✨Thái hậu

Thái hậu

Thái hậu (chữ Hán: 太后; tiếng Anh: Queen Dowager, Queen Mother, Empress Dowager hoặc Empress Mother) là một tước hiệu, danh từ để chỉ mẹ hoặc bà nội của vua tại các quốc gia Hán quyển gồm Trung Quốc, Việt Nam, Nhật Bản và Hàn Quốc.

Tôn hiệu Thái hậu, qua phân định giữa ["Hoàng"; 皇] và ["Vương"; 王] được chia ra làm hai tước hiệu chính:

  • Hoàng thái hậu (Empress Dowager hoặc Empress Mother): dành cho mẹ của các Hoàng đế.
  • Vương thái hậu (Queen Dowager hoặc Queen Mother): dành cho mẹ của các Quốc vương.

Ngoài ra, ["Thái hậu"] cũng là dạng viết tắt của tước hiệu Thái hoàng thái hậu.

Từ nguyên

Khái luận về xuất xứ của danh xưng Thái hậu được đề cập trong Sự vật khởi nguyên (事物紀原) của Cao Thừa (高承) thời nhà Tống:「"Sử ký - Tần bản kỷ viết: Chiêu vương mẫu Mị thị, hiệu Tuyên Thái hậu. Từ đó Vương mẫu đều gọi như vậy"; 《史記秦本紀》曰:昭王母羋氏,號宣太后。王母於是始以為稱。」.

Theo đó, thời Tiên Tần, khi Tần Chiêu Tương vương tôn mẹ là Mị thị làm Tuyên Thái hậu, thì khi đó mới có danh vị Thái hậu dùng để gọi mẹ của quân vương. Về sau, Triệu Hiếu Thành vương cũng theo cách của nhà Tần, tôn xưng mẹ ruột Hiếu Uy Thái hậu. Thời Tần vương Chính tại vị, Hoa Dương Thái hậu là tổ mẫu của Quốc vương, nhưng vẫn như cũ được gọi là Thái hậu, có thể thấy vào lúc này chưa có những tôn hiệu cụ thể cho các Tổ mẫu Thái hậu của Quốc vương. Vào thời nhà Tần, khi Tần vương Chính lên ngôi Hoàng đế, đã quy định mẹ của Hoàng đế gọi là 「Hoàng thái hậu」. Song khi đó Hoa Dương Thái hậu đã qua đời, còn mẹ của Thủy Hoàng là Triệu Cơ khi ấy cũng đã qua đời trước khi ông xưng Đế, và Thủy Hoàng chỉ có thể truy tôn bà làm Đế Thái hậu (帝太后). Từ thời nhà Hán, tôn vị quy định của Hoàng thái hậu rất chặt chẽ, và người đầu tiên trở thành Hoàng thái hậu khi còn sống là Lữ hậu - Hoàng hậu của Hán Cao Tổ Lưu Bang.

Chữ 「Thái; 太」, cũng giống chữ 「Đại; 大」, đều mang ý nghĩa to lớn, cộng thêm tư tưởng "Lấy hiếu vị Thiên" đã khiến địa vị của các Thái hậu rất đặc biệt trong triều đình của các quốc gia Đông Á, bao trùm và có khả năng ảnh hưởng đến Hoàng đế. Điều này đã khiến xuất hiện các hiện tượng Thái hậu chuyên quyền, Lâm triều công khai nhiếp chính, có ảnh hưởng sâu rộng trong văn hóa và lịch sử, mà điển hình là Từ Hi Hoàng thái hậu.

Các nước khác

Tại Châu Âu

Tại Châu Âu, các góa phụ Vương hậu hoặc Hoàng hậu đều được gọi theo tước hiệu kèm 「Dowager」. Từ "Dowager" này, căn cứ theo bộ sách từ điển bách khoa năm 1902, The New International Encyclopædia, họ có giải thích: *「"DOWAGER (OF. douagiere, from douage, dower, from douer, doer, Fr. douer, It., Lat. dotare, to endow, from Lat. dos, dower). A widow with a dower (q.v.). A title commonly applied only to the widows of persons of high rank. The Queen dowager in Great Britain, as the widow of the King, enjoys most of the privileges which belonged to her as Queen consort; but it is not high treason to conspire her death, because the succession to the crown is not thereby endangered"」.

  • DOWAGER, một góa phụ với của cải mà chồng để lại (Dower), nó chỉ dùng như một tước hiệu cho các góa phụ của đàn ông có địa vị cao. Còn như "Queen dowager" tại nước Anh (nguyên văn gọi Great Britain), vì là góa phụ của một Quốc vương (King), nên họ thừa hưởng các nghi lễ như hồi các bà còn là "Queen consort" (có thể dịch là Vương hậu); nhưng khi âm mưu giết các vị này thì người đó sẽ không bị phán "High treason", vì những người thừa kế (hay tại vị) không bị nguy hiểm tính mạng.

