Vương thái hậu (chữ Hán: 王太后; Hangul: 왕태후; tiếng Anh: Dowager Queen hoặc Queen Mother) là một tước vị dành cho Vương hậu của các Quốc vương đã qua đời, hoặc mẹ đẻ (đôi khi là bà nội) của Tân Quốc vương, hoặc là mẹ của Hoàng tử mang tước Vương trong thế giới Hán quyển Đông Á.
Tước vị này kém hơn Hoàng thái hậu và tương đương với Vương đại phi, tuy nhiên "Đại phi" là một tước hiệu đặc thù được sử dụng trong hệ thống Nội mệnh phụ của nhà Triều Tiên.
Lịch sử
Khái luận về xuất xứ của danh xưng Thái hậu được đề cập trong Sự vật khởi nguyên (事物紀原) của Cao Thừa (高承) thời nhà Tống:「"Sử ký - Tần bản kỷ viết: Chiêu vương mẫu Mị thị, hiệu Tuyên Thái hậu. Từ đó Vương mẫu đều gọi như vậy"; 《史記秦本紀》曰:昭王母羋氏,號宣太后。王母於是始以為稱。」. Theo đó, thời Tiên Tần, khi Tần Chiêu Tương vương tôn mẹ là Mị thị làm Tuyên Thái hậu, vì vậy mới bắt đầu chuyện dùng danh vị Thái hậu để gọi mẹ của quân vương. Về sau, Triệu Hiếu Thành vương cũng theo cách của nhà Tần, tôn xưng mẹ ruột Hiếu Uy Thái hậu.
Thời nhà Tần, Tần Thủy Hoàng xưng Hoàng đế, quy định mẹ của Hoàng đế gọi là Hoàng thái hậu. Nhà Hán, chư hầu là Hoàng tử mang tước Vương, người mẹ được phong [Vương quốc Thái hậu; 王國太后] và đến đất phong sống cùng con, ví dụ như Bạc Cơ từng là 「Đại Thái hậu; 代太后」 khi con trai bà là Hán Văn Đế Lưu Hằng được phong làm 「Đại vương; 代王」. Sang thời Đông Hán và Tào Ngụy, danh hiệu "Vương quốc Thái hậu" được thay thế bằng danh vị [Vương quốc Thái phi; 王國太妃]. Những bà nội của tước Vương vẫn dùng danh vị Thái hậu, như Hoa Dương Thái hậu cùng các Vương thái hậu thời Tây Hán, chỉ dùng họ vốn có hoặc biệt hiệu đặc thù kèm danh xưng "Thái hậu" như cũ mà không có sự bồi thêm bối phận.
Đến thời Ngũ Hồ Thập lục quốc, có rất nhiều quốc gia nhỏ lẻ khắp Trung Quốc xưng Đế xưng Vương tùy tình thế, và "Vương thái hậu" một lần nữa xuất hiện là danh vị cho mẹ của quân vương. Như Trương Trọng Hoa của nhà nước Tiền Triệu, vừa có đích mẫu Nghiêm thị, vừa có sinh mẫu Mã thị khi ông lên ngôi. Để phân biệt, ông tôn đích mẫu danh hiệu là [Đại vương thái hậu; 大王太后], còn sinh mẫu Mã thị là Vương thái hậu theo thông lệ. Cũng thời Tiền Triệu, Quốc vương Trương Huyền Tịnh kế vị sau cha là Trương Trọng Hoa, tôn tổ mẫu Mã thị làm [Thái vương thái hậu; 太王太后]. Từ nhà Đường định ra chế độ nghiêm ngặt, mẹ của Thân vương đều là ["Thái phi"], và từ đó danh hiệu ["Thái hậu"] chỉ dùng để gọi mẹ các Hoàng đế trong khối Đông Á đồng văn, tức Hoàng thái hậu.
