✨Từ Hi Thái hậu
Hiếu Khâm Hiển Hoàng hậu; (chữ Hán: 孝欽顯皇后; ; ; trước đây La Mã hóa là Từ Hi Thái hậu T'zu-hsi; 29 tháng 11 năm 1835 – 15 tháng 11 năm 1908), thường được gọi là Từ Hi Hoàng thái hậu (慈禧皇太后), Từ Hi Thái hậu (慈禧太后), Tây Thái hậu (西太后) hoặc Từ Hi Thái hoàng thái hậu (慈禧太皇太后), là đệ nhất sủng phi của Thanh Văn Tông Hàm Phong Đế, sinh mẫu của Thanh Mục Tông Đồng Trị Đế, dưỡng mẫu của Thanh Đức Tông Quang Tự Đế và là tổ mẫu trên danh nghĩa của Tuyên Thống Đế. Bà trải qua 5 đời Hoàng đế từ Thanh Tuyên Tông Đạo Quang Đế đến Tuyên Thống Đế và trở thành Hoàng thái hậu nhiếp chính của triều đình nhà Thanh cùng với Từ An Thái hậu khi Đồng Trị Đế lên ngôi. Sau khi Đồng Trị Đế qua đời, Thanh Đức Tông Quang Tự Đế lên ngôi, bà lại tiếp tục nhiếp chính. Sau khi Quang Tự Đế qua đời, bà trở thành Thái hoàng thái hậu dưới thời Tuyên Thống Đế. Vào năm 1861, Hàm Phong Đế mất, di chiếu cho Cố mệnh Bát đại thần cùng nhiếp chính cho vua mới là Đồng Trị Đế còn nhỏ tuổi. Từ Hi Thái hậu đã cùng Từ An Thái hậu - dưới sự giúp đỡ của Cung Thân vương Dịch Hân - đã tạo nên chính biến phế trừ cả Tám đại thần nhằm đạt được quyền lợi chính trị trước mâu thuẫn gay gắt với Túc Thuận, người đứng đầu Tám vị đại thần, sử gọi là Chính biến Tân Dậu. Sau sự kiện này , Từ Hi Thái hậu và Từ An Thái hậu đồng nhiếp chính cho Tân Hoàng đế, trở thành 2 vị Hoàng thái hậu duy nhất của triều đại Thanh thực hiện [Thùy Liêm Thính Chính; 垂簾聽政].
Theo cách hiểu thông thường, Từ Hi Thái hậu đã nắm đại quyền triều đại nhà Thanh trong vòng 47 năm, từ năm 1861 tới tận khi qua đời. Nhưng thực tế, bà chỉ có nắm toàn quyền ở hai giai đoạn: từ năm 1881 sau cái chết của Từ An Thái hậu, cho đến năm 1889 khi Quang Tự Đế thân chính; và từ năm 1898 đến khi qua đời năm 1908, sau sự kiện Bách nhật Duy tân. Tuy vào năm 1889, Quang Tự Đế tuyên bố thân chính, nhưng Từ Hi Thái hậu vẫn nắm thế lực đằng sau, gọi là [Huấn chính; 訓政]. Như vậy, bà nắm quyền thực tế tầm 27 năm.
Sự kiện Bách nhật Duy tân của Quang Tự, là một sự kiện phát sinh do mâu thuẫn giữa Hoàng đế và Từ Hi Thái hậu trong vấn đề chính trị, và một trong những dự định của Quang Tự Đế là mật mưu cùng với Khang Hữu Vi để giam lỏng cùng ám sát Thái hậu, từ đó nắm được đại quyền trong tay. Sau khi Biến pháp thất bại, Quang Tự Đế bị giam lỏng, Từ Hi Thái hậu tiếp tục là nhà lãnh đạo tối cao, tiếp tục thực hiện [Huấn chính], và đây là khoảng thời gian đỉnh cao quyền lực nhất mà người đời sau biết về bà. Khi khởi nghĩa Nghĩa Hòa Đoàn bùng nổ, liên quân 8 nước phương Tây tấn công Trung Quốc, Từ Hi Thái hậu và hoàng tộc phải chạy tới Tây An. Năm 1901, sau khi Hòa ước Tân Sửu được ký kết, bà mới quay trở lại Bắc Kinh. Những năm cuối đời, Từ Hi Thái hậu nhận thấy thế nước quá suy yếu, nên cố gắng thực hiện nhiều cải cách nhất định ảnh hưởng đến nền chính trị Trung Quốc khi ấy, một trong những điều nổi tiếng nhất là việc giải phóng phụ nữ Trung Hoa khỏi tục bó chân.
Nhiều nhà sử học hiện đại ở Trung Quốc và hải ngoại thường miêu tả Từ Hi Thái hậu như một bạo chúa, người phải chịu trách nhiệm cho sự sụp đổ của triều đại nhà Thanh, trong khi một số khác thì lại cho rằng các đối thủ của Thái hậu đã quá thành công trong việc quy tội bà về những vấn đề nằm ngoài khả năng kiểm soát của bà lúc đó. Đánh giá khách quan, Từ Hi không tàn nhẫn hơn hay kém những vị vua khác trên thế giới khi đó, nếu không muốn nói là đã ít nhiều thi hành cải cách trong những năm cuối đời, cho dù hành động này của bà có phần miễn cưỡng bởi tình thế khó khăn của triều Thanh vào lúc ấy.
Trong văn hóa đại chúng ở Trung Hoa đại lục, Từ Hi Thái hậu cùng với Võ Tắc Thiên thời Đường và Lã hậu thời Hán được xem là 3 người phụ nữ nắm quyền lực cao nhất của đế quốc Trung Hoa trong một thời gian dài, bị dân gian coi là những "gian hậu loạn triều" tàn ác bất nhân với cả người thân, làm nghiêng đổ giang sơn xã tắc.
Xuất thân
Dòng dõi
[[Tập tin:The Cixi Imperial Dowager Empess of China (1).PNG| thumb|Hiếu Khâm Hoàng hậu Diệp Hách Na Lạp thị]]
Từ Hi Thái hậu sinh ngày 10 tháng 10 (âm lịch) năm Đạo Quang thứ 15, xuất thân từ Diệp Hách Na Lạp thị thuộc Mãn Châu Tương Hoàng kỳ, nguyên là Mãn Châu Tương Lam kỳ, con cháu nhà quan gia thế tập. Sau thời Trung Hoa Dân quốc, có nhiều học giả nhận định bà ắt hẳn là con cháu Diệp Hách bối lặc Kim Đài Cát, thuộc dòng dõi của Nạp Lan Minh Châu, thế nhưng sự thực hoàn toàn không phải như vậy.
Cứ theo hồ sơ có tên Đức Hạ Nột Thế quản Tá lĩnh tiếp tập gia phổ (德贺讷世管佐领接袭家谱) tại Trung Quốc đệ nhất lịch sử đương án quán (中国第一历史档案馆), thì tổ tiên của bà được gọi là Khách Sơn (喀山). Khách Sơn sau khi nhập kỳ, nhận chức Kỵ Đô úy, sau do tòng chinh Liêu Đông lập rất nhiều quân công, sau do có công "Dưỡng dục công chúa" mà thụ tước [Nhị đẳng Tử; 二等子], thụy là [Mẫn Tráng; 敏壮]. Hậu duệ đại tông một chi thừa kế tước hiệu [Nhất đẳng Nam; 一等男] cùng hai chức Thế quản Tá lĩnh (世管佐領). Cao tổ phụ Khách Anh A (喀英阿) là huyền tôn của Khách Sơn, thế tập Nam tước cùng chức Tá lĩnh. Khách Anh A sinh ra con trưởng Trát Lang A (扎郎阿) thế tước, còn con thứ Cát Lang A (吉朗阿) - chính là cụ nội của Từ Hi Thái hậu.
Cát Lang A, tự Ải Đường (霭堂), do là con thứ nên đành phải xuất sĩ để tiến thân, làm đến Viên ngoại lang bộ Hộ. Ông cưới Tông Thất nữ quyến, vào năm Càn Long thứ 45 sinh ra Cảnh Thụy (景瑞), làm đến Lang trung bộ Hình. Sau Cảnh Thụy cưới Qua Nhĩ Giai thị, sinh ra hai con: con trưởng Huệ Trưng (惠徵), con thứ Huệ Xuân (惠春). Bên cạnh đó, có nguồn tư liệu từ Đài Loan ghi lại, trên Huệ Trưng còn có 1 anh cả tên Huệ Trừng (惠澂), nguyên sính con gái của Hắc Long Giang tướng quân Quả Tề Tư Hoan (果齐斯欢), nhưng chưa kịp thành hôn đã chết yểu. Tư liệu này không khớp với Ngọc điệp của nhà Từ Hi Thái hậu, tuy nhiên Huệ Trưng quả thực được gọi là [Huệ nhị thái gia; 惠二太爷], cho nên vẫn còn tồn nghi.