Có thể thấy kể từ khi là góa phụ, các vị Queen cùng Empress chỉ là "Dowager", nên họ không có chuyện càng cao thì hiển nhiên càng lớn như Thái hoàng thái hậu của Đông Á, do vậy họ cũng không được thêm kiểu "Thái hoàng" hay "Thái vương" trước tước hiệu góa phụ của mình. Địa vị của các "Dowager" tại Châu Âu đơn thuần chỉ là góa phụ, và dù họ vì từng là Queen hay Empress mà được tôn trọng, nhưng tính mạng của họ không còn là mối bận tâm lớn nhất nữa, và đôi khi họ cũng không phải lúc nào cũng được hưởng quyền lợi. Cũng có cách gọi đảo "Dowager" lên trước, như 「Dowager Queen」. Những đãi ngộ tiếp tục chỉ được duy trì khi họ có thân phận là mẹ của Tân vương, và lúc này họ thường sẽ được gọi là 「"Queen Mother"」 hay 「"Empress Mother"」, tương đương Vương thái hậu cùng Hoàng thái hậu nếu xét theo tước hiệu triều đại Đông Á.

Do các tước hiệu phụ nữ Châu Âu phần lớn là những tước hiệu nhã xưng (Courtesy title), họ chỉ có được khi hôn nhân, do đó chỉ 「Những người từng là Queen hay Empress mới được gọi thành Queen Dowager (Queen Mother) hay Empress Dowager (hay Empress Mother)」.

Điều ở trên hết sức quan trọng, vì địa vị của Thái hậu ở Châu Âu không phải lúc nào cũng là "mẹ" hay "bà nội" của quân chủ như các triều đại Đông Á. Các triều đại Đông Á dùng quan niệm đanh thép trong phép truyền ngôi là 「Cha truyền con nối」, nên dù "Thái hậu" có liên hệ máu mủ hay không thì vị quân chủ được truyền kế vị đều phải xem họ như mẹ cả trên pháp lý, ví dụ cho chuyện này có trường hợp Hiếu Chiêu Thượng Quan hoàng hậu thời Hán Tuyên Đế (Tuyên Đế nhận Hán Chiêu Đế làm Tự phụ); cùng Từ An Hoàng thái hậu - Từ Hi Hoàng thái hậu thời Quang Tự (Quang Tự nhận Hàm Phong làm Tự phụ). Dĩ nhiên cũng có ngoại lệ, khi quốc chủ muốn tôn dòng dõi cha mẹ hơn bình thường, có Đại lễ nghị của nhà Minh. Thế nhưng trong đại đa số trường hợp thì các triều đại Đông Á đều xem "Cha truyền con nối" làm trọng, vị quân chủ kế nhiệm đều phải có "thân phận" là con của người tiền nhiệm, hay người tiền nhiệm trước đó nữa.

Ngược lại với Đông Á, bởi vì một vị "Queen (Empress) góa phụ" chỉ đơn giản là hôn phối của quân chủ tiền nhiệm, rất nhiều vị "Thái hậu" tại Châu Âu lại không có liên hệ mẹ con hoặc máu mủ với vị quân chủ kế nhiệm, mà điển hình là Elizabeth Woodville thời Henry VII nhà Tudor và Adelheid xứ Sachsen-Meiningen thời Victoria của Anh. Những người là mẹ ruột của nhà Vua tại Châu Âu, nếu họ chưa từng là Queen hay Empress thì vào thời điểm người con lên ngôi Vua, bản thân họ không thể được tôn xưng những danh xưng "Queen (Empress) dowager" tương ứng được. Tuy nhiên, địa vị 「"Mẹ ruột của nhà Vua"」 cũng khiến họ có cơ hội được hưởng các đãi ngộ và sự tôn trọng tuyệt đối trong triều đình của vị Vua ấy, thậm chí có thể vượt trên các "Thái hậu", đây cũng là điểm mấu chốt khiến Châu Âu coi trọng liên hệ thực tế hơn là liên hệ pháp lý. Ví dụ điển hình của chuyện này là Elizabeth Woodville cùng Lady Margaret Beaufort, một là mẹ vợ của Quốc vương Henry VII và người còn lại là mẹ ruột của Quốc vương. Vì là góa phụ của Edward IV của Anh, Elizabeth Woodville được gọi là Thái hậu, tức "Queen dowager", nhưng bà mau chóng bị Henry VII gạt đi khỏi triều đình để tôn mẹ ruột là Lady Margaret Beaufort lên trên, tuy rằng vì vấn đề thân phận dựa vào hôn phối mà Lady Margaret vẫn phải dưới Vương hậu Elizabeth xứ York. Thời kỳ Henry VII, Lady Margaret được hưởng một danh xưng nhằm nhấn mạnh địa vị "mẹ Vua" của bà, là 「My Lady the King's Mother」, có thể được hiểu theo tiếng Việt thành 「"Đức bà Vương mẫu"」 hay 「"Đức bà, Thân mẫu của nhà Vua"」.

