francis Wheen nói: Những chỉ trích đó, ai coi nó như một tiền thân của 'Mein Kampf', bỏ sót một điều, điểm quan trọng: bỏ qua sự vụng về trong cách viết và sự thô thiển của bản in, tác phẩm trên thực tế được viết như một sự bảo vệ dành cho người Do Thái. Đó là sự đáp lại với Bruno Bauer, người đã cho rằng người Do Thái không nên được trao đầy đủ các quyền dân sự và tự do trừ khi họ được rửa tội để trở thành các tín đồ Thiên chúa.

Theo McLellan, Marx đã sử dụng từ Judentum theo cách thông tục, với nghĩa thương mại, cho rằng người Đức phải chịu đựng, và phải được giải phóng khỏi, chủ nghĩa tư bản. McLellan kết luận rằng độc giả phải hiểu nửa sau của cuốn tiểu luận như một sự chơi chữ mở rộng làm thiệt hại cho Bauer.

Jonathan Sacks, Chief Rabbi ở Anh, coi việc áp dụng thuật ngữ "chủ nghĩa chống Semit" cho Marx như một sự sai lầm — bởi Marx khi viết Về Vấn đề Do Thái, rõ ràng mọi nhà triết học lớn đều thể hiện các khuynh hướng chống Semit, nhưng từ "chủ nghĩa chống Semit" vẫn chưa được đặt ra, bỏ mặc phát triển một thành phần chủng tộc, và ít sự hiểu biết tồn tại về tầm mức của thiên kiến của người châu Âu chống người Do Thái. Vì thế Marx chỉ đơn giản thể hiện tư tưởng chung của thời kỳ của mình. -->

👁️ 4 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Karl Heinrich Marx** (phiên âm tiếng Việt: **Các Mác**; 5 tháng 5 năm 1818 – 14 tháng 3 năm 1883) là một nhà triết học, kinh tế học, sử học, xã hội học, lý luận
**2807 Karl Marx** là một tiểu hành tinh vành đai chính, được phát hiện bởi Lyudmila Ivanovna Chernykh ở 1969. Nó được đặt theo tên nhà triết học người Đức Karl Marx.
**Chủ nghĩa Marx** hay **Mác-xít** (phiên âm từ Marxist) là hệ thống học thuyết triết học, lịch sử và kinh tế chính trị dựa trên các tác phẩm của Karl Marx (1818 - 1883) và
**_Why Marx Was Right_** (tạm dịch: _Tại sao Marx đúng_) là một cuốn sách năm 2011 của học giả người Anh Terry Eagleton về nhà triết học thế kỷ 19 Karl Marx và các trường
**Bezirk Karl-Marx-Stadt**, cũng gọi là **Bezirk Chemnitz**, là một tỉnh (_Bezirk_) của Cộng hòa Dân chủ Đức. Trụ sở và thành phố chính là Karl-Marx-Stadt, được đổi tên thành Chemnitz sau khi tái thống nhất
thumb|[[Karl Marx năm 1861]] Vị trí chính xác của các bản thảo sơ kỳ của Karl Marx trong hệ thống triết học do ông xây dựng là một vấn đề vẫn còn gây nhiều tranh
nhỏ|phải|Bộ _C.Mác và Ph. Ăng-ghen toàn tập_ (_Marx-Engels-Gesamtausgabe_) gồm 2 cuốn đóng bìa **Marx và Engels toàn tập** (_Marx/Engels Collected Works_/_Marx-Engels-Gesamtausgabe_/_MEGA_, tên tiếng Việt: **C.Mác và Ph. Ăng-ghen toàn tập**) là bộ sưu tập sách
Hành Trình Tri Thức Của Karl Marx Marx là người trí thức, nhấn mạnh vào tầm quan trọng của tư tưởng, lý thuyết gắn liền với thực tiễn tranh đấu, nhưng lại không coi tư
Hành Trình Tri Thức Của Karl Marx Marx là người trí thức, nhấn mạnh vào tầm quan trọng của tư tưởng, lý thuyết gắn liền với thực tiễn tranh đấu, nhưng lại không coi tư
Thời niên thiếu , nhà kinh tế, triết học, kinh tế - chính trị nổi tiếng nổi tiếng người Đức Karl Marx luôn mơ ước xây dựng nên một thế giới bình đẳng và hạnh
Thời niên thiếu , nhà kinh tế, triết học, kinh tế - chính trị nổi tiếng nổi tiếng người Đức Karl Marx luôn mơ ước xây dựng nên một thế giới bình đẳng và hạnh
Sách Kiến thức - Bộ 4 cuốn - Danh nhân thế giới - Wilhelm Roentgen,J.k.Rowling,Karl Marx,Winston Churchill Trẻ nhỏ cũng giống như một mầm cây. Các em lớn lên trở thành những cây trái xanh