Gia cảnh
Phụ thân bà là Huệ Trưng, sơ kì là "Bút thiếp thức" ở bộ Lại. Năm Hàm Phong thứ 2, Huệ Trưng được phong hàm Tứ phẩm, làm đến An Huy Ninh Trì Thái Quảng đạo Đạo viên (安徽寧池廣太道道員). Sau, Huệ Trưng cưới Phú Sát thị thuộc Mãn Châu Tương Hoàng kỳ, con gái Phó Đô thống Huệ Hiện (惠顯), sinh 3 nam 4 nữ, trong đó Từ Hi Thái hậu là con gái thứ 2, do đích thê Phú Sát thị sinh ra. Vào năm Từ Hi Thái hậu ra đời, Huệ Trưng đang làm việc tại Bắc Kinh, dẫn đến một số suy đoán rằng bà cũng được sinh ra tại đó.
Ba con trai của Huệ Trưng, theo thứ tự là Chiếu Tường (照祥), Quế Tường (桂祥) cùng Phật Hữu (佛佑). Chiếu Tường sinh năm không rõ, mất vào năm Đạo Quang thứ 7; Quế Tường sinh vào năm Đạo Quang thứ 24, sinh ra Long Dụ Hoàng thái hậu. Con trai út Phật Hữu, sinh vào Hàm Phong nguyên niên, mất vào năm Quang Tự thứ 25. So về độ tuổi, có thể thấy cả ba người con trai đều là em của Từ Hi Thái hậu. Bốn cô con gái của Huệ Trưng, xét theo Trung cung đương soa vụ tạp lục (宫中档差务杂录), có đề cập việc tế tự trong nhà Từ Hi Thái hậu, và bà tự gọi mình là [Hiếu thứ nữ; 孝次女] - chứng tỏ bà là con gái thứ hai trong nhà. Nhưng tư liệu chị em gái của bà chỉ ghi lại 2 người em gái, một vị trường tỷ rất có thể là chết non. Hai em gái còn lại của bà, một vị sinh vào năm Đạo Quang thứ 21, được chỉ hôn cho Thuần Hiền Thân vương Dịch Hoàn - ấy chính là Uyển Trinh. Một vị còn lại sinh năm không rõ, gả cho em trai ruột của Khánh Mật Thân vương Dịch Khuông là Dịch Huân.
Khoảng những năm 30 niên hiệu Đạo Quang, có vụ án phát sinh ở bộ Hộ, Đạo Quang Đế tiến hành điều tra. Lúc đó Cát Lang A đã từng làm quan Ngân khố Tư viên, nên trách nhiệm đều giáng lên người Cảnh Thụy, không lâu sau Cảnh Thụy bị tống giam. Con trai Cảnh Thụy là Huệ Trưng phải vơ vét tài sản mới cứu được Cảnh Thụy ra ngoài. Đây cũng là kiếp đại nạn đầu tiên trong gia đình bà. Chi Trát Lang A là chi trưởng của Khách Sơn, nhiều đời thế tập tước Nam tước, tuy nhiên vẫn khá có giao du với nhánh của gia đình bà, nên quan hệ toàn gia tương đối không tệ. Điều này minh chứng việc một người cháu dâu của Từ Hi Thái hậu, được gọi là [Nguyên đại nãi nãi; 元大奶奶], theo ghi chép cuối thời Thanh thường xuyên vào cung thăm Từ Hi Thái hậu. Nguyên đại nãi nãi là vợ của Đức Viên (德垣), trực hệ của Trát Lang A, nên còn được gọi là [Viên đại nãi nãi; 垣大奶奶].
Đánh giá tổng quan, dòng dõi Na Lạp thị của Từ Hi Thái hậu là quân công thế gia, nhưng gia đình của bà lại là dòng thứ, địa vị không mấy cao, dù không phải là thấp kém. Dẫu vậy, đời của bà tách ra khỏi nhánh đại tông không xa, cho nên tương đối có quyền thế, ông và cha bà vẫn giữ được các chức quan tương đối, bên cạnh đó hôn nhân của gia đình vẫn thuộc diện có thể liên hôn với các nhà tầm trung hoặc cao hơn, quả thực không tầm thường. Tuy không thể so với đệ nhất thế gia nhưng cũng hơn những nhà bình thường.
Nhập cung
Trải qua tuyển tú
Năm Hàm Phong thứ 2 (1852), ngày 11 tháng 2 (âm lịch), sau khi vượt qua 60 cô gái cùng tham gia thi tuyển tú nữ, Na Lạp thị được vào vòng cuối cùng dự tuyển tần phi. Cùng năm, bà được chỉ định làm Quý nhân. Ngày 9 tháng 5 (âm lịch) năm ấy, Na Lạp thị nhập cung, được gọi là Lan Quý nhân (蘭貴人).
Trong số những người được chọn còn có Lệ Quý nhân Tha Tha Lạp thị, Anh Quý nhân Y Nhĩ Căn Giác La thị và Trinh tần Nữu Hỗ Lộc thị, người sau này là Hiếu Trinh Hiển Hoàng hậu. Bởi vì tư liệu tuyển tú thời Hàm Phong chỉ vỏn vẹn, nên trước mắt không rõ thời điểm Na Lạp thị tuyển tú có xảy ra chuyện gì kì lạ hay không. Ngoại trừ Trinh tần Nữu Hỗ Lộc thị là dự bị cho ngôi vị Hoàng hậu, đối đãi có khác biệt, thì Na Lạp thị cùng Tha Tha Lạp thị và Y Nhĩ Căn Giác La thị đều là Quý nhân, có thể thấy rõ tương đối bình đẳng.
Năm Hàm Phong thứ 4 (1854), ngày 26 tháng 2 (âm lịch), Na Lạp thị được tấn phong lên 1 cấp là Tần. Ngày 25 tháng 11 (âm lịch) cùng năm, lấy Hiệp bạn Đại học sĩ Giả Trinh (贾桢) làm Chính sứ, Lễ bộ Tả Thị lang Túc Thuận (肃顺) làm Phó sứ, hành lễ sách phong Tần, phong hiệu Ý tần (懿嫔). Căn cứ Hồng xưng thông dụng (鴻稱通用) của Nội vụ phủ, phong hiệu Ý có Mãn văn là 「Fujurungga」, ý là "Đoan trang", "Văn nhã", "Có phong thái".
Sinh hạ hoàng tử
Năm Hàm Phong thứ 6 (1856), ngày 23 tháng 3 (tức ngày 27 tháng 4 dương lịch), sinh hạ Hoàng trưởng tử Tải Thuần (載淳), con trai duy nhất của Hàm Phong Đế, tức Thanh Mục Tông Đồng Trị Hoàng đế sau này. Ngày 24 tháng 3 hôm sau, bà được sắc phong thành Ý phi (懿妃). Ngày 1 tháng 12 (âm lịch) cùng năm, lấy Đại học sĩ Bành Uẩn Chương (彭蕴章) làm Chính sứ, Lễ bộ Thượng thư Thụy Lân (瑞麟) làm Phó sứ, hành lễ sách phong Phi.
Một năm sau (1857), ngày 2 tháng 1, khi Tiểu hoàng tử gần tròn 1 tuổi, Ý phi Na Lạp thị lại được tấn phong làm Quý phi. Ngày 13 tháng 12 cùng năm, lấy Nội các đại học sĩ Dụ Thành (裕诚) làm Chính sứ, Đại học sĩ Hoàng Tông Hán (黄宗汉) làm Phó sứ, đem kim sách kim bảo chính thức cử hành lễ sắc phong.
Sách phong viết:
Sinh hoạt cung đình
trái|Hàm Phong Đế Hàm Phong triều tổng cộng 11 năm, mà hậu cung Hàm Phong chỉ đến năm thứ 2 mới định, cho nên thực tế cuộc sống hậu cung của Na Lạp thị chỉ vỏn vẹn 10 năm. Mà trong 10 năm ấy, lại chia ra làm 3 giai đoạn, và giai đoạn đầu tiên là từ Hàm Phong năm thứ 2 đến năm thứ 5. Lúc này hậu cung chỉ vừa mới định, tựa hồ có không ít vấn đề. Giai đoạn thứ 2 là từ năm Hàm Phong thứ 5 đến năm thứ 8, trong khoảng thời gian này hậu cung dần ổn định, cũng là thời gian mà Na Lạp thị đã có địa vị chắc chắn. Cuối cùng là 2 năm cuối, khi ấy chính sự bất ổn, Hàm Phong Đế đã sa vào hưởng lạc.
Ở giai đoạn thứ nhất, Na Lạp thị bình bình yên dị vô sủng, điều này hình như có liên quan đến thời tang kỳ của cha bà là Huệ Trưng, khiến Na Lạp thị vào cung cũng chưa thực sự được đoái hoài đến. Lúc này, Trinh tần đăng vị Hoàng hậu, Anh Quý nhân độc sủng phong Tần. Nhưng Anh tần sau đó liên tiếp thất sủng giáng vị, Na Lạp thị cùng Lệ Quý nhân vào năm Hàm Phong thứ 4 mới bắt đầu được sủng ái, đồng loạt thăng Tần. Sau đó vào năm Hàm Phong thứ 5 và thứ 6, Lệ tần cùng Na Lạp thị do sinh dục Hoàng trưởng nữ cùng Hoàng trưởng tử, mà đều thăng Phi. Và cũng vì do sinh hạ Hoàng trưởng tử, Na Lạp thị một bước tấn Quý phi chỉ sau vỏn vẹn vài tháng dụ tấn Phi, điều này hiển nhiên là công lao "Sinh dục Hoàng tử" mới khiến bà có được địa vị này. Trong triều Hàm Phong đương thời, có thể thấy Na Lạp thị là Quý phi duy nhất, lại là sinh mẫu của Hoàng trưởng tử, cho nên địa vị trong hậu cung của bà vào lúc ấy chỉ sau mỗi Hoàng hậu. Vào giai đoạn cuối, hậu cung thu nạp đủ loại tần phi với thân phận hỗn loạn, hẳn đây cũng là thời gian Na Lạp thị để bảo toàn cho con trai mà thu mình vào nhất, một phần vì thời gian này tổ phụ của bà Cảnh Thụy qua đời khiến bà phải "thủ hiếu".