Cũng có khi các vị Vua quá phụ thuộc vào mẹ cũng như tôn trọng mẹ, không để các bà chỉ là "góa phụ", nên có nhiều hành động nâng cao địa vị vượt cả vợ mình. Trường hợp này có Quốc vương Karl XI của Thụy Điển đối với mẹ mình, Hedwig Eleonora xứ Schleswig-Holstein-Gottorf. Khi đó ông đã có Queen là Ulrikke Eleonore của Đan Mạch, nhưng ông vẫn để mẹ mình là "The Queen" duy nhất, cùng tôn xưng 「Her Majesty the Queen, My Dear Lady Mother」, cháu trai bà là Karl XII gọi bà là 「"My Gracious Lady Grandmother"」. Caterina de' Medici qua 3 đời con đều làm Quốc vương của Vương quốc Pháp, sở dĩ bà vẫn giữ được địa vị là vì bà có danh nghĩa nhiếp chính, tức 「Gouvernante de France」, và tiếp tục duy trì sự ảnh hưởng của mình qua quyền lực thực tế. Có thể nói "đặc quyền" của các Thái hậu tại Châu Âu được quyết định qua bởi bà ấy có được tín nhiệm bởi con trai hay không, có quan hệ máu mủ với Tân vương hay không.

Khu vực Trung Nam Á

thumb|Mô phỏng "triều đình" của một Valide Sultan, [[Cung điện Topkapı.]] Tại các nước theo Hồi giáo như Đế quốc Ottoman hay Đế quốc Mughal, các mẹ của quốc chủ đều được tôn xưng địa vị tuyệt đối. Và vì hai quốc gia này dùng danh xưng bản ngữ, cũng như được phiên dịch qua tiếng Anh, đều tương đương "Hoàng đế" cùng "Hoàng hậu", nên các thân mẫu của quốc chủ đều có thể dịch thoải mái ra thành "Hoàng thái hậu" tương tự các triều đại Đông Á.

Tại chế độ của Đế quốc Ottoman, 「Valide Sultan; والده سلطان」, "Mẹ của Sultan" hay "Quốc mẫu", là danh hiệu dành cho những người mẹ còn sống của các Sultan đang trị vì. Và cũng như các triều đại Đông Á, thì danh xưng này như một tước hiệu độc lập và có địa vị trong hoàng thất rất cụ thể, họ thường là đứng đầu của cả hậu cung chứ không chỉ là "góa phụ" như Châu Âu, đồng thời chỉ những mẹ ruột của các vị Sultan mới có được danh xưng này. Và cũng như các triều đại Đông Á xem trọng Nho giáo, lấy chữ "Hiếu" làm đầu và rất coi trọng người mẹ, các vị Sultan theo Hồi giáo cũng xem trọng quyền lợi của mẹ mình. Từ những quan niệm đó, các vị Valide Sultan cũng có quyền hành tuyệt đối trong triều đình, họ đứng trên tất cả phụ nữ trong hậu cung, và khi Sultan còn nhỏ hoặc quá phụ thuộc vào họ thì họ hoàn toàn có thể can thiệp chính trị. Và cho dù 「"Sultan"; والده」 được dùng không chỉ mẹ, chị em, con gái của Sultan, mà một số Hậu phi của Sultan cũng được dùng danh xưng này kèm theo tên hiệu riêng. Từ sau thế kỉ 17, hậu cung Ottoman có danh hiệu riêng cho Hậu phi như "Kadin", thì "Sultan" chỉ còn dùng cho mẹ của Sultan cùng chị em hoặc con gái của Sultan mà thôi. Các Valide Sultan cũng là những người phụ nữ duy nhất không phải con gái Sultan mà vẫn có danh xưng này.

Chế độ của Đế quốc Mughal, có danh hiệu 「Padshah Begum; پادشاہ بیگم」 không chỉ dùng cho vợ cả của Hoàng đế, mà là chị em gái, hoặc là mẹ của Hoàng đế, chỉ cần người giữ danh hiệu này còn sống thì sẽ đi theo kể từ khi ban phong, sau khi người đó qua đời thì huy hiệu này mới giao cho người kế nhiệm (giống trường hợp tước hiệu Tawananna). Ngoại trừ "Padshah Begum" thì không còn danh hiệu đặc thù địa vị nữ quyến nào tồn tại trong hoàng tộc Mughal. Thường thấy nhất, từ Chính thê, Thứ thê, Thị thiếp đến con gái của Hoàng đế đều có thành tố Begum sau tên hiệu chính thức, ngoài ra còn có Bai, Mahal, Nazuk Badan,... Tuy nhiên, đa phần lớn trong lịch sử Mughal, gia phong tước hiệu cho Thê thiếp hoặc Đế mẫu chỉ là mỹ hiệu tùy hứng mà không có thứ tự như chế độ Ottoman. Ví dụ Hamida Banu Begum, mẹ của Hoàng đế Akbar, được con trai dâng tôn hiệu 「Maryam Makani」, có nghĩa là "Đức mẹ của hai Thế giới", mẹ của Hoàng đế Shah Jahan là Jagat Gosain được tôn xưng 「Bilqis Makani」, có nghĩa là "Quý phu nhân của nơi Thần thánh Pure Abodes", lại như Hoàng hậu Nur Jahan của Hoàng đế Jahangir ban đầu có phong hiệu 「Nur Mahal」 có nghĩa là "Ánh sáng của Hoàng cung", sau lại chuyển thành như hiện tại có nghĩa "Ánh sáng của Thế giới",... Những tước hiệu này hoàn toàn không có quy luật về địa vị, đơn giản là mỹ hiệu. Ngoài những danh hiệu ảnh hưởng từ văn hóa Hồi giáo và Ba Tư, thì tại Ấn Độ cũng có những danh hiệu xuất phát từ ngôn ngữ bản địa, trong đó có 「Rajamata; राजमाता」 có nghĩa là "Đức bà Vương mẫu", dành cho mẹ của một vị Vua mang tước Vương trong văn hóa Ấn Độ là Raja (có nghĩa là King) hay Maharaja (có nghĩa King of Kings hoặc Great King). Tại các triều đại Ba Tư như nhà Safavid và nhà Qajar, mẹ của một vị Shah thường được gọi là 「Mahd-i Ulya; مهد علیا」.