Karl Marx, người sáng lập ra học thuyết kinh tế chính trị Marx - Lenin **Kinh tế chính trị Marx-Lenin** hay **kinh tế chính trị học Marx-Lenin** là một lý thuyết về kinh tế chính
**Chủ nghĩa Marx–Lenin** hay **chủ nghĩa Marx–Engels–Lenin** là thuật ngữ chính trị để chỉ học thuyết do Karl Marx và Friedrich Engels sáng lập và được Vladimir Ilyich Lenin phát triển kế thừa, được coi
nhỏ|phải|Triết gia [[Friedrich Engels|F. Engels với các tác phẩm của mình đã đặt nền tảng cho Lý luận của Chủ nghĩa Marx – Lenin về nhà nước.]] **Học thuyết về Nhà nước của Chủ nghĩa
**_Khủng hoảng kinh tế_**, là sự suy giảm các hoạt động kinh tế kéo dài và trầm trọng hơn cả **_suy thoái_** trong chu kỳ kinh tế. Một định nghĩa khác với cách hiểu ngày
[[Eduard Bernstein (1850-1932), người khởi xướng việc xét lại học thuyết Marx.]] Trong chủ nghĩa Marx, từ **chủ nghĩa xét lại** được dùng để nói tới những ý tưởng, nguyên tắc hay lý thuyết khác
**Chủ nghĩa Marx phương Tây** là một dòng Marxist nổi lên ở Tây Âu và Trung Âu sau cuộc cách mạng Tháng Mười năm 1917 và sự lên ngôi của chủ nghĩa Lenin ở Nga.
phải **Nhập môn Marx** (tiếng Tây Ban Nha: _Marx para principiantes_) là một cuốn sách của Rius dưới hình thức truyện tranh hài giới thiệu về cuộc đời và hành trình tư tưởng của Karl
thumb|upright|right|Chân dung Jenny von Westphalen những năm 1830 **Johanna Bertha Julie Jenny von Westphalen** (12 tháng 2 năm 1814 - 2 tháng 12 năm 1881) là vợ của nhà triết học, nhà cách mạng người
**Eduard Bernstein** (; phiên âm tiếng Việt: **Bécxtanh**; 6 tháng 1 năm 1850 – 18 tháng 12 năm 1932) là một chính trị gia, chính khách, nhà lý luận, thành viên của đảng SPD và
**Karl Johann Kautsky ** (16 tháng 10 năm 1854 - 17 tháng 10 năm 1938) là một triết gia Séc-Đức, nhà báo, và lý thuyết gia Mác-xít. Kautsky được công nhận là một trong những
_Phần này phê phán Chủ nghĩa Marx, một nhánh của Chủ nghĩa Xã hội. Về phê phán Chủ nghĩa xã hội nói chung, có thể xem Phê phán Chủ nghĩa Xã hội._ **Phê phán chủ
Tri Thức Kinh Điển Bằng Tranh - Tư Bản Các bạn nhỏ đã bao giờ tìm hiểu về Tư bản cũng như tư tưởng mà Karl Marx và Friedrich Engels theo đuổi chưa Có thể
**Mary Burns** (29 tháng 9 năm 1821 – 7 tháng 2 năm 1863) là một nữ công nhân người Ailen. Bà là vợ không kết hôn chính thức của Friedrich Engels. Mary Burns là con
**Friedrich Engels** (; phiên âm tiếng Việt: **Phriđrich Ăngghen**, 28 tháng 11 năm 1820 – 5 tháng 8 năm 1895) là một nhà tư tưởng, nhà giáo dục, nhà cách mạng, nhà lý luận chính
thumb|Reinhard Marx (2016) **Reinhard Marx** (sinh ngày 21 tháng 9 năm 1953) là một hồng y công giáo người Đức và là Nguyên Chủ tịch Hội đồng Giám mục Đức. Ông là Tổng giám mục
**Chủ nghĩa Marx trung tâm** () là một khuynh hướng Xã hội chủ nghĩa cánh Tả trong phong trào công nhân theo chủ nghĩa Marx, mà cố gắng hòa giải chính trị Cách mạng và
Phân phối tài sản là một trong những vấn đề gây nhiều tranh cãi và được thảo luận rộng rãi nhất thời nay. Nhưng thật ra, ta biết gì về quá trình tiến hóa của
Phân phối tài sản là một trong những vấn đề gây nhiều tranh cãi và được thảo luận rộng rãi nhất thời nay. Nhưng thật ra, ta biết gì về quá trình tiến hóa của
chúng ta đều biết dân tộc do thái là một dân tộc rất giàu có về tài năng và trí tuệ . Họ gặt hái được rất nhiều thành công trong nhiều lỉnh vực trí