Trong lịch sử Hàn Quốc, nhà Cao Ly xưng Vương nhưng vẫn giữ vị trí độc lập với Trung Hoa, các mẹ của Cao Ly vương đều được tôn xưng danh vị Vương thái hậu qua các đời. Dù đại đa số Thái hậu triều Cao Ly chỉ là thụy hiệu, tức truy tôn sau khi mất nhưng cũng có trường hợp làm Vương thái hậu tại vị. Ví dụ như Hiến Ai Vương hậu Hoàng Phủ thị, sinh mẫu của Cao Ly Mục Tông, dưới thời Cao Ly Thành Tông được tôn làm 「Thiên Thu Thái hậu; 千秋太后; 천추태후Cheonchu-Taehu」, lâm triều nhiếp chính.
Tại Việt Nam, lịch sử nhà Triệu có Cù hậu từng là Vương thái hậu, do các vua nhà Triệu xưng Vương. Tuy Dương Như Ngọc từng là Vương hậu thời Ngô Quyền, song sang thời sau bà chỉ xưng gọi là ["Quốc mẫu"] mà không phải Thái hậu. Từ thời nhà Đinh, các triều đại Việt Nam đều xưng Hoàng đế, từ "Thái hậu" tức ám chỉ đến Hoàng thái hậu. Thời Lê trung hưng, tuy chúa Trịnh xưng Vương nhưng chỉ tôn mẹ làm Thái phi. Tước hiệu Vương thái hậu chỉ xuất hiện một lần thời Gia Long, khi Nguyễn Phúc Ánh vừa xưng Vương, tôn mẹ là Nguyễn Thị Hoàn làm Vương thái hậu vào năm 1803, sau đó sang năm 1806 mới tôn làm Hoàng thái hậu.
Những vấn đề khác
Phân biệt với Hoàng thái hậu
Tước vị Hoàng thái hậu là dành riêng cho mẹ của Hoàng đế, còn Vương thái hậu là dành cho mẹ của các quân chủ mang tước Vương. Cả hai tước hiệu đều có thể gọi tắt thành Thái hậu, song khoảng cách có rạch ròi.
Đối với phiên hệ tiếng Anh, tước vị Hoàng thái hậu là [Empress Dowager], [Dowager Empress] hoặc [Empress Mother]; còn Vương thái hậu là [Queen Dowager], [Dowager Queen] hoặc [Queen Mother]. Tuy vậy, các quốc gia phương Tây không thường xuyên sử dụng những cách gọi này, mà họ thường gọi vị gỏa phụ ấy bằng tên của người chồng, như Victoria, Vương nữ Vương thất, vợ của Hoàng đế Friedrich III, trong thời gian làm góa phụ được gọi là Kaiserin Friedrich; nghĩa là Hoàng hậu Friedrich. Còn một cách khác đơn giản hơn, họ sẽ thường được gọi theo tên thật, bất chấp vai vế, như Mary xứ Teck của Liên hiệp Anh, từ khi chồng là Vua George V qua đời, bà chỉ được gọi đơn giản là [Queen Mary], dù cho là thời hai người con trai lẫn người cháu nội, Elizabeth II.
Vai trò
Tại Đông Á, Tuyên Thái hậu Mị thị là người được xem là Thái hậu sớm nhất trong lịch sử, và cũng là một Vương thái hậu đầy quyền lực. Điều này tiếp tục khi nhà Hán có các Hoàng thái hậu có ảnh hưởng chính trị. Bởi vì Đông Á xem trọng hiếu đạo, mẹ của quân chủ bằng gián tiếp hay trực tiếp cũng đều có vị thế rất to lớn đối với vị vua ấy.