Cũng như văn hóa Đông Á vì xem trọng chữ "Hiếu" mà để người mẹ lên trên, văn hóa Hồi giáo cùng bản địa Ấn Độ cũng đều xem trọng quyền lợi của người mẹ, đặc biệt là mẹ của các vị Vua chúa có "Quân quyền", do đó trong lịch sử Đế quốc Ottoman cùng Mughal đều có các Thái hậu can dự chính sự, Đế quốc Ottoman còn phải trải qua thời kỳ Nữ hậu chuyên chính được gọi là 「Kadınlar saltanatı」, khi không chỉ các Thái hậu mà các Hoàng hậu cùng Công chúa hoàng gia cũng dùng địa vị "Sultan" can dự chính sự. Bản thân danh hiệu "Mahd-i Ulya" của mẹ các vị Shah nhà Safavid và Qajar được hiểu là "Sublime Cradle", tức "Cái nôi hùng vĩ", tôn vinh vai trò của một người mẹ.

Vùng văn hóa khác

Vùng văn hóa Đông Nam Á như Miến Điện, Thái Lan cùng Campuchia đều có ngôn ngữ bản địa mạnh, việc gia phong vị hiệu không chỉ thay đổi theo từng quốc gia mà là từng triều đại của mỗi quốc gia. Nhìn chung, các người vợ của Quốc vương đều xuất thân từ vương thất, dù từng là Vương hậu hay chưa, sau khi có con trai là Tân vương kế nhiệm liền sẽ có tôn hiệu đặc thù mà đa phần là huy hiệu với ý nghĩa tôn vinh, hoặc là tên riêng của bà.

Xét ví dụ về trường hợp vương thất Thái Lan, có rất nhiều cấp bậc dành cho Vương hậu, ngoài Chính hậu còn có Thứ hậu, các Vương phi chính thức có địa vị cao và Thứ phi cùng Ngự thiếp có địa vị thấp đều được quy định rõ ràng. Vương hậu Saovabha Phongsri, bà từng là 「"Somdet Phra Nang Chao Saovabha Phongsri Phra Boromma Rajini Nat"; สมเด็จพระนางเจ้าเสาวภาผ่องศรี พระบรมราชินีนาถ」, sau khi con trai kế nhiệm liền được dâng danh hiệu 「Borommarachini; พระบรมราชชนนี」 có nghĩa tương đương "Vương mẫu bệ hạ" hay "Đức bà Vương mẫu", khẳng định địa vị mẹ của Quốc vương. Nếu không phải Vương hậu mà là Vương phi có con trai kế thừa Vương vị, như trường hợp của Srinagarindra, thì bà sẽ được dâng tôn hiệu 「Borommaratchachonnani; บรมราชชนนี」. Tại vương thất Miến Điện, tuy rằng có xuất hiện danh từ ám chỉ Thái hậu là 「Pwa Saw; ဖွားစော」, nhưng tôn hiệu của một Vương mẫu lịch sử Miến Điện lại không có một danh từ cụ thể mà thường là mỹ tự, đôi khi là tên thật, hoặc biệt danh và phổ biến nhất là huy hiệu khi trở thành Vương hậu. Ví dụ như mẹ của Quốc vương Alaungpaya là Đức bà Saw Nyein Oo, sau khi con trai lên ngôi được tôn danh xưng danh hiệu 「Maha Devi; မဟာဒေဝီ」 - trong đó "Maha" nghĩa là vĩ đại, còn "Devi" là một mỹ tôn trong văn hóa Ấn Độ mang nghĩa nữ thần. Lại như mẹ của các Quốc vương Naungdawgyi, Hsinbyushin và Bodawpaya, Đức bà Yun San, bà có đầy đủ tôn xưng kể từ khi trở thành Chính hậu của Alaungpaya là Maha Mingalar Yadanar Dhipati Thirirajasanda Devi (မဟာမင်္ဂလာရတနာဓိပတိသီရိရာဇာစန္ဒာဒေဝီ), nhưng hay được gọi tắt thành 「Sanda Devi; စန္ဒာဒေဝီ」.