Theo một số truyền thuyết kể lại, Ý Quý phi Na Lạp thị không như những người phụ nữ khác an phận, mà nổi tiếng với trí thông minh và khả năng đọc viết thông thạo tiếng Hán, nhờ vậy bà có nhiều cơ hội tham gia chính sự khi sức khỏe của Hàm Phong Đế không được tốt. Trong nhiều trường hợp, Hoàng đế để Ý Quý phi đọc tấu chương và ghi lời phê cho mình, điều này khiến các đại thần đối với Ý Quý phi đã sớm bất mãn. Tuy nhiên, những truyền thuyết trên đã có phần cường điệu, đặc biệt là dưới nhãn quan của người phương Tây, có phần lệch lạc không ít. Bên cạnh cái nhìn của người phương Tây cho thấy một phụ nữ can chính, người Trung Quốc nhìn về bà khi còn là Ý Quý phi Na Lạp thị lại theo hướng hậu cung tranh sủng. Qua các thuyết này, Na Lạp thị hãm hại vô số cung nhân, nổi tiếng nhất là việc đem Lệ phi Tha Tha Lạp thị biến thành [Nhân trư; 人彘]. Cơ bản tất cả đều là bịa đặt vô căn cứ.
Mặt khác, có người tên là Vương Văn Phổ (王文普), vốn là hậu duệ chi rất xa của Cát phi Vương thị, vào thời buổi đầu tân Trung Quốc đã viết cuốn sách Từ Hi tảo niên dật sự (慈禧早年轶事) miêu tả một đoạn tranh sủng của Ý Quý phi. Theo tự nhận của Vương Văn Phổ nghe theo người trong hệ tộc thuật lại, Cát phi cùng Ý Quý phi Na Lạp thị khi ấy mang thai, nhưng Na Lạp thị tính kế khiến Cát phi sẩy thai, còn mình an toàn sinh ra hoàng tử. Tuần tra qua các tài liệu, Cát phi Vương thị nhỏ hơn Na Lạp thị 5 tuổi, nguyên là cung nữ của Hoàng hậu, vào năm Hàm Phong thứ 8 mới được thụ phong làm Quý nhân, là vị hậu cung cuối cùng tấn phong triều Hàm Phong. Trong khi đó, Na Lạp thị sinh Hoàng tử vào năm Hàm Phong thứ 6, thời gian chênh lệch quá lớn, thập phần không đáng tin.
Đảo chính Tân Dậu
Hàm Phong Đế băng hà
Hai con dấu "Ngự Thưởng" và "Đồng Đạo đường"
Năm Hàm Phong thứ 10 (1860), liên quân Anh - Pháp tấn công Bắc Kinh. Hàm Phong cùng hoàng tộc, trong đó có Ý Quý phi, phải rời Tử Cấm Thành đến Thừa Đức để lánh nạn. Khi nghe tin vườn Viên Minh xa hoa tráng lệ bị liên quân đốt phá, Hoàng đế đau buồn khôn xiết. Ngài bắt đầu lạm dụng rượu và thuốc phiện khiến sức khỏe ngày càng suy sụp.
Năm Hàm Phong thứ 11 (1861), ngày 17 tháng 7 (tức ngày 22 tháng 8 dương lịch), Hàm Phong Đế băng hà ở Tị Thử Sơn Trang. Người kế vị ông, Hoàng tử Tải Thuần, lúc này chỉ mới 5 tuổi. Trước lúc lâm chung, Hàm Phong Đế ban cho Hoàng hậu Nữu Hỗ Lộc thị con dấu [Ngự Thưởng; 御赏], và con dấu [Đồng Đạo Đường; 同道堂] cho Hoàng tử Tải Thuần. Do Hoàng tử còn nhỏ nên con dấu được mẹ Hoàng tử là Ý Quý phi Na Lạp thị tạm thời bảo quản, với hy vọng cả hai sẽ hợp sức cùng nhau nuôi dạy Hoàng đế tương lai khôn lớn.
Hàm Phong Đế cũng di chiếu lại cho tám vị đại thần bao gồm Di Thân vương Tải Viên, Trịnh Thân vương Đoan Hoa, Hộ bộ Thượng thư Túc Thuận, Ngạch phụ Cảnh Thọ, Binh bộ Thượng thư Mục Ấm, Lại bộ Tả Thị lang Khuông Nguyên, Lễ bộ Hữu thị lang Đỗ Hàn, Thái bộc Thiếu Khanh tự Tiêu Hữu Doanh làm phụ chính hỗ trợ cho Tiểu Hoàng đế, đương thời gọi Cố mệnh Bát đại thần. Điều này có nghĩa thực quyền sẽ nằm trong tay nhóm tám vị này, do Túc Thuận đứng đầu. Ban đầu, niên hiệu của Tân Hoàng đế dự định sẽ là [Kỳ Tường; 祺祥].
Sau khi Hàm Phong Đế băng hà, Tải Thuần kế vị. Theo thông lệ nhà Thanh, phàm [Mẫu hậu Hoàng hậu] - Đích mẫu của Hoàng đế cùng [Thánh mẫu] - sinh mẫu của Hoàng đế đều còn sống và tại vị, thì nên đồng tôn Hoàng thái hậu. Theo đó, Hoàng hậu Nữu Hỗ Lộc thị được tấn tôn làm [Mẫu hậu Hoàng thái hậu; 母后皇太后], tức Từ An Hoàng thái hậu. Sinh mẫu của Hoàng đế là Ý Quý phi Na Lạp thị trở thành [Thánh mẫu Hoàng thái hậu; 聖母皇太后].
Theo Edward Behr, chính Thánh mẫu Hoàng thái hậu Na Lạp thị cho rằng hai người đều là phụ nữ, Hoàng đế thì còn nhỏ tuổi, nếu để tám vị đại thần phụ chính ắt không tránh khỏi việc bị chèn ép. Vì vậy, bà gợi ý với Mẫu hậu Hoàng thái hậu nên cùng nhau chấp chính, đoạt lấy quyền lực. Với việc này, trong tương lai cả hai vị Thái hậu đều có thể tham gia chính sự, chứ không phải chịu sự chèn ép của phe Cố mệnh Bát đại thần.
Diễn ra chính biến
thumb|trái|Ảnh chụp Cung Thân vương [[Dịch Hân.]] thumb|Túc Thuận - người đứng đầu Cố mệnh Bát đại thần. Trong lúc chờ ngày lành tháng tốt để đưa di hài của Hàm Phong Hoàng đế về Bắc Kinh, quan hệ giữa Lưỡng cung Thái hậu và nhóm của Tái Viên cùng Túc Thuận ngày một xấu đi. Dưới tình thế đó, hai vị Thái hậu liên kết triệt bỏ Túc Thuận. Trong số đồng minh quan trọng nhất khi ấy, có Cung Thân vương Dịch Hân và Thuần Quận vương Dịch Hoàn. Cung Thân vương vốn là một người đầy tham vọng nhưng lại bị gạt khỏi vị trí đầu triều sau di chiếu của Hàm Phong Đế nên rất tích cực ủng hộ cuộc đảo chính. Ngoài ra còn có Quân cơ đại thần Văn Tường (文祥) - một người luôn ủng hộ Dịch Hân trong vấn đề chính trị, do bất mãn cũng quyết định thỉnh an Lưỡng cung Thái hậu, âm mưu dự việc chính biến.
Ngày 1 tháng 8 (ngày 5 tháng 9 dương), Cung Thân vương giả trang thành Tát mãn, mật họp với Lưỡng cung Thái hậu, sau đó về kinh sư bố trí sẵng.
Ngày 11 tháng 8 (ngày 14 tháng 9 dương), Sơn Đông Ngự sử Đổng Nguyên Thuần (董元醇) tấu thỉnh Lưỡng cung Thái hậu quản lý triều chính. Gặp phải sự phản đối của Tái Viên cùng Túc Thuận, lấy lý do nhà Thanh chưa có tiền lệ Thái hậu buông rèm nhiếp chính. Hai bên tranh cãi kịch liệt. Trong khi đó, Cung Thân vương ở Bắc Kinh bố trí thế lực, có Đại học sĩ Quế Lương (桂良), Giả Trinh (贾楨) cùng Hộ bộ Thượng thư Thẩm Triệu Lâm (沈兆霖) liên lạc các thế lực ngoại quốc. Ông còn huy động một số vây cánh đã thiết lập ngầm từ lâu, trong đó có Tả Dực Hậu Khoa Nhĩ Thấm Thân vương Tăng Cách Lâm Thấm.