Tuy nhiên, điều này không tương tự ở Châu Âu. Các Vương hậu sau khi chồng qua đời sẽ được xem là Vương thái hậu một cách hiển nhiên, được hiểu theo nghĩa ["Vợ góa của Tiên vương"] hơn là một loại vinh danh, do vậy các Thái hậu Châu Âu không có lễ tấn tôn hay đăng quang nào. Về ảnh hưởng tại triều đình, các Vương thái hậu thông thường sẽ dễ bị thay thế bởi các Vương hậu, là vợ của Quốc chủ đang trị vì. Các Thái hậu nếu xuất thân quý tộc bản địa sẽ chọn trở về quê nhà, hoặc không thì chọn cách an dưỡng trong một Tu viện hay Lâu đài nào đó thuộc quyền sở hữu của mình cho đến khi qua đời. Tuy nhiên, không phải không có Thái hậu trời Tây sử dụng vị thế là mẹ của vua để ảnh hưởng chính trị, đáng kể đến là Caterina de' Medici.
Ở Châu Âu xem trọng tính thực tế của tước hiệu, cũng như biến động chính trị phức tạp, cho nên không phải người mẹ nào của quân chủ cũng đều là Thái hậu. Yêu cầu tiên quyết nhất của một Thái hậu, là phải từng là Vương hậu đời trước và phải còn sống. Không ít những 「Vương mẫu; Mother of the King」 chưa bao giờ được nhận tước hiệu Thái hậu dù có ảnh hưởng, như mẹ của Henry VII của Anh là Margaret Beaufort, Bá tước phu nhân xứ Richmond và Derby. Hoặc các Thái hậu nhưng không có liên hệ máu mủ gì với Quốc vương hiện tại, thậm chí còn là mẹ vợ của nhà vua, như trường hợp của Elizabeth Woodville thời Henry VII, hoặc là bác dâu (vợ của bác ruột) như trường hợp của Adelheid xứ Sachsen-Meiningen thời Victoria.
Nhân vật nổi tiếng
Trung Quốc
- Tuyên Thái hậu - phi tần của Tần Huệ Văn vương, là Vương thái hậu đầu tiên trong lịch sử Trung Quốc.
- Hoa Dương Thái hậu - Vương hậu của Tần Hiếu Văn vương, bà nội trên danh nghĩa của Tần Thủy Hoàng.
- Triệu Cơ - Vương hậu của Tần Trang Tương vương, mẹ của Tần Thủy Hoàng, sau được truy tôn Đế Thái hậu (帝太后).
- Bạc Cơ - phi tần của Hán Cao Tổ, mẹ của Hán Văn Đế, trở thành Đại Vương thái hậu (大王太后) khi con bà được ban làm Đại vương.
- Phó Thái hậu - phi tần của Hán Nguyên Đế, mẹ của Lưu Khang và bà nội của Hán Ai Đế, trở thành Định Đào Thái hậu (定陶太后) khi con bà được ban làm Định Đào vương.
- Phùng Viện - phi tần của Hán Nguyên Đế, mẹ của Lưu Hưng và bà nội của Hán Bình Đế, trở thành Trung Sơn Thái hậu (中山太后) khi con bà được ban làm Trung Sơn vương.
- Quách Thánh Thông - Hoàng hậu của Hán Quang Vũ Đế, bị phế nhưng vẫn được phong Phái Thái hậu (沛太后) khi con bà được ban làm Phái vương.
Việt Nam
- Cù hậu - mẹ của Triệu Ai vương. Cù hậu nổi tiếng trong lịch sử vì việc chuyên quyền trên cương vị nhiếp chính.
- Nguyễn Thị Hoàn - chính thất phu nhân của Nguyễn Phúc Luân, mẹ của Vua Gia Long. Năm 1802, Vua Gia Long tôn bà làm Vương thái hậu. Năm 1806, bà chính thức trở thành Hoàng thái hậu.