**Markus Johannes "Mischa" Wolf** sinh ngày 19/1/1923 tại Hechingen, Tây Nam nước Đức, mất năm 2006, phục vụ ngành gián điệp Đông Đức 39 năm với 34 năm làm Giám đốc cơ quan tình báo
**Chủ nghĩa nhân bản Marxist** là một trường phái tư tưởng chính trị bắt nguồn từ sự diễn giải các tác phẩm của Karl Marx. Trường phái này tìm lời giải đáp cho những câu
nhỏ|phải|Hoa hồng đỏ, biểu trưng của phong trào dân chủ xã hội. **Dân chủ xã hội** là một hệ tư tưởng kinh tế, triết lý chính trị xã hội của chủ nghĩa xã hội ủng
thumb|Ernest Mandel **Ernest Mandel** (sinh ngày 5 tháng 4 năm 1923 tại Frankfurt am Main, mất ngày 20 tháng 7 năm 1995 tại Bruxelles) là một nhà kinh tế học, lý thuyết gia theo Chủ
**Karl Patterson Schmidt** (19 tháng 6 năm 1890 – 26 tháng 9 năm 1957) là một nhà bò sát-lưỡng cư học người Mỹ. ## Thân thế Schmidt là con trai của George W. Schmidt và
phải|nhỏ|Ấn bản đầu tiên bằng tiếng Đức của Tuyên ngôn Đảng cộng sản **_Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản_** (tiếng Đức: _Das Manifest der Kommunistischen Partei_; tiếng Anh: _The Communist Manifesto_), là một tài liệu
**_Tư bản - Phê phán khoa kinh tế chính trị_** (tựa đề nguyên bản bằng tiếng Đức **_Das Kapital - Kritik der politischen Oekonomie_**) hay còn được dịch là **_Tư Bản Luận_** là tác phẩm
thumb|Quốc huy của Liên Xô có khẩu hiệu được trang trí trên những dải ruy-băng trong 15 ngôn ngữ được nói trong liên bang **_"Vô sản toàn thế giới, đoàn kết lại!"_** là một trong
**Giá trị sử dụng** của một vật phẩm là bao gồm các tính chất có ích, công dụng của vật thể đó có thể thoả mãn một nhu cầu nào đó cho việc sản xuất
**_Lao động thặng dư_** là một khái niệm được sử dụng bởi Karl Marx trong bài phê bình kinh tế chính trị của ông. Nó tồn tại khi mà khối lượng lao động được thực
**Bóc lột lao động** là hành động sử dụng quyền lực để trích xuất một cách có hệ thống nhiều giá trị từ người lao động hơn là những gì được trao cho họ. Đó
**Lý luận sức sản xuất** (_tiếng Anh_: **Theory of productive forces**) đôi khi được gọi là quyết định luận sức sản xuất (**productive forces determinism**) là một biến thể phổ biến rộng rãi của duy
"**Làm theo năng lực, hưởng theo nhu cầu**" là một khẩu hiệu được phổ biến bởi Karl Marx trong văn kiện _Phê phán Cương lĩnh Gotha_ năm 1875 của ông. Đây là nguyên tắc cho
**Phương thức sản xuất** (tiếng Đức: _Produktionsweise_), một khái niệm trong kinh tế chính trị và học thuyết duy vật lịch sử của chủ nghĩa Marx, là cách thức con người thực hiện quá trình
nhỏ|Chủ nghĩa xã hội khoa học **Chủ nghĩa xã hội khoa học** là thuật ngữ được Friedrich Engels nêu ra để mô tả các lý thuyết về kinh tế-chính trị-xã hội do Karl Marx và
**Iosif Vissarionovich Stalin**, hay **Joseph Stalin** (tên khai sinh: **Ioseb Besarionis dze Jughashvili**; – 5 tháng 3 năm 1953), là một nhà cách mạng, nhà chính trị và lý luận chính trị người Gruzia. Ông
**Siêu lợi nhuận** hay còn được gọi là **lợi nhuận siêu ngạch** hay là **giá trị thặng dư siêu ngạch** chính là phần giá trị thặng dư (lợi nhuận) thu được trong một chu trình
Engels, người đã xác định vai trò lịch sử của giai cấp công nhân **Giai cấp công nhân** theo Karl Marx là giai cấp của những người công nhân và người lao động phải bán
Những người tử vì đạo trong thế kỷ 20 (Tu viện Westminster), từ trái sang phải: [[Mẹ Elizabeth của Nga; Mục sư Martin Luther King, Tổng giám mục Oscar Romero; Mục sư Dietrich Bonhoeffer]] **Thần