Ngày 23 tháng 9 (ngày 26 tháng 10 dương), kim quan của Hàm Phong Đế rục rịch được đưa về Bắc Kinh. Lưỡng cung Thái hậu theo đúng kế hoạch, trước an dụ Tân Hoàng đế bồi giá 1 ngày, sau lấy lý do Hoàng đế tuổi nhỏ vất vả, bèn phủ dụ đám người Túc Thuận ở lại đi theo hộ tống, còn cả hai vị Thái hậu sẽ cùng Tân Hoàng đế trở về Bắc Kinh trước để lo liệu. Ngày 29 tháng ấy (âm lịch), Tân Hoàng đế bồi Lưỡng cung Thái hậu về Bắc Kinh bằng đường tắt, về trước so với linh giá 4 ngày. Ngay lập tức, Lưỡng cung Thái hậu gọi gấp Cung Thân vương, phát hiệu lệnh bố trí sẵng sàng thực hiện kế hoạch. Ngày 30 tháng 9 (tức ngày 2 tháng 11 dương lịch), khi Tám phụ chính đại thần về đến Bắc Kinh, Lưỡng cung Thái hậu chính thức phát động chính biến, ra chỉ phái Thuần Quận vương Dịch Hoàn đọc tuyên tội trạng của Cố mệnh Bát đại thần, rồi để Thuần Quận vương hiệp lĩnh Quản thiện bộ doanh sự lập tức bắt giam Tái Viên, Đoan Hoa cùng Túc Thuận. Khi Túc Thuận bị bắt, còn mắng to nói:"Hối hận không sớm trị mấy ả tiện tỳ này!".
Ngày 5 tháng 10 (tức ngày 7 tháng 11 dương lịch), đổi niên hiệu từ [Kỳ Tường] thành [Đồng Trị; 同治].
Ngày 6 tháng 10 (tức ngày 8 tháng 11 dương lịch) năm ấy, cả tám người bị khép tội phản nghịch cùng một loạt tội danh lớn nhỏ khác. Để thể hiện sự khoan dung, Lưỡng cung Thái hậu chỉ xử tử 3 trong số họ là Túc Thuận, Tái Viên cùng Đoan Hoa. Cung Thân vương cho rằng Túc Thuận và hai người có vị trí cao nhất phải chịu lăng trì, nhưng Lưỡng cung Thái hậu quyết định Túc Thuận chỉ bị chém đầu, còn hai người kia được tự sát. Trong lịch sử Trung Quốc, đây gọi là [Tân Dậu chính biến; 辛酉政变] hay Chính biến Tân Dậu.
Đề nghị Thùy liêm
Triều đại nhà Thanh, dù Hoàng đế có nhỏ tuổi thì cũng dựa vào các đại thần, hoặc tông thân phụ tá, đơn cử như Duệ Trung Thân vương Đa Nhĩ Cổn thời Thuận Trị; bốn vị Phụ chính đại thần Sách Ni, Ngao Bái, Át Tất Long cùng Tô Khắc Tát Cáp thời Khang Hi. Hoặc gần nhất chính là [Cố mệnh Bát đại thần] do chính Hàm Phong Đế chỉ định - những người đã bị Lưỡng cung Thái hậu dùng chính biến hạ bệ. Các vị Thái hậu thời kì ấy, Hiếu Trang Văn Hoàng hậu hay Hiếu Huệ Chương Hoàng hậu hoàn toàn không có tiền lệ nhiếp chính như các Thái hậu thời nhà Hán. Cũng bởi vì lý do này, Cung Thân vương Dịch Hân sau sự kiện này trở thành người đứng đầu hàng tông thất, được Lưỡng cung Thái hậu phong tước hiệu Nghị Chính vương (議政王) - có trách nhiệm đứng đầu Quân cơ xứ, được gọi là các [Quân cơ đại thần; 军机大臣]. Không những được phong làm Nghị Chính vương đứng đầu Quân cơ xứ, con gái của ông cũng được phong là Vinh Thọ Cố Luân Công chúa, đây là một đặc ân rất đáng kể bởi vì tước vị [Cố Luân Công chúa] vốn là tước vị chỉ dành cho con gái của Hoàng hậu, đồng thời lương bổng của ông cũng tăng gấp đôi. Bên cạnh đó, Lưỡng cung Thái hậu cũng không vì thế mà muốn mất đi thực quyền, nên đề ra chính sách cả hai cùng lâm triều nghe chính sự, được gọi là [Lưỡng cung thính chính; 兩宮聽政].
Năm Hàm Phong thứ 11 (1861), ngày 26 tháng 10 (âm lịch), Lễ Thân vương Thế Đạc (世铎) dâng [Thùy liêm chương trình; 垂帘章程] để giải thích việc Thùy liêm của Lưỡng cung Thái hậu. Theo chương trình này, khi Lưỡng cung Thái hậu thượng triều nghe chính thì đặt bày ở Đông Noãn các của Dưỡng Tâm điện, đều ngồi sau một tấm rèm the màu vàng được gọi là [Hoàng Mạn; 黄幔] đặt ở sau ngự tọa của Hoàng đế; các Quân cơ đại thần được dẫn đầu bởi Nghị Chính vương theo thứ tự tiến vào dâng tấu biểu. Từ đây, Lưỡng cung Thái hậu theo quy định về thiết triều của nhà Thanh sẽ đều triệu các Quân cơ đại thần vào điện nghe chính sự. Quy trình này khá phức tạp, khi Quân cơ Đại thần dâng tấu chương, Lưỡng cung Thái hậu cùng xem xét, từ Cung thân vương đề nghị thỉnh chỉ, hôm sau Cung Thân vương trình tấu sự vụ lên, Lưỡng cung Thái hậu cùng xem xét và duyệt định, lấy con dấu [Đồng Đạo đường] do chính Mẫu hậu Hoàng thái hậu ấn lên, rồi lấy danh nghĩa Đồng Trị Đế mà ban phát chỉ dụ. Ngày 1 tháng 11 (âm lịch) năm ấy, Đồng Trị Đế chính thức phụng Lưỡng cung Thái hậu thùy liêm tại Dưỡng Tâm điện.
Mẫu hậu Hoàng thái hậu ở phía Đông của Noãn các tại Dưỡng Tâm điện, vì theo nguyên tắc hướng Đông là chính, nên bà còn được gọi là [Đông Thái hậu; 東太后]. Còn Thánh mẫu Hoàng thái hậu ở phía Tây của Noãn các, còn được gọi là [Tây Thái hậu; 西太后]. Lưỡng cung Thái hậu chính thức Thùy liêm thính chính, trở thành 2 vị Hậu cung đầu tiên và duy nhất tiến hành nhiếp chính của nhà Thanh.
Thời đại Đồng Trị
Thượng tôn huy hiệu
Năm Đồng Trị nguyên niên (1862), ngày 25 tháng 4 (âm lịch), triều thần định huy hiệu cho Tây Thái hậu là Từ Hi Hoàng thái hậu (慈禧皇太后). Đây chính là lúc bà chính thức có huy hiệu này. Ngày hôm đó, chử chư Vương, Bối lặc, Văn võ đại thần, dâng kim sách thượng tôn huy hiệu.
Sách tôn viết
Đồng Trị trung hưng
thumb|Đồng Trị Đế Vai trò của Từ Hi Thái hậu cũng như Từ An Thái hậu lúc này chỉ là đóng con dấu của mình lên các sắc chỉ mà thôi, bởi vì tất cả nội dung và tấu biểu của triều đình đều do Nghị Chính vương cùng Quân cơ xứ soạn thảo cũng như chính thức ban bố. Tuy nhiên, người trực tiếp quản lý con dấu là Từ An Thái hậu, còn vai trò của Từ Hi Thái hậu căn bản là quản lý nội vụ.
Căn cứ theo Thanh cung di văn (清宫遗闻): "Đông Cung trội ở Đức, mà thực sự nắm quản việc đại sự; Tây Cung trội ở Tài, mà việc phê duyệt tấu chương, chi tiệu lợi hại chỉ quản được". Như vậy có thể thấy, Từ An Thái hậu tuy là người bên ngoài không tham quyền thế, nhưng lại là người nắm những đại quyền. Công việc do Từ Hi Thái hậu xử lý đa phần là những việc lặt vặt, chi tiêu sinh hoạt trong cung, ở những việc trọng đại thì phải thông qua quyết định của Từ An Thái hậu. Ngoài ra, vì Từ An Thái hậu ở vị trí chính cung, bây giờ ở phía Đông Noãn các của Dưỡng Tâm điện, thực lực quá rõ ràng, những việc Từ An Thái hậu thấy không cần nhúng tay vào thì đều để cho Từ Hi Thái hậu nhận lãnh, giải quyết ổn thỏa. Bởi cái đánh giá Từ Hi Thái hậu "tài cán" rốt cục là vì bà xử lý ổn thỏa, còn Từ An Thái hậu quản xuyến trên dưới nghiêm ngặt, dẫu Từ Hi Thái hậu cũng không tự tiện làm trái, ấy chính là "Đức" vậy. Điều đó cho ta thấy vai trò của Từ An Thái hậu vô cùng to lớn trong triều.