Triều Tiên
- Thần Minh Vương thái hậu- mẹ của Cao Ly Định Tông và Cao Ly Quang Tông nổi tiếng khuynh đảo triều chính thời Cao Ly Định Tông
- Hiến Ai Vương hậu- mẹ của Cao Ly Mục Tông từng nhiếp chính trong giai đoạn của Cao Ly Mục Tông
👁️
1 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Nghĩa An Vương Thái hậu** (chữ Hán: 義安王太后, ? - 22 tháng 2, năm 845 ), còn gọi là **Bảo Lịch Thái hậu** (寶曆太后) hoặc **Cung Hi hoàng hậu** (恭僖皇后), là một phi tần của
**Vương thái hậu** (chữ Hán: 王太后, không rõ năm sinh năm mất) là một hoàng thái hậu tại vị trong thời gian ngắn ngủi của triều đại nhà Lương. Bà là mẹ của Phế Đế
**Thần Minh Vương hậu** (Hanja:神明王后; 900– 951), là một Vương hậu của nhà Cao Ly. Bà là vợ của Cao Ly Thái Tổ, mẹ ruột của Cao Ly Định Tông, Cao Ly Quang Tông. Bà
**Hoàng thái hậu** (chữ Hán: 皇太后; Kana: こうたいごうKōtaigō; Hangul: 황태후Hwang Tae Hu; tiếng Anh: _Dowager Empress_, _Empress Dowager_ hay _Empress Mother_), thường được gọi tắt là **Thái hậu** (太后), là một tước vị được quy
**Vương thái hậu** (chữ Hán: 王太后; Hangul: 왕태후; tiếng Anh: _Dowager Queen_ hoặc _Queen Mother_) là một tước vị dành cho Vương hậu của các Quốc vương đã qua đời, hoặc mẹ đẻ (đôi khi
**Hiếu Cảnh Vương hoàng hậu** (chữ Hán: 孝景王皇后; 178 - 126 TCN), thường gọi **Hiếu Cảnh Thái hậu** (孝景太后), là Hoàng hậu thứ hai của Hán Cảnh Đế Lưu Khải. Bà là sinh mẫu của
**Hiếu Minh Trịnh Thái hậu** (chữ Hán: 孝明鄭太后, ? - 26 tháng 12, 865), hay **Hiếu Minh Trịnh hoàng hậu** (孝明鄭皇后), là một cung nhân của Đường Hiến Tông Lý Thuần, đồng thời còn là
**Tích Khánh Tiêu Thái hậu** (chữ Hán: 積慶蕭太后, ? - 1 tháng 6, năm 847), còn được gọi là **Trinh Hiến hoàng hậu** (貞獻皇后), là một phi tần của Đường Mục Tông Lý Hằng, và
**Vương hoàng hậu** (chữ Hán: 王皇后, ?-563), không rõ tên thật, thụy hiệu: **Tuyên Tĩnh hoàng hậu** (宣靜皇后), là hoàng hậu của Lương Tuyên Đế (梁宣帝) Tiêu Sát (萧詧) trong lịch sử Trung Quốc. ##
## Tiểu sử Đầu đời Bà được sinh ra là con gái của Hoàng Phủ đệ công , quý tộc vùng Chungui ( 황보제공 충의공 ) miền Bắc Tỉnh HwangHae . Hôn nhân Bà kết
**Hiếu Khâm Hiển Hoàng hậu**; (chữ Hán: 孝欽顯皇后; ; ; trước đây La Mã hóa là **Từ Hi Thái hậu T'zu-hsi**; 29 tháng 11 năm 1835 – 15 tháng 11 năm 1908), thường được gọi
**Hiếu Trinh Hiển Hoàng hậu** (chữ Hán: 孝貞顯皇后; ; 12 tháng 8, năm 1837 – 