Tại Châu Phi, các Thái hậu, "Vương mẫu" hoặc "Vua bà" có vai trò rất lớn trong các Bộ quốc hoặc Vương quốc, đặc biệt là với người Akan, đây được cho là tàn dư chế độ mẫu hệ. Tại những vùng đất bị ảnh hưởng bởi văn hóa Akan như Ghana, luôn có một vị nắm giữ vai trò Thái hậu bên cạnh bộ máy cai trị chính thức. Vai trò của một Thái hậu rất to lớn, có toàn quyền ảnh hưởng lên cách cai trị của một vị Vua của Bộ quốc hoặc Vương quốc mà không bị ngăn cản, ví dụ nổi tiếng có bà Yaa Asantewaa. Trong ngôn ngữ Akan, Thái hậu được gọi là 「Ohemaa」 - có nghĩa là "Nữ chúa tể" hay "Vua bà", và vai trò của các Thái hậu người Akan được khuếch trương nhất khi họ có thể song hành ngang vai vế với vị Vua. Tại ngôn ngữ Benin thì Thái hậu được gọi là 「Iyoba」 - có nghĩa là "Đức bà mẹ Vua", về ý nghĩa thì họ giúp đỡ con trai mình trên ngai vàng, danh hiệu này được sinh ra kể từ khi tranh chấp quyền lực của Vua Esigie và ông được mẹ là Idia bảo hộ.

Nhân vật đáng chú ý

;

Thế giới Khổng giáo

Tập tin:Hoang_Thi_Cuc.jpg|Đức Từ Cung - mẹ của Hoàng đế Bảo Đại, vị _"Thái hậu"_ cuối cùng trong lịch sử Việt Nam Tập_tin:Half_-_Empress_XiaoDing.PNG|Long Dụ Hoàng thái hậu - vợ của Quang Tự, là vị _"Thái hậu"_ cuối cùng trong lịch sử Trung Quốc File:Empress Nagako-1926.jpg|Hương Thuần Hoàng thái hậu - Hoàng thái hậu Nhật Bản, mẹ của Thiên hoàng Akihito File:서울_마포_고려_공민왕_내외_영정.jpg|Lỗ Quốc Đại trưởng công chúa Bảo Tháp Thất Lý - chính phi của Cao Ly Cung Mẫn vương, sau khi qua trời truy tặng Nhân Đức Thái hậu

;

Thế giới Cơ Đốc giáo

Tập tin:Workshop of Martin van Meytens Kaiserin Maria Theresia.jpg|Maria Theresia, _Kaiserin von Österreich_ - Hoàng thái hậu của Thánh chế La Mã, mẹ của Hoàng đế Joseph II cùng Leopold II Tập tin:Queen Elizabeth the Queen Mother portrait.jpg|Elizabeth, _The Queen Mother_ - Thái hậu của Liên hiệp Anh, mẹ của đương kim Nữ vương Elizabeth II Tập tin:Catherine de Médicis - entourage de François Clouet.jpg|Caterina de' Medici, _La Reine-mère_ - Thái hậu của Pháp, mẹ của Francis II, Charles IX và Henry III Tập tin:Portrait of Empress Maria Fyodorovna - Google Cultural Institute.jpg|Mariya Fyodorovna, _Вдовствующая императрица_ - Hoàng thái hậu của Đế quốc Nga thời kỳ Hoàng đế Alexander I Tập tin:Portret van koningin Emma, prinses van Waldeck-Pyrmont (1858-1934) RKD – Nederlands Instituut voor Kunstgeschiedenis..jpg|Emma xứ Waldeck và Pyrmont là vợ thứ hai của Vua Willem III và là mẹ của Nữ vương Wilhelmina của Hà Lan

;