Trước Chiến tranh Nha phiến, Đại Thanh tự hào là [Thiên triều] và xem thường các nước Tây phương là ngoại di. Sau khi liên quân Anh – Pháp tới Bắc Kinh thời Hàm Phong, triều đình Đại Thanh buộc phải ký điều ước nhục nhã với họ, và lúc này Hoàng tộc Thanh mới chịu nhìn nhận cải thiện về quân sự. Vài người Mãn như Cung Thân vương Dịch Hân cùng Quế Lương nghĩ đến việc tự cường, bàn với Tăng Quốc Phiên, Lý Hồng Chương và Tả Tông Đường. Họ đồng ý với nhau rằng: "Muốn tự cường thì việc luyện binh là quan trọng nhất, mà muốn luyện binh thì trước hết phải chế tạo vũ khí giới", và họ giao cho Lý Hồng Chương thi hành.
Dưới sự lãnh đạo của Tăng Quốc Phiên, Tương Quân liên tiếp giành thắng lợi và cuối cùng đã tiêu diệt quân Thái Bình Thiên Quốc sau trận quyết đấu ở Thiên Kinh (Nam Kinh ngày nay) vào tháng 7 năm 1864. Tăng Quốc Phiên được phong [Nhất đẳng Dũng Nhị hầu], hàm Thái tử Thái bảo. Em trai của ông là Tăng Quốc Thuyên, cùng với Tả Tông Đường và Lý Hồng Chương, cũng được ban thưởng hậu hĩnh. Khoảng năm (1872-1873), lại trấn áp thành công Vân Nam Hồi biến cùng Thiểm Cam Hồi biến. Thế cục hỗn loạn của nhà Thanh dần dần ổn định, sử xưng [Đồng Trị trung hưng; 同治中興].
thumb|Tăng Quốc Phiên - chủ trương Vận động tự cường.
Các vấn đề nội vụ thì mỗi lúc một rối ren với nạn quan liêu và tham nhũng. Một thách thức đáng kể đối với Lưỡng cung Thái hậu là sự tha hóa của đội ngũ quý tộc Mãn Châu. Từ khi Đại Thanh lập quốc, các vị trí quan trọng nhất trong triều đình đều được giao cho người Mãn, còn người Hán bị khinh rẻ. Trái với truyền thống, triều đình Mãn Thanh cuối cùng quyết định giao quyền thống lãnh quân đội chống lại Thái Bình Thiên Quốc vào tay Tăng Quốc Phiên - một người Hán. Bên cạnh đó, 2 vị Thái hậu còn bổ nhiệm người Hán vào nhiều vị trí lãnh đạo cấp cao ở các tỉnh phía Nam Trung Hoa. Từ khi buông rèm chấp chính, Lưỡng cung Thái hậu liền tiếp thu Ngự sử Từ Khải Văn ý kiến, lệnh trung thần trong ngoài triều nói thẳng phê bình khuyết điểm; lại tiếp thu Ngự sử Chung Bội Hiền ý kiến, sùng tiết kiệm, trọng danh khí; tiếp thu Ngự sử Biện Bảo Đệ ý kiến, nghiêm thưởng phạt, nghiêm túc lại chế, thận tiến cử. Vào năm đầu triều Đồng Trị, triều đình tổ chức đánh giá bộ máy hành chính. Quan lại thuộc tất cả các cấp phải gửi về Bắc Kinh bản báo cáo hoạt động của mình trong vòng 3 năm gần nhất. Lưỡng cung Thái hậu tự mình đảm nhiệm việc đánh giá, vốn là nhiệm vụ của bộ Lại.
Ngoài ra, Lưỡng cung Thái hậu cũng khuếch trương Dương vụ vận động (洋务运动) hay [Sự vận động tự cường], với mục tiêu là hướng tới giao thiệp và học tập người phương Tây, do Từ An Thái hậu chủ trương cùng Cung Thân vương Dịch Hân và các lãnh đạo khác như Tăng Quốc Phiên, hướng tới trung hưng Đại Thanh. Tăng Quốc Phiên và Lý Hồng Chương tiếp xúc với Dung Hoành (容閎), một sinh viên nghèo ở Ma Cao và là du học sinh đầu tiên ở Mỹ, do một hội truyền giáo trợ cấp, năm 1854 đậu bằng cấp Đại học Yale. Tăng Quốc Phiên phái Dung Hoành qua Mỹ mua máy, ông này thuyết phục Tăng Quốc Phiên gởi 120 thanh niên đi du học. Một số lớn qua Mỹ, ba chục người sang Anh, ba chục qua Pháp, một số nhỏ qua Đức. Phong trào tự cường ngay lập tức gặp nhiều trở ngại.
Khi ấy, Quân đội Đại Thanh đang rất bức thiết cần một cuộc cải cách toàn diện và sâu rộng, và với sự cố vấn của các quan viên, Lưỡng cung Thái hậu cho mua bốn tàu chiến từ nước Anh. Tuy nhiên, những chiến hạm này khi về tới Trung Quốc đã chở theo toàn thủy thủ Anh quốc và chỉ tuân lệnh của chính phủ Anh. Cảm thấy bị xúc phạm, cuộc mua bán lập tức chấm dứt và Trung Quốc gửi trả tất cả tàu chiến về Anh. Một số học giả lấy ví dụ này để lập luận, tuy Từ Hi Thái hậu đã có cái nhìn cởi mở hơn đối với các vấn đề đối ngoại so với các triều đại trước đó, nhưng nhìn chung bà vẫn là người bảo thủ với không nhiều kiến thức về tình hình quốc tế. Bên cạnh đó, vì cho rằng sự ồn ào của tàu hỏa sẽ "Ảnh hưởng đến giấc ngủ của Tiên đế", Lưỡng cung Thái hậu đã cho hoãn thi công các tuyến đường sắt. Thậm chí khi hoạt động xây dựng được khôi phục lại năm 1877 dưới sự gợi ý của Lý Hồng Chương, Từ Hi Thái hậu đã hỏi tàu hỏa có phải do ngựa kéo không, chứng tỏ bà không phải là người hiểu rõ về các tiến bộ của khoa học kỹ thuật cũng như tác dụng của chúng. Từ Hi Thái hậu còn đặc biệt cảnh giác với các tư tưởng bình đẳng, tự do của những người du học phương Tây trở về và coi đó là mối đe dọa với sự thống trị của triều đại.
Vụ án Cung Thân vương
thumb|Cung Thân vương Dịch Hân - người luôn ủng hộ Từ An Thái hậu trong thời kỳ lưỡng cung thính chính. Với mối họa Thái Bình Thiên Quốc được dẹp bỏ, Lưỡng cung Thái hậu mới có thể bắt tay vào việc củng cố quyền lực của mình ở trung ương, mà mối lưu tâm hàng đầu lúc đó không khác hơn là vị thế của Cung Thân vương Dịch Hân, người đang đứng đầu hội đồng Quân cơ xứ. Mặc dù đã sát cánh cùng hai vị Thái hậu trong cuộc đảo chính Tân Dậu, cũng như có công tiến cử Tăng Quốc Phiên, nhưng ảnh hưởng và uy tín của Dịch Hân trong triều đình phần nào hạn chế quyền quyết định của Từ Hi, đặc biệt là Cung Thân vương luôn dùng Từ An Thái hậu để trấn áp, khiến Từ Hi nhiều lần bị gạt ra khỏi chính sự.
Năm Đồng Trị thứ 4 (1865), ngày 5 tháng 3 (âm lịch), biên tu Thái Thọ Kỳ (蔡寿祺) buộc tội Cung Thân vương Dịch Hân, nói Vương "ôm quyền nạp hối, làm việc thiên tư kiêu doanh", Lưỡng cung Thái hậu mệnh lệnh điều tra, 7 ngày liền lấy này mục vô quân thượng, miễn đi chức Nghị Chính vương của Dịch Hân. Tuy nhiên, do các đại thần cầu tình, cũng như Từ An Hoàng thái hậu chủ trương, Cung Thân vương vẫn đi lại được trong cung và vẫn giữ các chức vụ quản lý Nội vụ phủ. Đây là lần xích mích đầu tiên giữa Từ Hi Hoàng thái hậu và Cung Thân vương.
Trước đây, Cung Thân vương chủ trương Dương vụ vận động là một cuộc vận động giữa triều đình, phái người Trung Quốc sang Tây phương thực hiện du học. Nhiều ý kiến cho rằng Từ Hi Thái hậu cũng có công trong vấn đề này, nhưng xét ra, Từ Hi Thái hậu vốn rất ghét người Tây dương là sự thật rất hiển nhiên, còn thì Từ An Thái hậu thực tế lại là Chân chính quốc mẫu, lại có Cung Thân vương Dịch Hân luôn ra sức dùng biện pháp "Đích thứ chi phân", nên có thể thấy rất rõ những thành tựu của Dương vụ vận động đều là do Từ An Thái hậu chủ trương. Khi cả hai Thái hậu thùy liêm, Từ An Thái hậu vốn nể trọng Cung Thân vương, nhiều lần đứng về phía ông, trong vấn đề trị vì nhiếp chính này vô hình trung tạo nên liên minh giữa Từ An Thái hậu - Cung Thân vương và cả hai dần áp chế Từ Hi Thái hậu, khiến hầu như Từ Hi Thái hậu chỉ có thể đứng ngoài những sự vụ quan trọng, chỉ quản lý vấn đề nội trị.