8 tháng 4, năm 1881), được biết đến như **Từ An Hoàng thái hậu** (慈安皇太后) hoặc **Đông Thái hậu** (東太后),
**Hiếu Trang Văn Hoàng hậu** (chữ Hán: 孝莊文皇后; ; 28 tháng 3, 1613 - 27 tháng 1, 1688), thường được gọi là **Hiếu Trang Thái hậu** (孝莊太后), **Chiêu Thánh Thái hậu** (昭聖太后) hoặc **Hiếu Trang
**Hiếu Định Cảnh Hoàng hậu** (chữ Hán: 孝定景皇后; ; 28 tháng 1 năm 1868 – 22 tháng 2 năm 1913), còn gọi là **Thanh Đức Tông Hoàng hậu** (清德宗皇后), **Long Dụ Hoàng hậu** (隆裕皇后) hay
**Hiếu Tuyên Vương Hoàng hậu** (chữ Hán: 孝宣王皇后, ? - 16 TCN), còn gọi là **Cung Thành Thái hậu** (邛成太后), là Hoàng hậu thứ ba của Hán Tuyên Đế, vị Hoàng đế thứ 10 của
**Hiến Từ Tuyên Thánh Hoàng hậu** (chữ Hán: 憲慈宣聖皇后, 1299 - 14 tháng 12, 1369), còn hay gọi là **Hiến Từ Hoàng thái hậu** (憲慈皇太后), sách Khâm định chép **Huệ Từ Thái hậu** (惠慈太后), là
**Hiếu Tĩnh Thành Hoàng hậu** (chữ Hán: 孝静成皇后, ; 19 tháng 6, năm 1812 - 21 tháng 8, năm 1855), còn gọi **Hiếu Tĩnh Khang Từ Hoàng hậu**, **Khang Từ Hoàng thái hậu** hay **Khang
**Hiếu Bình Vương Hoàng hậu** (chữ Hán: 孝平王皇后; 4 TCN – 23), còn gọi là **Hiếu Bình Vương hậu** (孝平王后) hoặc **Hoàng Hoàng Thất chúa** (黃皇室主), là Hoàng hậu duy nhất của Hán Bình Đế
**Hồ thái hậu** (chữ Hán: 胡太后, ? - 17 tháng 5, năm 528), còn thường gọi là **Linh thái hậu** (靈太后), một phi tần của Bắc Ngụy Tuyên Vũ Đế, và Hoàng thái hậu nhiếp
**Từ Hiếu Hiến Hoàng hậu** (chữ Hán: 慈孝獻皇后; 7 tháng 3, 1478 - 23 tháng 12, 1538), thông gọi **Hưng Quốc Thái hậu** (興國太后), **Hưng Hiến hậu** (興獻后) hay **Chương Thánh Thái hậu** (章聖皇太后), là
**Hiếu Thánh Hiến Hoàng hậu** (chữ Hán: 孝聖憲皇后, tiếng Mãn: ; tiếng Mãn Châu: hiyoošungga enduringge temgetulehe hūwangheo; 1 tháng 1 năm 1693 - 2 tháng 3 năm 1777), thường gọi là **Sùng Khánh Hoàng
**Hiếu Định hoàng thái hậu** (chữ Hán: 孝定皇太后, 21 tháng 12, 1540 - 18 tháng 3 năm 1614), thường gọi là **Từ Thánh hoàng thái hậu** (慈聖皇太后) hoặc **Từ Ninh cung hoàng thái hậu** (慈寧宮皇太后),
**Linh Chiếu hoàng thái hậu** (chữ Hán: 靈詔皇太后, trước năm 1108 - tháng 7, 1161), còn được biết đến là **Lê Thái hậu** (黎太后) hay **Cảm Thánh phu nhân** (感聖夫人), một phi tần của Lý
**Hiếu Huệ Thiệu Hoàng hậu** (chữ Hán: 孝惠邵皇后 ; ? - 1522), là một phi tần của Minh Hiến Tông Chu Kiến Thâm. Bà sinh ra Hưng Hiến vương, truy tôn Minh Duệ Tông Chu
**Chiêu Hiến Hoàng