Vùng văn hóa khác

Tập tin:Portrait of Rabia Gülnuş.jpg|Gülnuş Sultan - Hoàng thái hậu của Đế quốc Ottoman, vợ cả của Mehmed IV và là mẹ của Mustafa II cùng Ahmed III Tập tin:A noble lady, Mughal dynasty, India. 17th century.jpg|Badshah Begum, _Malika-uz-Zamani_ - Hoàng thái hậu của Đế quốc Mughal, vợ của Hoàng đế Muhammad Shah Tập tin:Maharani Jind Kaur.jpg|Jind Kaur, _Maharani Sahiba_ - Hoàng thái hậu nhiếp chính của Đế quốc Sikh dưới thời Hoàng đế Duleep Singh Tập tin:Queen Saovabha Phongsri.jpg|Saovabha Phongsri, _Si Phatcharinthra_ - Vương thái hậu của Thái Lan, mẹ của Quốc vương Rama VI cùng Rama VII Tập tin:Nofretete Neues Museum.jpg|Nefertiti - vợ của Akhenaten, tạm nắm quyền trước thời Tutankhamun. Được nghi ngờ từng tự mình trở thành Pharaoh dưới cái tên _Neferneferuaten_ Tập tin:Afrikaabteilung in Ethnological Museum Berlin 29.JPG|Idia - mẹ của Oba Esigie, Vua của Vương quốc Benin
👁️ 0 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Hiếu Khâm Hiển Hoàng hậu**; (chữ Hán: 孝欽顯皇后; ; ; trước đây La Mã hóa là **Từ Hi Thái hậu T'zu-hsi**; 29 tháng 11 năm 1835 – 15 tháng 11 năm 1908), thường được gọi
**Hiếu Trinh Hiển Hoàng hậu** (chữ Hán: 孝貞顯皇后; ; 12 tháng 8, năm 1837 – 8 tháng 4, năm 1881), được biết đến như **Từ An Hoàng thái hậu** (慈安皇太后) hoặc **Đông Thái hậu** (東太后),
**Hoàng thái hậu** (chữ Hán: 皇太后; Kana: こうたいごうKōtaigō; Hangul: 황태후Hwang Tae Hu; tiếng Anh: _Dowager Empress_, _Empress Dowager_ hay _Empress Mother_), thường được gọi tắt là **Thái hậu** (太后), là một tước vị được quy
**Hiếu Trang Văn Hoàng hậu** (chữ Hán: 孝莊文皇后; ; 28 tháng 3, 1613 - 27 tháng 1, 1688), thường được gọi là **Hiếu Trang Thái hậu** (孝莊太后), **Chiêu Thánh Thái hậu** (昭聖太后) hoặc **Hiếu Trang
**Hiếu Định Cảnh Hoàng hậu** (chữ Hán: 孝定景皇后; ; 28 tháng 1 năm 1868 – 22 tháng 2 năm 1913), còn gọi là **Thanh Đức Tông Hoàng hậu** (清德宗皇后), **Long Dụ Hoàng hậu** (隆裕皇后) hay
**Hiếu Thánh Hiến Hoàng hậu** (chữ Hán: 孝聖憲皇后, tiếng Mãn: ; tiếng Mãn Châu: hiyoošungga enduringge temgetulehe hūwangheo; 1 tháng 1 năm 1693 - 2 tháng 3 năm 1777), thường gọi là **Sùng Khánh Hoàng
**Hiếu Tĩnh Thành Hoàng hậu** (chữ Hán: 孝静成皇后, ; 19 tháng 6, năm 1812 - 21 tháng 8, năm 1855), còn gọi **Hiếu Tĩnh Khang Từ Hoàng hậu**, **Khang Từ Hoàng thái hậu** hay **Khang
**Hiến Từ Tuyên Thánh Hoàng hậu** (chữ Hán: 憲慈宣聖皇后, 1299 - 14 tháng 12, 1369), còn hay gọi là **Hiến Từ Hoàng thái hậu** (憲慈皇太后), sách Khâm định chép **Huệ Từ Thái hậu** (惠慈太后), là
**Hồ thái hậu** (chữ Hán: 胡太后, ? - 17 tháng 5, năm 528), còn thường gọi là **Linh thái hậu** (靈太后), một phi tần của Bắc Ngụy Tuyên Vũ Đế, và Hoàng thái hậu nhiếp
**Hiếu Minh Trịnh Thái hậu** (chữ Hán: 孝明鄭太后, ? - 26 tháng 12, 865), hay **Hiếu Minh Trịnh hoàng hậu** (孝明鄭皇后), là một cung nhân của Đường Hiến Tông Lý Thuần, đồng thời còn là
**Từ Cung Hoàng thái hậu** (chữ Hán: 慈宮皇太后; 28 tháng 1 năm 1890 - 9 tháng 11 năm 1980), phong hiệu chính thức là **Đoan Huy Hoàng thái hậu** (端徽皇太后), là phi thiếp của Hoằng
**Linh Chiếu hoàng thái hậu** (chữ Hán: 靈詔皇太后, trước năm 1108 - tháng 7, 1161), còn được biết đến là **Lê Thái hậu** (黎太后) hay **Cảm Thánh phu nhân** (感聖夫人), một phi tần của Lý
**Thọ Hòa Hoàng hậu** (chữ Hán: 寿和皇后; 1210 - 1283), còn gọi là **Thọ Hòa Hoàng thái hậu** (寿和皇太后), là Hoàng hậu duy