✨Linh Chiếu Thái hậu

Linh Chiếu Thái hậu

Linh Chiếu hoàng thái hậu (chữ Hán: 靈詔皇太后, trước năm 1108 - tháng 7, 1161), còn được biết đến là Lê Thái hậu (黎太后) hay Cảm Thánh phu nhân (感聖夫人), một phi tần của Lý Thần Tông, mẹ đẻ của Lý Anh Tông.

Bà chưa từng làm Hoàng hậu khi còn sống, chỉ được tôn Hoàng thái hậu khi Lý Anh Tông nối ngôi và gia tôn cho mẹ đẻ. Lịch sử nhà Lý thường nhắc tới Linh Chiếu Thái hậu với vai trò nhiếp chính thời Anh Tông, cũng là người có vai trò quan trọng giúp con trai bà kế vị ngai vàng. Bên cạnh đó, Thái hậu có mối quan hệ tư tình với Thái úy phụ chính Đỗ Anh Vũ, một quyền thần dưới thời Anh Tông. Theo dòng họ, Đỗ Anh Vũ có họ hàng với Thái úy Việt quốc công Lý Thường Kiệt, phụ chính thời Lý Nhân Tông.

Năm 1150, tức năm Canh Ngọ, Điện tiền chỉ huy sứ Vũ Cát Đái cùng Phò mã Dương Tự Minh, thân vương nổi lên làm cung biến, giam Thái úy Đỗ Anh Vũ trong ngục, xét án phải đày làm nô. Nhưng Hoàng thái hậu tính kế khiến cuối cùng Thái úy phục chức, và ra tay giết hại đồng đảng. Hơn 50 người tham gia bị tử hình hoặc đày ải nơi xa. Đấy gọi là Canh Ngọ cung biến (庚午宮變).

Tiểu sử

Linh Chiếu hoàng thái hậu là con gái trưởng của Phụ Thiên đại vương (輔天大王), mẹ là Thụy Thánh công chúa, con gái của Dự Tông Chính hoàng, bà là chị của Phụng Thánh phu nhân. Tổ phụ của bà là Chân Đăng bảo sở Quan sát sứ họ Lê, có trị sở ở hương Tuế Phong (này là Hương Nộn, huyện Tam Nông), cháu của Ngự Man đại vương Lê Long Đinh, như vậy dòng họ bà là hậu duệ xa của hoàng đế Lê Đại Hành. Tổ mẫu là Ngọc Kiều công chúa, con gái của Phụng Càn vương Lý Nhật Trung, được Lý Thánh Tông nhận làm con gái nuôi.

Bà nhập cung năm 1134, nhận tước hiệu Cảm Thánh phu nhân (感聖夫人). Từ năm 1129, Đỗ Anh Vũ 16 tuổi được hầu Thần Tông ở mành trướng, theo dã sử, lúc này Đỗ Anh Vũ và bà đã gặp gỡ nhau và phải lòng nhau.

Năm 1136, mùa hạ, tháng 4, bà sinh ra Hoàng tử Lý Thiên Tộ (李天祚), là con trai thứ hai của Thần Tông hoàng đế. Khi trước, Thần Tông đã lập Lý Thiên Lộc (李天祿) làm Hoàng thái tử, nhưng bà thấy Thiên Lộc là con người hầu, địa vị thấp hèn, trong khi Thiên Tộ sinh chỉ sau Thiên Lộc 4 năm, địa vị bà lúc đó thuộc hàng chánh cung, nên bèn cùng Phụng Thánh phu nhân tìm cách mà xin việc phế lập ngôi Thái tử.

Năm 1138, tháng 9, Thần Tông hoàng đế bệnh nặng. Bà cùng hai vị phu nhân là Nhật Phụng phu nhân, Phụng Thánh phu nhân đút lót Tham tri chính sự Từ Văn Thông, và dặn rằng: "Nếu có vâng mệnh vua thảo di chiếu thì chớ nên bỏ lời của ba phu nhân". Văn Thông nhận lời. Khi Thần Tông ốm năng, sai soạn di chiếu, Văn Thông chần chừ không viết.