thái hậu** (chữ Hán: 昭憲皇太后; 902 - 17 tháng 7, 961), là Hoàng thái hậu đầu tiên của nhà Tống với vai trò là sinh mẫu của Tống Thái Tổ Triệu Khuông
**Nhân Thọ Hoàng thái hậu** (chữ Hán: 仁壽皇太后; ; 28 tháng 4 năm 1660 - 25 tháng 6 năm 1723) hay còn gọi là **Hiếu Cung Nhân hoàng hậu** (孝恭仁皇后), là phi tần của Thanh
**Thọ Hòa Hoàng hậu** (chữ Hán: 寿和皇后; 1210 - 1283), còn gọi là **Thọ Hòa Hoàng thái hậu** (寿和皇太后), là Hoàng hậu duy nhất của Tống Lý Tông Triệu Quân. Với thân phận Hoàng thái
**Hiếu Khang Chương Hoàng hậu** (chữ Hán: 孝康章皇后; ; 29 tháng 2, năm 1640 - 20 tháng 3, năm 1663), thường gọi **Từ Hòa Hoàng thái hậu** (慈和皇太后), là phi tần của Thanh Thế Tổ
**Chương Huệ Hoàng hậu** (chữ Hán: 章惠皇后; 984 - 1036), nhưng Tống sử chỉ ghi **Dương Thục phi** (杨淑妃), là một phi tần của Tống Chân Tông Triệu Hằng và là dưỡng mẫu của Tống
**Cung thái hậu** (chữ Hán: 龔太后), không rõ tên thật, (?-562), thụy hiệu: **Nguyên thái hậu** (元太后) là một hoàng thái hậu của triều đại nhà Lương. Bà là thiếp thất của Chiêu Minh thái
**Vương Chính Quân** (chữ Hán: 王政君; 71 TCN - 3 tháng 2, 13), cũng được gọi **Nguyên hậu** (元后), **Hán Nguyên hậu** (漢元后), **Hiếu Nguyên hậu** (孝元后), **Tân thất Văn mẫu** (新室文母), **Hiếu Nguyên Vương
**Lã hậu** (chữ Hán: 呂后, 241 – 180 TCN), có âm khác **Lữ hậu**, thường gọi **Lã Thái hậu** (呂太后) hay **Hán Cao hậu** (漢高后), là vị Hoàng hậu duy nhất của Hán Cao Tổ
**Thái hậu** (chữ Hán: 太后; tiếng Anh: _Queen Dowager_, _Queen Mother_, _Empress Dowager_ hoặc _Empress Mother_) là một tước hiệu, danh từ để chỉ mẹ hoặc bà nội của vua tại các quốc gia Hán
**Hiếu Văn Đậu Hoàng hậu** (chữ Hán: 孝文竇皇后; 205 - 135 TCN), còn gọi là **Đậu Thái hậu** (竇太后), kế thất nhưng là Hoàng hậu tại vị duy nhất của Hán Văn Đế Lưu Hằng,
**Thái hoàng thái hậu** (chữ Hán: 太皇太后; Kana: たいこうたいごうTaikōtaigō; Hangul: 태황태후Tae Hwang Tae Hu; tiếng Anh: _Grand Empress Dowager_ hay _Grand Empress Mother_), thông thường được giản gọi là **Thái Hoàng** (太皇) hay **Thái Mẫu**
**Minh Đức Mã hoàng hậu** (chữ Hán: 明德馬皇后; ? - 9 tháng 7, 79), hay thường gọi **Minh Đức hoàng thái hậu** (明德皇太后), **Đông Hán Minh Đức Mã hoàng hậu** (東漢明德馬皇后), **Đông Hán Mã thái
**Đường Cao Tông Vương Hoàng hậu** (chữ Hán: 唐高宗王皇后; ? - 655), hay còn gọi là **Cao Tông Phế hậu Vương thị** (高宗廢后王氏) hoặc **Cao Tông Thứ nhân** (高宗庶人), là chính thất cũng như Hoàng
Trong lịch sử Trung Quốc, có rất nhiều hoàng hậu mang họ Vương. Danh sách dưới đây bao gồm những hoàng hậu được sách phong tại ngôi lúc sinh thời lẫn những người mang họ