nhất của Tống Lý Tông Triệu Quân. Với thân phận Hoàng thái
**Nhân Thọ Hoàng thái hậu** (chữ Hán: 仁壽皇太后; ; 28 tháng 4 năm 1660 - 25 tháng 6 năm 1723) hay còn gọi là **Hiếu Cung Nhân hoàng hậu** (孝恭仁皇后), là phi tần của Thanh
**Tích Khánh Tiêu Thái hậu** (chữ Hán: 積慶蕭太后, ? - 1 tháng 6, năm 847), còn được gọi là **Trinh Hiến hoàng hậu** (貞獻皇后), là một phi tần của Đường Mục Tông Lý Hằng, và
**Hiếu Định hoàng thái hậu** (chữ Hán: 孝定皇太后, 21 tháng 12, 1540 - 18 tháng 3 năm 1614), thường gọi là **Từ Thánh hoàng thái hậu** (慈聖皇太后) hoặc **Từ Ninh cung hoàng thái hậu** (慈寧宮皇太后),
**Từ Hiếu Hiến Hoàng hậu** (chữ Hán: 慈孝獻皇后; 7 tháng 3, 1478 - 23 tháng 12, 1538), thông gọi **Hưng Quốc Thái hậu** (興國太后), **Hưng Hiến hậu** (興獻后) hay **Chương Thánh Thái hậu** (章聖皇太后), là
**Hiếu Khang Chương Hoàng hậu** (chữ Hán: 孝康章皇后; ; 29 tháng 2, năm 1640 - 20 tháng 3, năm 1663), thường gọi **Từ Hòa Hoàng thái hậu** (慈和皇太后), là phi tần của Thanh Thế Tổ
**Hiếu Huệ Thiệu Hoàng hậu** (chữ Hán: 孝惠邵皇后 ; ? - 1522), là một phi tần của Minh Hiến Tông Chu Kiến Thâm. Bà sinh ra Hưng Hiến vương, truy tôn Minh Duệ Tông Chu
**Chương Huệ Hoàng hậu** (chữ Hán: 章惠皇后; 984 - 1036), nhưng Tống sử chỉ ghi **Dương Thục phi** (杨淑妃), là một phi tần của Tống Chân Tông Triệu Hằng và là dưỡng mẫu của Tống
**Mẫn Thái hậu Nguyễn thị** (chữ Hán: 愍太后 阮氏, ? - 1799), là vợ thứ Thái tử Lê Duy Vĩ, mẹ Mẫn đế Lê Chiêu Thống, vị Hoàng đế cuối cùng của triều đại nhà
**Chiêu Hiến Hoàng thái hậu** (chữ Hán: 昭憲皇太后; 902 - 17 tháng 7, 961), là Hoàng thái hậu đầu tiên của nhà Tống với vai trò là sinh mẫu của Tống Thái Tổ Triệu Khuông
**Nghĩa An Vương Thái hậu** (chữ Hán: 義安王太后, ? - 22 tháng 2, năm 845 ), còn gọi là **Bảo Lịch Thái hậu** (寶曆太后) hoặc **Cung Hi hoàng hậu** (恭僖皇后), là một phi tần của
**Cung thái hậu** (chữ Hán: 龔太后), không rõ tên thật, (?-562), thụy hiệu: **Nguyên thái hậu** (元太后) là một hoàng thái hậu của triều đại nhà Lương. Bà là thiếp thất của Chiêu Minh thái
**Vương thái hậu** (chữ Hán: 王太后, không rõ năm sinh năm mất) là một hoàng thái hậu tại vị trong thời gian ngắn ngủi của triều đại nhà Lương. Bà là mẹ của Phế Đế
**Thái hoàng thái hậu** (chữ Hán: 太皇太后; Kana: たいこうたいごうTaikōtaigō; Hangul: 태황태후Tae Hwang Tae Hu; tiếng Anh: _Grand Empress Dowager_ hay _Grand Empress Mother_), thông thường được giản gọi là **Thái Hoàng** (太皇) hay **Thái Mẫu**
**Vĩnh Lạc Đổng thái hậu** (chữ Hán: 永樂董太后; ? - 7 tháng 7, năm 189), còn gọi **Hiếu Nhân Đổng hoàng hậu** (孝仁董皇后), là mẹ ruột của Hán Linh Đế Lưu Hoành, đồng thời là
**Chiêu Linh hoàng thái hậu** (chữ Hán: 昭靈皇太后, ? - tháng 7, 1200 ), là một Hoàng hậu, Hoàng thái hậu của nhà Lý, vợ của Lý Anh Tông, mẹ của Phế Thái tử Bảo
nhỏ|Ảnh chụp Anh Chiếu Hoàng hậu, Chuẩn hậu của Thiên hoàng Komei , khuê danh là Nữ ngự, chính thất của Thiên hoàng Hiếu Minh. Đồng thời, bà là mẹ trên danh nghĩa của Thiên