Thùy liêm thính chánh

Tranh đoạt hoàng vị

Theo nghiên cứu của các nhà sử học Hàn Quốc và Việt Nam, khi Thần Tông hoàng đế qua đời, Thái tử Lý Thiên Tộ mới 3 tuổi, triều thần muốn tôn Kiến Hải vương Lý Dương Côn - một người con nuôi khác của Nhân Tông hoàng đế, vốn là con đẻ của Thành Quảng hầu - lên nối ngôi. Nhưng lúc đó Linh Chiếu Thái hậu dựa vào Đỗ Anh Vũ giúp đỡ, khiến Kiến Hải vương bị hạ bệ và phải lưu vong.

Đỗ Anh Vũ là em trai của Chiêu Hiến Thái hoàng thái hậu Đỗ thị, mẹ của Thần Tông hoàng đế. Ông đã nắm hết binh quyền, đã loại hết các địch thủ của thái tử Thiên Tộ, nên Thiên Tộ được đưa lên ngôi. Đỗ Anh Vũ nhân đó muốn giết hết tông tộc của các thân vương.

Năm đầu niên hiệu Thiệu Minh (1138), Đỗ Anh Vũ được phong làm Phụ quốc Thái úy và được ban quốc tính , vì vậy có tài liệu gọi là Lý Anh Vũ. Ông có vợ là Tô thị, họ hàng với Thái phó Tô Hiến Thành, ra vào cung cấm hầu hạ Thái hoàng thái hậu ở Động Nhân cung, ông nhân đó vào cung mà tư thông với Hoàng thái hậu .

Canh Ngọ cung biến

Năm 1141, sau khi dẹp loạn Thân Lợi, Thái úy Đỗ Anh Vũ được ban cho lụa tốt cùng ba phủ Nghệ An, Thanh Hóa và Phú Lương làm phong ấp. Thái úy có công cấm trừ di tục, man dân khoanh tay mà chịu mặc hình; trộm cướp và dân ở biên thùy đều khiếp sợ mà nghe theo sự giáo hóa của triều đình. Từ đó, ông ở trong triều có phần oai phong và hiển hách.

Năm 1150, tức năm Canh Ngọ, Trí Minh vương cùng Phò mã Dương Tự Minh, Điện tiền chỉ huy sứ Vũ Cát Đái đốc xuất quân sĩ kéo đến ngoài cửa Việt Thành, kể tội ông chuyên quyền và tư thông với Thái hậu, rồi xông vào bắt Anh Vũ giam lại ở hiên Cụ Thánh. Thái hậu sai người đưa cơm rượu vào cho Đỗ Anh Vũ và ngầm để vàng trong cơm để ông hối lộ Vũ Cát Đái. Viên Hỏa đầu ở đô Cụ Thánh là Nguyễn Dương khuyên phe Vũ Đái không nên nhận vàng mà nên giết luôn Đỗ Anh Vũ trừ hậu họa nhưng Vũ Đái không nghe. Dương bèn đi tự vẫn, vì e rằng sau này Anh Vũ sẽ báo thù.

Anh Tông hoàng đế khi ấy lên điện xét án, không giết Đỗ Anh Vũ nhưng xử tội đồ làm "Cảo điền nhi", tức là tá điền, phải đi cày ruộng công của triều đình. Thái hậu nghĩ cách giúp Anh Vũ được trở lại như cũ, nên thường mở hội to, tha tội nhân, mong Anh Vũ cũng được dự ân xá. Anh Vũ vì nhiều lần được ân xá được khỏi tội. Hoàng thái hậu nhân đó khuyên Anh Tông phục chức cho ông. Và khi đó, Thái úy Anh Vũ lại bắt đầu tính toán trả thù những người đã hại mình trước đây.

Cuối cùng vào cuối năm 1150, Trí Minh vương xuống tước Hầu, Bảo Ninh hầu xuống tước Minh tự, Bảo Thắng hầu xuống tước Phụng chức, Nội thị là bọn Đỗ Ất 5 người bị "cưỡi ngựa gỗ", bọn Hoả đầu đô Ngọc Giai là Đồng lợi 8 người bị chém ở chợ Tây Giai, bọn Điện tiền đô chỉ huy Vũ Đái 20 người chém bêu đầu ở các bến sông, bọn Phò mã lang Dương Tự Minh 30 người bị tội lưu ở nơi xa độc, những người dự mưu đều bị tội đồ làm điền hoành, khao giáp. Đấy gọi là Canh Ngọ cung biến (庚午宮變).