Sự mâu thuẫn từ từ vì quyền lợi này, theo nhiều nhận định chính là cơ sở để người đời sau nhận đoán Từ Hi Thái hậu có hiềm khích rất lớn với Từ An Thái hậu vậy, và đây có lẽ chính là lý do lớn để Từ Hi Thái hậu quyết định ra tay với Cung Thân vương. Sự kiện này khiến triều đình nhà Thanh rúng động, nhiều người đã gửi tấu chương kiến nghị phục chức cho Cung Thân vương, còn bản thân Cung Thân vương khi đối chất trước hai vị Thái hậu đã không cầm được nước mắt. Từ Hi Thái hậu đành phải cho ông làm Ngoại vụ sứ, tuy nhiên vẫn không cho phép ông trở về vị trí lãnh đạo Quân cơ xứ. Từ đó, Cung Thân vương Dịch Hân không bao giờ lấy lại vị thế trước kia một lần nữa. Việc hạ bệ Cung Thân vương chỉ sau chưa đầy 4 năm nắm quyền là một vụ án nghiêm trọng, là cơ sở để người đời phán đoán sự ảnh hưởng của Từ Hi Thái hậu trong triều. Tuy vậy, việc bà nắm quyền cũng hết sức khó khăn, vì Từ An Thái hậu với thân phận [Mẫu hậu Hoàng thái hậu] vẫn áp chế bà một bậc.
Vụ án An Đức Hải
Năm Đồng Trị thứ 8 (1869), tháng 7, Thái giám An Đức Hải (安德海), một thân tín của Từ Hi Thái hậu đi Nam hạ nhân danh Hoàng đế đại đôn, thu mua long bào.
Theo Thanh triều quy chế, Thái giám không thể tùy tiện xuất cung, đằng này An Đắc Hải còn đánh trống khoa chiêng, dương dương tự đắc, thản nhiên nhận hối lộ của quan viên, Thuận Thiên phủ lẫn Trực Lệ Tổng đốc đều không dám làm gì. Nhưng đến Sơn Đông, Tuần phủ Đinh Bảo Trinh (丁宝桢) lấy việc Thái giám ra khỏi kinh thành đã vi phạm tổ chế, liền thỉnh chỉ xử trí. Lúc đấy Từ Hi Thái hậu cáo bệnh, Từ An Thái hậu lấy quyền lực tối cao, triệu Cung Thân vương Dịch Hân và Quân cơ đại thần nhất trí cho rằng: "Tổ chế không được ra đều môn, người vi phạm giết không tha, đương ngay tại chỗ tử hình". Sau đó, Từ An Hoàng thái hậu ra chỉ dụ:
Ngày 7 tháng 8, An Đắc Hải ngay lập tức bị xử tử ở ngoài cổng Tây thành Tế Nam, bạo thi 3 ngày, hơn 20 người tùy tùng cũng bị đem đi xử tử. Hành động của Từ An Thái hậu gây nên tiếng vang lớn, được Đồng Trị Đế cũng như triều thần ủng hộ. Hành động của bà lan truyền tới dân gian, trong dân gian có câu ca dao: "Đông Cung ngẫu nhiên hành một chuyện, thiên hạ đều ngạch tay ca tụng" để tán thưởng tầm ảnh hưởng và tài trị quốc của bà. Tuy nhiên vô hình trung bà đã tạo hiềm khích đối với Từ Hi Thái hậu.
Đại hôn và hoàn chính
Đồng Trị Đế ngay từ nhỏ nhận được một sự giáo dục nghiêm khắc của sư trưởng Miên Du và 4 sư phó nổi tiếng do đích thân Từ Hi Thái hậu tuyển chọn. Những người này cố gắng nhồi nhét cho hoàng đế đủ loại kinh sách, từ bài học trị dân trị nước đến đạo làm người. Theo nhiều truyền thuyết, sức ép lớn từ việc học tập cũng như kỳ vọng cao càng khiến vị Hoàng đế trẻ tuổi thêm chán nản và lười biếng. Đặc biệt cuốn dã sử Thanh triều dã sử Đại quan (清朝野史大观) còn chỉ ra việc Đồng Trị Đế ưa thích chơi vui, hưởng lạc hơn là quan tâm học hành. Dẫu vậy, đó cũng chỉ là những truyền thuyết dã sử, được người sau tưởng tượng khi hình dung về Đồng Trị Đế - đang bị trói buộc bởi 2 vị Thái hậu trong cung.
thumb|Hoàng hậu A Lỗ Đặc thị
Năm Đồng Trị thứ 11 (1872), Đồng Trị hoàng đế tròn 17 tuổi. Với sự ủng hộ của Từ An Thái hậu, ông chọn Mông Cổ quý tộc nữ A Lỗ Đặc thị làm Hoàng hậu. Khoảng đầu ngày 3 tháng 2, khi tiến hành tuyển tú, Từ An Thái hậu là người đề bạt và đưa A Lỗ Đặc thị dự vào đợt tuyển. Trong khi đó, Từ Hi Thái hậu quyết liệt chọn Phú Sát thị, con gái của Phượng Tú thuộc dòng dõi Phú Sát thị danh môn, đối chọi với Từ An Thái hậu rất gay gắt. Cụ thể quá trình này, trước mắt vẫn không có hồ sơ công khai minh bạch, nhưng cuối cùng Đồng Trị Đế vẫn chọn A Lỗ Đặc thị làm Hoàng hậu, và điều này khiến Từ Hi Thái hậu rất không vui. Còn Phú Sát thị trở thành Tuệ phi.
Hoàng hậu A Lỗ Đặc thị rất không được lòng Từ Hi Thái hậu, vì ông ngoại của Hoàng hậu chính là Trịnh Thân vương Đoan Hoa, người đã bị giết trong Chính biến Tân Dậu khi xưa và là người khiến Từ Hi rất chán ghét. Bên cạnh đó, vị A Lỗ Đặc thị này lại là cháu của Từ An Hoàng thái hậu, vì vợ của Đoan Hoa là cô mẫu của Thái hậu, do đó A Lỗ Đặc thị cũng xem như là thân thích của Từ An, nên Từ Hi điềm nhiên không có chân can thiệp. Bên cạnh đó, vốn Đồng Trị Đế rất thân với Từ An Thái hậu, và cũng rất vừa ý với A Lỗ Đặc thị nên ý tứ Hoàng đế đứng về phía bà, điều này khiến mẹ đẻ như Từ Hi Thái hậu cảm thấy bị phản bội và sỉ nhục. Những vấn đề trên khiến nhiều người cho rằng Từ Hi Thái hậu dần hiềm khích với Từ An Thái hậu.
Ngày 8 tháng 10 năm đó, dâng thêm 2 chữ Đoan Hựu (端佑). Năm thứ 12 (1874), Đồng Trị Đế bắt đầu thân chính. Ngày 9 tháng 2, dâng thêm 2 chữ Khang Di (康颐), toàn xưng Từ Hi Đoan Hựu Khang Di Hoàng thái hậu (慈禧端佑康颐皇太后).
Đồng Trị Đế dành nhiều thời gian ở bên Hoàng hậu hơn bất cứ phi tần nào khác, trong đó có Tuệ phi Phú Sát thị - người mà Từ Hi Thái hậu vốn muốn lập làm Hoàng hậu. Theo nhiều cách nói từ dã sử truyền miệng, A Lỗ Đặc Hoàng hậu có cuộc sống cung đình không mấy vui vẻ, đặc biệt là mối quan hệ với Từ Hi Thái hậu được cho là cực kém. Nếu việc tuyển tú xảy ra, đúng là có mâu thuẫn giữa Lưỡng cung Thái hậu, thì A Lỗ Đặc Hoàng hậu trong tình thế đó bị kẹp giữa 2 vị Thái hậu, phi thường áp lực đè nén. Tuy không hề có bất kì cứ liệu nào nói đến mối bất hòa giữa Hoàng hậu và Từ Hi Thái hậu, song sự truyền miệng của người Bát kỳ đều nhắc đến vấn đề mẹ chồng nàng dâu này. Trong đó, chuyện dã sử được nhắc đến nhiều nhất là việc A Lỗ Đặc Hoàng hậu từng nói:"Tây Thái hậu xuất thân chỉ là một phi tần, nhập cung qua cửa bên. Còn ta là Trung cung Hoàng hậu, được kiệu vào cung qua Đại Thanh môn với lễ đại hôn theo đúng di huấn của tổ tiên".
Tuy nhiên, câu nói này cũng xuất hiện trong truyền khẩu là do Đôn Thân vương Dịch Thông nói với Từ Hi Thái hậu. Đôn Thân vương Dịch Thông nổi tiếng ngay thẳng, không hề để tâm ai có thích lời nói của ông hay không. Khi đó Từ Hi Thái hậu phàn nàn việc Hoàng hậu không nghe lời quản giáo, muốn phế bỏ, Đôn Thân vương liền nói:"Muốn phế người đi từ Đại Thanh môn vào, thì phải do người đi vào từ Đại Thanh môn quyết định". Giải thích một chút, quy chế Đại Thanh nghiêm ngặt, Hoàng hậu được cử hành đại hôn đi từ cổng chính Đại Thanh môn vào, là chủ nhân chân chính của hậu cung, còn phi tần phải đi cửa bên cạnh thành để vào. Ý của Đôn Thân vương là Từ Hi Thái hậu vốn chỉ là phi thiếp, không có tư cách phế truất Hoàng hậu do Hoàng gia tuyển lựa.