**Thần Minh Vương hậu** (Hanja:神明王后; 900– 951), là một Vương hậu của nhà Cao Ly. Bà là vợ của Cao Ly Thái Tổ, mẹ ruột của Cao Ly Định Tông, Cao Ly Quang Tông. Bà
**Lã hậu** (chữ Hán: 呂后, 241 – 180 TCN), có âm khác **Lữ hậu**, thường gọi **Lã Thái hậu** (呂太后) hay **Hán Cao hậu** (漢高后), là vị Hoàng hậu duy nhất của Hán Cao Tổ
**Chương Hiến Minh Túc Lưu Hoàng hậu** (chữ Hán: 章献明肃劉皇后, 968 - 1033), hay còn gọi là **Chương Hiến Lưu Hoàng hậu** (章獻劉皇后), **Chương Hiến Thái hậu** (章獻太后) hoặc **Chương Hiến hậu** (章獻后), thỉnh thoảng
**Đại Thắng Minh Hoàng hậu** (chữ Hán: 大勝明皇后; 952 - 1000), dã sử xưng gọi **Dương Vân Nga** (楊雲娥), là Hoàng hậu của 2 vị Hoàng đế thời kỳ đầu lập quốc trong Lịch sử
**Hiếu Văn Đậu Hoàng hậu** (chữ Hán: 孝文竇皇后; 205 - 135 TCN), còn gọi là **Đậu Thái hậu** (竇太后), kế thất nhưng là Hoàng hậu tại vị duy nhất của Hán Văn Đế Lưu Hằng,
**Thái hậu** (chữ Hán: 太后; tiếng Anh: _Queen Dowager_, _Queen Mother_, _Empress Dowager_ hoặc _Empress Mother_) là một tước hiệu, danh từ để chỉ mẹ hoặc bà nội của vua tại các quốc gia Hán
**Hòa Hi Đặng Hoàng hậu** (chữ Hán: 和熹鄧皇后; 81 - 121), hay còn gọi **Hòa Hi Đặng thái hậu** (和熹鄧太后), **Đông Hán Đặng thái hậu** (東漢鄧太后), là Hoàng hậu thứ hai của Hán Hòa Đế
**Linh Tư Hà hoàng hậu** (chữ Hán: 靈思何皇后, ? - 30 tháng 9 năm 189), còn gọi **Đông Hán Hà thái hậu** (東漢何太后), là Hoàng hậu thứ hai của Hán Linh Đế Lưu Hoằng, sinh
**Minh Đức Mã hoàng hậu** (chữ Hán: 明德馬皇后; ? - 9 tháng 7, 79), hay thường gọi **Minh Đức hoàng thái hậu** (明德皇太后), **Đông Hán Minh Đức Mã hoàng hậu** (東漢明德馬皇后), **Đông Hán Mã thái
**Đường Trung Tông Vi Hoàng hậu** (chữ Hán: 唐中宗韋皇后, ? - 21 tháng 7, năm 710), thường gọi **Vi hậu** (韋后) hay **Vi Thái hậu** (韋太后) hoặc **Trung Tông Vi Thứ nhân** (中宗韋庶人), kế phối,
**Văn Minh Phùng Hoàng hậu** (chữ Hán: 文明馮皇后, 441 - 17 tháng 10, 490), thường gọi là **Văn Minh Thái hậu** (文明太后) hoặc **Bắc Ngụy Phùng Thái hậu** (北魏冯太后), là Hoàng hậu của Bắc Ngụy
**Vương thái hậu** (chữ Hán: 王太后; Hangul: 왕태후; tiếng Anh: _Dowager Queen_ hoặc _Queen Mother_) là một tước vị dành cho Vương hậu của các Quốc vương đã qua đời, hoặc mẹ đẻ (đôi khi
**Hiếu Hòa Duệ Hoàng hậu** (chữ Hán: 孝和睿皇后, ; 20 tháng 11, năm 1776 - 23 tháng 1, năm 1850), còn được biết đến dưới tên gọi **Cung Từ Hoàng thái hậu** (恭慈皇太后), là Hoàng
**Hiếu Huệ Chương Hoàng hậu** (chữ Hán: 孝惠章皇后, , 5 tháng 11 năm 1641 - 7 tháng 1 năm 1718), **Thanh Thế Tổ Kế hậu** (清世祖继后) hay còn gọi **Nhân Hiến Hoàng thái hậu** (仁憲皇太后),
**Hiếu Trang Duệ Hoàng hậu** (chữ Hán: 孝莊睿皇后; 2 tháng 8, 1426 - 15 tháng 7, 1468), còn gọi là **Từ Ý Hoàng thái hậu** (慈懿皇太后), là Hoàng hậu duy nhất của Minh Anh Tông
**Chiêu Từ Thánh Hiến Hoàng hậu** (chữ Hán: 昭慈聖獻皇后, 1073 - 1131), thường gọi **Nguyên Hựu hoàng hậu** (元祐皇后), **Nguyên Hựu Mạnh hoàng hậu** (元祐孟皇后) hay **Long Hựu Thái hậu** (隆祐太后), là Hoàng hậu đầu
**Tuyên Nhân Thánh Liệt Cao Hoàng hậu** (chữ Hán: 宣仁聖烈高皇后, 1032 - 1093), hay còn gọi **Tuyên Nhân Hoàng thái hậu** (宣仁皇太后) hay **Tuyên Nhân hậu** (宣仁后), là Hoàng hậu duy nhất của Tống Anh
**Hiếu Cảnh Vương hoàng hậu** (chữ Hán: 孝景王皇后; 178 - 126 TCN), thường gọi **Hiếu Cảnh Thái hậu** (孝景太后), là Hoàng hậu thứ hai của Hán Cảnh Đế Lưu Khải. Bà là sinh mẫu của
**Huy Gia Hoàng thái hậu** (chữ Hán: 徽嘉皇太后; 1441 - 8 tháng 4, 1505), hay **Trường Lạc Hoàng hậu** (長樂皇后), là phi tần của hoàng đế Lê Thánh Tông, sinh mẫu của hoàng đế Lê
**Hồ hoàng hậu** (chữ Hán: 胡皇后), là hoàng hậu của Bắc Tề Vũ Thành Đế trong lịch sử Trung Quốc. ## Tiểu sử Bắc Tề thư và Bắc sử không ghi rõ tên thật của
**Thuận Liệt Lương Hoàng hậu** (chữ Hán: 順烈梁皇后; 116 - 150), hay còn được gọi là **Đông Hán Lương Thái hậu** (東漢梁太后), là hoàng hậu của Hán Thuận Đế Lưu Bảo - vị Hoàng đế