Cuối đời

Sau sự kiện năm 1150, Anh Tông hoàng đế khi ấy đã 14 tuổi, đến tuổi có thể tự mình thân chính, nhưng Hoàng thái hậu vẫn quyết định giữ mọi quyền hành trong triều. Năm 1158, Thái úy phụ chính Đỗ Anh Vũ từ trần, phụ chính triều Lý trong 20 năm, hưởng thọ 46 tuổi. Thái hậu khi ấy mới giao trả quyền hành lại cho Anh Tông hoàng đế. Dù xảy ra sự kiện năm 1150, Đỗ Anh Vũ vẫn được truy phong "Kiểm hiệu Thái úy Minh chính Bình chương sự Thượng trụ quốc Nguyên soái Đại Đô thống".

Năm Đại Định thứ 22 (1161), mùa thu, tháng 7, Hoàng thái hậu giá băng, không rõ bao nhiêu tuổi, Anh Tông hoàng đế dâng thụy là Linh Chiếu (靈詔).

👁️ 0 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Linh Chiếu hoàng thái hậu** (chữ Hán: 靈詔皇太后, trước năm 1108 - tháng 7, 1161), còn được biết đến là **Lê Thái hậu** (黎太后) hay **Cảm Thánh phu nhân** (感聖夫人), một phi tần của Lý
**Hoàng thái hậu** (chữ Hán: 皇太后; Kana: こうたいごうKōtaigō; Hangul: 황태후Hwang Tae Hu; tiếng Anh: _Dowager Empress_, _Empress Dowager_ hay _Empress Mother_), thường được gọi tắt là **Thái hậu** (太后), là một tước vị được quy
**Chiêu Linh hoàng thái hậu** (chữ Hán: 昭靈皇太后, ? - tháng 7, 1200 ), là một Hoàng hậu, Hoàng thái hậu của nhà Lý, vợ của Lý Anh Tông, mẹ của Phế Thái tử Bảo
**Hiếu Định Cảnh Hoàng hậu** (chữ Hán: 孝定景皇后; ; 28 tháng 1 năm 1868 – 22 tháng 2 năm 1913), còn gọi là **Thanh Đức Tông Hoàng hậu** (清德宗皇后), **Long Dụ Hoàng hậu** (隆裕皇后) hay
**Hiếu Trang Văn Hoàng hậu** (chữ Hán: 孝莊文皇后; ; 28 tháng 3, 1613 - 27 tháng 1, 1688), thường được gọi là **Hiếu Trang Thái hậu** (孝莊太后), **Chiêu Thánh Thái hậu** (昭聖太后) hoặc **Hiếu Trang
**Hiếu Khâm Hiển Hoàng hậu**; (chữ Hán: 孝欽顯皇后; ; ; trước đây La Mã hóa là **Từ Hi Thái hậu T'zu-hsi**; 29 tháng 11 năm 1835 – 15 tháng 11 năm 1908), thường được gọi
**Hiếu Tĩnh Thành Hoàng hậu** (chữ Hán: 孝静成皇后, ; 19 tháng 6, năm 1812 - 21 tháng 8, năm 1855), còn gọi **Hiếu Tĩnh Khang Từ Hoàng hậu**, **Khang Từ Hoàng thái hậu** hay **Khang
**Mẫn Thái hậu Nguyễn thị** (chữ Hán: 愍太后 阮氏, ? - 1799), là vợ thứ Thái tử Lê Duy Vĩ, mẹ Mẫn đế Lê Chiêu Thống, vị Hoàng đế cuối cùng của triều đại nhà
**Hồ thái hậu** (chữ Hán: 胡太后, ? - 17 tháng 5, năm 528), còn thường gọi là **Linh thái hậu** (靈太后), một phi tần của Bắc Ngụy Tuyên Vũ Đế, và Hoàng thái hậu nhiếp
**Nhân Thọ Hoàng thái