**Đường Huyền Tông Vương Hoàng hậu** (chữ Hán: 唐玄宗王皇后; ? - 724), cũng gọi **Huyền Tông Phế hậu** (玄宗廢后) hay **Huyền Tông Vương Thứ nhân** (玄宗王庶人), là nguyên phối Hoàng hậu của Đường Huyền Tông
**Vương Bảo Minh** (chữ Hán: 王寶明, 455–512), thụy hiệu **Văn An hoàng hậu** (文安皇后), hay còn có hiệu là **Tuyên Đức Thái hậu** (宣德太后), là thái tử phi của thái tử Tiêu Trưởng Mậu và
**Trang Hiến Vương Thái hậu** (chữ Hán: 莊憲王太后, 763 – 5 tháng 4, 816), cũng gọi **Trang Hiến hoàng hậu** (莊憲皇后), là vợ thứ của Đường Thuận Tông Lý Tụng và mẹ đẻ của Đường
**Vương Hiến Nguyên** (chữ Hán: 王憲嫄; 427 – 9 tháng 10, 464), thụy hiệu **Văn Mục hoàng hậu** (文穆皇后), là hoàng hậu của Lưu Tống Hiếu Vũ Đế Lưu Tuấn, mẹ của Tiền Phế Đế
**Vĩnh Lạc Đổng thái hậu** (chữ Hán: 永樂董太后; ? - 7 tháng 7, năm 189), còn gọi **Hiếu Nhân Đổng hoàng hậu** (孝仁董皇后), là mẹ ruột của Hán Linh Đế Lưu Hoành, đồng thời là
**Hiếu Cương Khuông Hoàng hậu Vương thị** (chữ Hán: 孝剛匡皇后王氏; ? – 1662), là Hoàng hậu duy nhất của Minh Chiêu Tông Vĩnh Lịch Đế, Hoàng đế cuối cùng của nhà Nam Minh trong lịch
nhỏ|Ảnh chụp Anh Chiếu Hoàng hậu, Chuẩn hậu của Thiên hoàng Komei , khuê danh là Nữ ngự, chính thất của Thiên hoàng Hiếu Minh. Đồng thời, bà là mẹ trên danh nghĩa của Thiên
**Mã Thái hậu** (?—363; phồn thể: 马太后, giản thể: 馬太后) là mẹ đẻ của vị quân chủ nhà nước Tiền Lương là Trương Trọng Hoa. Bà là thê thiếp của Trương Tuấn với tước hiệu
**Chiêu Linh hoàng thái hậu** (chữ Hán: 昭靈皇太后, ? - tháng 7, 1200 ), là một Hoàng hậu, Hoàng thái hậu của nhà Lý, vợ của Lý Anh Tông, mẹ của Phế Thái tử Bảo
**Vương hoàng hậu** (chữ Hán: 王皇后), không rõ tên thật, là hoàng hậu của Lương Kính Đế (梁敬帝) Tiêu Phương Trí (萧方智) trong lịch sử Trung Quốc. ## Tiểu sử Không rõ ngày sinh của
**Vương hoàng hậu** (; ? – ?), không rõ tên thật, là hoàng hậu của Ngụy Phế Đế Tào Phương, vị vua thứ ba nhà Tào Ngụy thời Tam Quốc trong lịch sử Trung Quốc.
**Vương Mãng** (chữ Hán: 王莽; 12 tháng 12, 45 TCN - 6 tháng 10, năm 23), biểu tự **Cự Quân** (巨君), là một quyền thần nhà Hán, người về sau trở thành vị Hoàng đế