Những câu chuyện này, dĩ nhiên vẫn chỉ ở trong phạm vi tin đồn lưu truyền. Nhưng thông qua sự "bằng mặt mà không bằng lòng" giữa Từ Hi cùng liên minh Từ An và Cung Thân vương. Đồng Trị Đế kính Từ An Thái hậu hơn bản thân mẹ đẻ Từ Hi, lại thêm sự xuất hiện của Hoàng hậu A Lỗ Đặc thị, thì cho dù những tin đồn này tuy có thể không chính xác đến chi tiết, song ít nhiều quả thực có sự [căng thẳng] giữa Từ Hi Thái hậu với các thành viên Hoàng thất Mãn Thanh khác. Vào lúc này, Từ Hi Thái hậu chỉ vỏn vẹn ở vai trò [Đế mẫu], vai vế trong Hoàng thất có Từ An Thái hậu áp chế, về phương diện lại có Cung Thân vương danh chính ngôn thuận lãnh đạo Quân cơ xứ, chúng ta có thể hình dung hoàn cảnh bị cản trở đủ đường của Từ Hi Thái hậu.
Đồng Trị Đế băng hà
Trong thời kỳ trị vì ngắn ngủi của mình, Đồng Trị Đế đã có 2 quyết định quan trọng. Một trong số đó là vào mùa hè năm Đồng Trị thứ 12, ngay trong năm tự mình chấp chính, Đồng Trị Đế đã ra lệnh xây dựng lại cung điện mùa hè Viên Minh Viên, vốn đã bị liên quân Anh - Pháp phá hủy trong Chiến tranh Nha phiến lần 2, để dâng lên Từ An Thái hậu và Từ Hi Thái hậu. Một số sử gia nhận xét đây chỉ là cái cớ để Đồng Trị Đế đẩy Từ Hi ra khỏi Tử Cấm Thành, tạo điều kiện cho ông có thể độc lập quyết định chuyện hậu cung. Tuy nhiên, việc thi công gặp trở ngại do quốc khố đã khánh kiệt sau nhiều binh biến, bị các đại thần phản đối. Ngày 17 tháng 8, Cung Thân vương Dịch Hân, Đại học sĩ Văn Tường (文祥) lãnh thêm ba vị Quận vương, ba vị Ngự tiền đại thần, ba vị Quân cơ đại thần cùng một vị Sư phó liên hợp thỉnh tấu, đình chỉ sửa sang Viên Minh Viên. Lưỡng cung Thái hậu phải đích thân điều đình.
Năm Đồng Trị thứ 13 (1874), ngày 10 tháng 11 (âm lịch), Đồng Trị Đế bệnh nặng, Lưỡng cung Thái hậu lại [Tạm lãnh triều chính; 暂览朝政]. Sang ngày 5 tháng 12 (tức ngày 13 tháng 1 năm 1875), Đồng Trị Đế băng hà khi mới 19 tuổi tại Dưỡng Tâm điện.
Theo nhiều truyền thuyết, với sự hỗ trợ của một số tiểu thái giám và bạn thân là Tải Chính (con trai của Cung Thân vương), Đồng Trị Đế đã tìm cách trốn khỏi Tử Cấm Thành, cải trang thành thảo dân và đến tìm vui trong các kỹ viện ở Bắc Kinh. Những cuộc vui chơi của Hoàng đế thường xuyên đến nỗi nhiều người đã biết đến nó và trong cung bắt đầu lan truyền nhiều lời đàm tiếu. Huyền sử cho rằng trong một lần như vậy, Hoàng đế đã mắc bệnh giang mai. Tuy nhiên, các Thái y trong cung tuyên bố ông bị đậu mùa. Dựa trên góc nhìn của y học hiện đại, bệnh giang mai không thể gây ra cái chết nhanh chóng đến vậy. Do đó, các sử gia tin rằng Đồng Trị Đế thực sự đã mất vì bệnh đậu.
Thời đại Quang Tự
Vua mới lên ngôi
thumb|Quang Tự Đế Đồng Trị không con mà chết, chính quyền rơi vào tình trạng bất ổn, vì phải chọn ra người thích hợp để thừa kế. Vì Đồng Trị Đế là con trai độc nhất của Hàm Phong, nên tính ra thứ hệ là dòng dõi Hàm Phong đã tuyệt tự. Sau khi Đồng Trị băng hà khoảng 2 canh giờ, tại Tây Noãn các của Dưỡng Tâm điện đã diễn ra họp mặt của các Hoàng thúc, gồm: Đôn Thân vương Dịch Thông, Cung Thân vương Dịch Hân, Thuần Thân vương Dịch Hoàn, Phu Quận vương Dịch Huệ cùng các đại thần khác như Dịch Khuông, Cảnh Thọ. Đầu tiên có người thỉnh vì Đồng Trị Hoàng đế lập tự, hơn nữa nhắc tới Phổ Khản, Phổ Luân là 2 người có khả năng, nhưng Đôn Thân vương phản đối và nói "Thân thích họ xa thì không được", thế rồi Từ Hi Thái hậu liền nhân đó tán thành, liền cơ hội đề nghị Tải Điềm (載湉), con trai của Thuần Thân vương cùng em gái của bà là Uyển Trinh. Từ An Hoàng thái hậu cuối cùng cũng đồng ý.
Sau đó, ngày 7 tháng 12, Tải Điềm lên ngôi tại Dưỡng Tâm điện, tức là Thanh Đức Tông Quang Tự Hoàng đế. Lưỡng cung Hoàng thái hậu tiếp tục thùy liêm thính chính, chỉ dụ của Lưỡng cung gọi là Ý chỉ (懿旨), còn của Hoàng đế gọi là Dụ chỉ (谕旨). Lúc này, Từ An Hoàng thái hậu bắt đầu ngụ ở Đông lục cung Chung Túy cung, còn Từ Hi Hoàng thái hậu trú tại Trường Xuân cung.
Năm Quang Tự nguyên niên (1875), ngày 20 tháng 1, Lưỡng cung Hoàng thái hậu ý chỉ để Tải Điềm chính thức đăng quang tại Thái Hòa điện, tế cáo thiên địa, Tông miếu, Xã tắc. Sau khi đăng ngai, Hoàng đế đến Càn Thanh cung lạy trước ngự dung của Đồng Trị Đế, sau đó đến Chung Túy cung lạy Từ An Hoàng thái hậu, Trường Xuân cung lạy Từ Hi Hoàng thái hậu, và đến Trữ Tú cung lạy Gia Thuận Hoàng hậu.
Từ Hi Thái hậu ép Quang Tự Đế gọi Từ An Thái hậu là [Hoàng ngạch niết; 皇額捏], còn gọi mình là [Thân ba ba; 親爸爸] với mục đích xác lập vị trí trụ cột cho bản thân. Lên ngôi khi còn trẻ, Quang Tự Đế bắt đầu việc học hành khi lên 5 tuổi dưới sự hướng dẫn của Ông Đồng Hòa, người sau này trở thành bạn thân và một vị đại thần tin cẩn của Hoàng đế.
Năm Quang Tự thứ 2 (1876), ngày 3 tháng 7, dâng thêm huy hiệu 4 chữ, toàn xưng là Từ Hi Đoan Hựu Khang Di Chiêu Dự Trang Thành Hoàng thái hậu (慈禧端佑康颐昭豫莊誠皇太后).
Bệnh tật và cái chết của Từ An Thái hậu
thumb|Từ An Hoàng thái hậu. Năm Quang Tự thứ 6 (1880), Từ Hi Thái hậu lại lâm bệnh nặng, theo nhiều bằng chứng thì đó là bệnh kiết lỵ. Cơn bệnh này của Từ Hi Thái hậu kéo dài từ giữa năm đến cuối năm ấy, sau một thời gian tạm thời ổn định thì qua năm Quang Tự thứ 7 đầu năm lại tái phát. Lần tái phát này thực sự nghiêm trọng, vì căn cứ cung đình ghi chép, đã có dấu hiệu chuẩn bị an táng. Trong thời gian này, Từ An Thái hậu đều phải tự mình thân chính. Tuy nhiên cùng năm Quang Tự thứ 7, ngày 10 tháng 3 (tức ngày 8 tháng 4 dương lịch), chính Từ An Thái hậu cảm thấy không khỏe nên không đến Dưỡng Tâm điện nghe chính, đêm đó đột nhiên qua đời tại Chung Túy cung trong sự kinh ngạc của triều thần, hưởng thọ 44 tuổi.
Mặc dù trẻ hơn Từ Hi Thái hậu tới 2 tuổi, nhưng với địa vị chí Trung cung Hoàng hậu của Hàm Phong Đế, Từ An Thái hậu là người quyết định hầu hết các vấn đề trong nội bộ hoàng tộc. Một số giả thuyết cho rằng đã có sự rạn nứt trong mối quan hệ giữa 2 vị Thái hậu sau khi Từ An Thái hậu chém đầu thái giám thân cận của Từ Hi là An Đức Hải khi trước, sau đó là việc đại hôn của Đồng Trị Đế - khi Hoàng đế đã chọn A Lỗ Đặc thị mà Từ An Thái hậu chọn lựa, hơn là Phú Sát thị người được Từ Hi Thái hậu yêu mến.