hậu** (chữ Hán: 仁壽皇太后; ; 28 tháng 4 năm 1660 - 25 tháng 6 năm 1723) hay còn gọi là **Hiếu Cung Nhân hoàng hậu** (孝恭仁皇后), là phi tần của Thanh
**Hiếu Trinh Hiển Hoàng hậu** (chữ Hán: 孝貞顯皇后; ; 12 tháng 8, năm 1837 – 8 tháng 4, năm 1881), được biết đến như **Từ An Hoàng thái hậu** (慈安皇太后) hoặc **Đông Thái hậu** (東太后),
**Hiếu Thánh Hiến Hoàng hậu** (chữ Hán: 孝聖憲皇后, tiếng Mãn: ; tiếng Mãn Châu: hiyoošungga enduringge temgetulehe hūwangheo; 1 tháng 1 năm 1693 - 2 tháng 3 năm 1777), thường gọi là **Sùng Khánh Hoàng
**Tích Khánh Tiêu Thái hậu** (chữ Hán: 積慶蕭太后, ? - 1 tháng 6, năm 847), còn được gọi là **Trinh Hiến hoàng hậu** (貞獻皇后), là một phi tần của Đường Mục Tông Lý Hằng, và
**Hiếu Khang Chương Hoàng hậu** (chữ Hán: 孝康章皇后; ; 29 tháng 2, năm 1640 - 20 tháng 3, năm 1663), thường gọi **Từ Hòa Hoàng thái hậu** (慈和皇太后), là phi tần của Thanh Thế Tổ
**Thọ Hòa Hoàng hậu** (chữ Hán: 寿和皇后; 1210 - 1283), còn gọi là **Thọ Hòa Hoàng thái hậu** (寿和皇太后), là Hoàng hậu duy nhất của Tống Lý Tông Triệu Quân. Với thân phận Hoàng thái
**Đại Thắng Minh Hoàng hậu** (chữ Hán: 大勝明皇后; 952 - 1000), dã sử xưng gọi **Dương Vân Nga** (楊雲娥), là Hoàng hậu của 2 vị Hoàng đế thời kỳ đầu lập quốc trong Lịch sử
**Vĩnh Lạc Đổng thái hậu** (chữ Hán: 永樂董太后; ? - 7 tháng 7, năm 189), còn gọi **Hiếu Nhân Đổng hoàng hậu** (孝仁董皇后), là mẹ ruột của Hán Linh Đế Lưu Hoành, đồng thời là
**Thái hoàng thái hậu** (chữ Hán: 太皇太后; Kana: たいこうたいごうTaikōtaigō; Hangul: 태황태후Tae Hwang Tae Hu; tiếng Anh: _Grand Empress Dowager_ hay _Grand Empress Mother_), thông thường được giản gọi là **Thái Hoàng** (太皇) hay **Thái Mẫu**
**Hoàng hậu** (chữ Hán: 皇后; Kana: こうごうKōgō; Hangul: 황후Hwang Hu; tiếng Anh: Empress consort) là danh hiệu dành cho chính thê của Hoàng đế, bởi Hoàng đế sách lập. Danh hiệu này tồn tại trong
**Linh Tư Hà hoàng hậu** (chữ Hán: 靈思何皇后, ? - 30 tháng 9 năm 189), còn gọi **Đông Hán Hà thái hậu** (東漢何太后), là Hoàng hậu thứ hai của Hán Linh Đế Lưu Hoằng, sinh
**Hiếu Thành Kính hoàng hậu** (chữ Hán: 孝成敬皇后; 20 tháng 3, 1471 - 28 tháng 8, 1541), còn được gọi là **Từ Thọ Hoàng thái hậu** (慈壽皇太后), là Hoàng hậu duy nhất của Minh Hiếu
**Từ Thánh Quang Hiến Hoàng hậu** (chữ Hán: 慈聖光獻皇后, 1016 - 16 tháng 11, 1079), còn gọi **Từ Thánh Tào Thái hậu** (慈聖曹太后) hay **Từ Thánh hậu** (慈聖后) là Hoàng hậu thứ hai của Tống
**Hòa Hi Đặng Hoàng hậu** (chữ Hán: 和熹鄧皇后; 81 - 121), hay còn gọi **Hòa Hi Đặng thái hậu** (和熹鄧太后), **Đông Hán Đặng thái hậu** (東漢鄧太后), là Hoàng hậu thứ hai của Hán Hòa Đế
**An Toàn Hoàng hậu** (chữ Hán: 安全皇后), còn gọi là **Lý Cao Tông Đàm hậu** (李高宗譚后) hay **Đàm Thái hậu** (譚太后), là Hoàng hậu của Hoàng đế Lý Cao Tông, mẹ đẻ của Hoàng đế
**Hiếu Hòa Duệ Hoàng hậu** (chữ Hán: 孝和睿皇后, ; 20 tháng 11, năm 1776 - 23 tháng 1, năm 1850), còn được biết đến dưới tên gọi **Cung Từ Hoàng thái hậu** (恭慈皇太后), là Hoàng
**Chương Hiến Minh Túc Lưu Hoàng hậu** (chữ Hán: 章献明肃劉皇后, 968 - 1033), hay còn gọi là **Chương Hiến Lưu Hoàng hậu** (章獻劉皇后), **Chương Hiến Thái hậu** (章獻太后) hoặc **Chương Hiến hậu** (章獻后), thỉnh thoảng
**Đường Trung Tông Vi Hoàng hậu** (chữ Hán: 唐中宗韋皇后, ? - 21 tháng 7, năm 710), thường gọi **Vi hậu** (韋后) hay **Vi Thái hậu** (韋太后) hoặc **Trung Tông Vi Thứ nhân** (中宗韋庶人), kế phối,
**Hiếu Trang Duệ Hoàng hậu** (chữ Hán: 孝莊睿皇后; 2 tháng 8, 1426 - 15 tháng 7, 1468), còn gọi là **Từ Ý Hoàng thái hậu** (慈懿皇太后), là Hoàng hậu duy nhất của Minh Anh Tông
**Lã hậu** (chữ Hán: 呂后, 241 – 180 TCN), có âm khác **Lữ hậu**, thường gọi **Lã Thái hậu** (呂太后) hay **Hán Cao hậu** (漢高后), là vị Hoàng hậu duy nhất của Hán Cao Tổ
**Lâu Chiêu Quân** (chữ Hán: 婁昭君, 501 - 20 tháng 5 năm 562), thụy hiệu: **Thần Vũ Minh hoàng hậu** (神武明皇后), là hoàng thái hậu của triều đại Bắc Tề, vợ của Cao Hoan, Thượng
**Hiếu Nguyên Phó Chiêu nghi** (chữ Hán: 孝元傅昭儀, ? - 2 TCN), còn được gọi là **Định Đào Phó Thái hậu** (定陶傅太后), **Định Đào Cung vương mẫu** (定陶恭王母) hoặc **Hiếu Nguyên Phó Hoàng hậu** (孝元傅皇后),
**Tần Tuyên Thái hậu** (chữ Hán: 秦宣太后, 348 TCN - 245 TCN), cũng gọi **Mị Thái hậu** (羋太后) hay **Tuyên Thái hậu** (宣太后), là một Thái hậu nước Tần thời Chiến Quốc trong lịch sử
**Chiêu Từ Thánh Hiến Hoàng hậu** (chữ Hán: 昭慈聖獻皇后, 1073 - 1131), thường gọi **Nguyên Hựu hoàng hậu** (元祐皇后), **Nguyên Hựu Mạnh hoàng hậu** (元祐孟皇后) hay **Long Hựu Thái hậu** (隆祐太后), là Hoàng hậu đầu
**Văn Minh Phùng Hoàng hậu** (chữ Hán: 文明馮皇后, 441 - 17 tháng 10, 490), thường gọi là **Văn Minh Thái hậu** (文明太后) hoặc **Bắc Ngụy Phùng Thái hậu** (北魏冯太后), là Hoàng hậu của Bắc Ngụy
**Mã Thái hậu** (?