Do Từ An Thái hậu qua đời quá nhanh, nghi vấn về sự liên quan của Từ Hi Thái hậu trong cái chết của bà là không tránh khỏi. Có lời đồn cho rằng chính Từ Hi Thái hậu đã thủ tiêu bà vì bà có di chiếu bí mật của Hàm Phong Đế để lại trước khi băng hà. Đây cũng chính là lời đồn đoán được lưu truyền phổ biến nhất về cái chết của bà. Lời đồn nói rằng: ngay trước khi lâm chung, Hàm Phong Đế đã cảm thấy Từ Hi về sau ắt tạo loạn, nên bí mật lập chiếu dụ, dặn dò Từ An Thái hậu nếu Từ Hi cậy tử làm xằng làm bậy thì lấy đạo dụ này ra, căn cứ theo tổ tông gia pháp mà trị tội. Sau khi Hàm Phong Đế băng hà, Từ An Thái hậu từng gọi Từ Hi Thái hậu đến và đưa ra mật dụ, lấy cảnh báo tỉnh, khiến Từ Hi nơm nớp lo sợ. Vì thế, suốt thời Đồng Trị, Từ Hi Thái hậu an phận thủ thường, đối với Từ An Thái hậu muôn phần cung kính, không hề làm trái. Do thấy Từ Hi Thái hậu như vậy phụng dưỡng mình, Từ An Thái hậu dần tháo bỏ cảnh giác.
Một ngày, Từ An Thái hậu bị bệnh, uống thuốc khác không khỏi, nhưng đến khi ăn thứ của Từ Hi Thái hậu thì kỳ diệu khỏi hẳn. Phấn chấn, Từ An đi dạo Di Hòa Viên, thấy cánh tay Từ Hi Thái hậu băng bó mới tra hỏi. Từ Hi thuật lại việc mình cắt cổ tay làm mồi nhử thuốc cho Từ An uống, trần tình rất là thống khổ cảm động. Từ An là người nhân từ, nghe thế rất cảm động, mới hồi cung, trước mặt Từ Hi Thái hậu mà đốt mật dụ năm nào. Sau đó, Từ Hi Thái hậu không còn kiêng dè gì, câu kết Thái y hại chết Từ An Thái hậu, dần giành quyền độc bá triều chính. Câu chuyện này thậm chí ghi vào Sùng Lăng truyện tín lục (崇陵传信录), về sau dù cho có vài dị bản của câu chuyện đi nữa, nhưng những giả thiết cùng dị bản ấy đều thống nhất rằng: [Từ Hi đã giết chết Từ An]. Tuy nhiên, đó chỉ là một dạng tác phẩm văn học dân gian, bị ảnh hưởng qua rất nhiều đồn đoán, sự thực không thể tham khảo được. Do thiếu nhiều bằng chứng nên các nhà sử học vẫn chưa thống nhất về câu chuyện này.
Từ khi Lưỡng cung thính chính, vấn đề lớn nhất từng giải quyết là Thái Bình Thiên Quốc, dù có cực kỳ lớn thế nhưng vẫn chỉ gói gọn ở [Nội loạn]. Sau khi Từ An Thái hậu băng hà, Từ Hi Thái hậu một mình nhiếp chính, Đại Thanh bước vào liên miên những vấn đề chiến tranh với nước Pháp và nước Anh, chiến tranh Giáp Ngọ,... áp lực đều không như nhau. Từ năm 1881 tới 1883, Từ Hi Thái hậu chủ yếu trao đổi với các đại thần qua văn bản Thêm vào đó, Quang Tự Đế có cũng vài lần buộc thiết triều mà không có Từ Hi Thái hậu ở đằng sau thính chính.
Giáp Thân dịch xu
thumb|Thuần Thân vương Dịch Hoàn - cha đẻ của Quang Tự Sự kiện [Giáp Thân dịch xu; 甲申易枢] là một trong 3 chính biến lớn nhất mà Từ Hi Thái hậu tham dự (lần đầu chính là Chính biến Tân Dậu, và lần cuối là Chính biến Mậu Tuất). Sự việc này xảy ra khi Từ Hi Thái hậu đột ngột biếm truất Cung Thân vương Dịch Hân.
Năm Quang Tự thứ 10 (1884), Trữ Tú cung được trùng tu quy mô lớn, nối với Dực Khôn cung ở phía Nam vào làm một. Từ Hi Thái hậu dọn từ Trường Xuân cung sang ở cung điện mới này để tỏ rõ danh phận của mình. Cũng vào chính lúc đó, Cung Thân vương Dịch Hân - người đã từng nắm giữ vị trí lãnh đạo triều đình, cảm thấy bị đe dọa bởi sự chuyên quyền của Từ Hi Thái hậu. Ông tự mình quyết định nhiều vấn đề, trong đó đỉnh cao là tuyên chiến với nước Pháp, dẫn đến Chiến tranh Pháp - Thanh mà Trung Quốc là kẻ bại trận. Nhân cơ hội này, Từ Hi Thái hậu loại bỏ Cung Thân vương và những người ủng hộ ông trong Quân cơ xứ, bao gồm Bảo Vân (宝鋆), Lý Hồng Tảo (李鸿藻) cùng Cảnh Liêm (景廉). Thầy dạy của Quang Tự Đế là Ông Đồng Hòa cũng bị cách chức, rời khỏi Quân cơ xứ.
Tháng 3 năm ấy, Từ Hi Thái hậu giáng Cung Thân vương xuống chức Cố vấn, bắt giam lỏng tại nhà riêng, cắt hết lương bổng Thân vương. Cùng một ngày, lại ban phát chỉ dụ:
Như vậy, Từ Hi Thái hậu đã mượn cuộc bại chiến này với nước Pháp để gạt bỏ Cung Thân vương, cũng như thay thế toàn bộ Quân cơ xứ - cơ quan có quyền điều hành Đại Thanh nhất. Bà thay thế Cung Thân vương bởi Thuần Thân vương Dịch Hoàn - cha ruột của Quang Tự Đế. Thuần Thân vương Dịch Hoàn sau đó được bổ nhiệm vào một số vị trí quan trọng khác, trong đó có Đô đốc Hải quân. Với nỗ lực chứng tỏ sự trung thành và để bảo vệ con trai của mình đang ở bên Từ Hi Thái hậu, ông đã quyết định dùng số tiền nâng cấp hải quân để xây dựng Di Hòa Viên làm nơi Từ Hi Thái hậu sẽ an dưỡng tuổi già.
Đối với chính biến lần này của Từ Hi Thái hậu, đương thời đánh giá tiêu cực, vì cả ba người Thế Đạc, Dịch Hoàn cùng Dịch Khuông đều là những người không mấy tài cán lại nhu nhược, so về ý chí cũng như khả năng ngoại giao đều thua xa Cung Thân vương. Dẫu vậy, do Cung Thân vương đe dọa quá lớn đến vị trí của mình, Từ Hi Thái hậu thà chọn những người tài năng có hạn còn hơn là một vị Thân vương có quá nhiều danh tiếng lừng lẫy. Đương thời dân gian có câu châm chọc: [Dịch trung xu dĩ nô mã, đại lô phục dĩ sài hồ; 易中枢以驽马,代芦服以柴胡]. Trong đó, [nô mã] tức là "con ngựa ngu", còn [sài hồ] là một loại cỏ cao hơn cỏ lau một chút; ý tứ của câu này "Bỏ tốt lấy dốt", so sánh toàn thể Quân cơ xứ chỉ là một đám bù nhìn của Từ Hi Thái hậu. Từ đây trở đi, quyền lực của Từ Hi Thái hậu lại dần được mở rộng, không còn ai có thể ngăn cản bà chuyên quyền được nữa, dù cho là Quang Tự Đế.
Đại hôn của Quang Tự Đế
thumb|Cháu gái của Từ Hi Thái hậu - Hoàng hậu Diệp Hách Na Lạp thị Theo nguyên tắc, Quang Tự Đế bắt đầu được cai trị độc lập khi lên 16 tuổi, lúc đó Lưỡng cung Thái hậu sẽ thôi nhiếp chính và triệt liêm hoàn chính cho Hoàng đế, điều này đã là một "khế ước" vào ngày Quang Tự Đế được đón vào cung. Mỗi ngày mỗi tháng Quang Tự Đế trưởng thành, quyền lực của Từ Hi Thái hậu cũng dần giảm đi.
Năm Quang Tự thứ 12 (1886), ngày 10 tháng 6 (âm lịch), trong [Ý chỉ] của Từ Hi Thái hậu đã nhắc lại khế ước năm xưa, ngoài ra còn nói: ["Khâm Thiên giám lựa chọn ngày lành, sang năm cử hành đại điển đăng cơ cho Hoàng đế"]. Ngoài mặt, Từ Hi Thái hậu ra vẻ không tham quyền lực, luôn sẵn sàng trao lại quyền cho Hoàng đế, thế nhưng thực tế bà lại ngấm ngầm muốn tìm biện pháp mình có thể tiếp tục nắm đại quyền mà không quá lộ liễu như việc buông mành nhiếp chính.
Thuần Thân vương Dịch Hoàn, sau sự kiện [Giáp Thân dịch xu] có thể thay thế Cung Thân vương vào Quân cơ xứ, do đó ông bị buộc phải trở thành tâm phúc của Từ Hi Thái hậu. Với bản tính thận trọng, nên Dịch Hoàn đã sớm nhìn ra ý tứ này của bà. Thế là chỉ 5