—363; phồn thể: 马太后, giản thể: 馬太后) là mẹ đẻ của vị quân chủ nhà nước Tiền Lương là Trương Trọng Hoa. Bà là thê thiếp của Trương Tuấn với tước hiệu
**Hiến Thánh Từ Liệt Hoàng hậu** (chữ Hán: 憲聖慈烈皇后, 18 tháng 9, 1115 - 19 tháng 12, 1197), còn gọi là **Thọ Thánh Hoàng thái hậu** (壽聖皇太后), là Hoàng hậu thứ hai của Tống Cao
**Chương Đức Đậu Hoàng hậu** (chữ Hán: 章德竇皇后; ? - 14 tháng 8, 97), cũng gọi **Chương Đức Đậu Thái hậu** (章德竇太后), **Đông Hán Đậu Thái hậu** (東漢竇太后), là Hoàng hậu duy nhất của Hán
**Thuận Liệt Lương Hoàng hậu** (chữ Hán: 順烈梁皇后; 116 - 150), hay còn được gọi là **Đông Hán Lương Thái hậu** (東漢梁太后), là hoàng hậu của Hán Thuận Đế Lưu Bảo - vị Hoàng đế
**Hiếu Đoan Văn Hoàng hậu** (chữ Hán: 孝端文皇后, ; 13 tháng 5 năm 1600 – 17 tháng 5 năm 1649), kế thất nhưng là Hoàng hậu tại vị duy nhất của Thanh Thái Tông Hoàng
**Ngô hoàng hậu** (chữ Hán: 吳皇后; ? - 245), là người vợ thứ ba nhưng lại là Hoàng hậu duy nhất của Hán Chiêu Liệt Đế Lưu Bị và là Hoàng hậu đầu tiên của
**Linh Từ Quốc mẫu** (chữ Hán: 靈慈國母,1193[?]–1259), hay còn gọi là **Kiến Gia Hoàng hậu** (建嘉皇后), **Thuận Trinh Hoàng hậu** (順貞皇后) hay **Huệ hậu** (惠后), là Hoàng hậu cuối cùng của nhà Lý với tư
**Mạc Thái Tổ** (chữ Hán: 莫太祖 22 tháng 12, 1483 – 11 tháng 9, 1541), tên thật là **Mạc Đăng Dung** (莫登庸), là một nhà chính trị, vị hoàng đế sáng lập ra vương triều
**Thanh Cao Tông Kế Hoàng hậu** (chữ Hán: 清高宗繼皇后, 11 tháng 3, năm 1718 - 19 tháng 8, năm 1766), Na Lạp thị, là Hoàng hậu thứ 2 của Thanh Cao Tông Càn Long Đế.
**Lê Thái Tông** (chữ Hán: 黎太宗 22 tháng 12 năm 1423 – 7 tháng 9 năm 1442), tên húy **Lê Nguyên Long** (黎元龍), là vị hoàng đế thứ hai của hoàng triều Lê nước Đại
**Lê Chiêu Tông** (chữ Hán: 黎昭宗 18 tháng 11 năm 1506 – 19 tháng 1 năm 1527), tên thật là **Lê Y** (黎椅), là vị hoàng đế thứ 10 của Hoàng triều Lê nước Đại
nhỏ|Tượng [[Đại Thắng Minh Hoàng Hậu ở Hoa Lư, người duy nhất làm hoàng hậu 2 triều trong lịch sử Việt Nam.]] **Hoàng hậu nhà Đinh** theo ghi chép trong chính sử gồm 5 Hoàng
**Hiếu Toàn Thành Hoàng hậu** (chữ Hán: 孝全成皇后, ; 24 tháng 3, năm 1808 - 13 tháng 2, năm 1840), là Hoàng hậu thứ hai của Thanh Tuyên Tông Đạo Quang Hoàng đế và là
**Trần Thái Tông** (chữ Hán: 陳太宗 9 tháng 7 năm 1218 – 5 tháng 5 năm 1277), tên khai sinh là **Trần Cảnh** (陳煚), là vị hoàng đế đầu tiên của Hoàng triều Trần nước
**Văn Đức Thuận Thánh hoàng hậu** (chữ Hán: 文德順聖皇后, 15 tháng 3, 601 – 28 tháng 7, 636), thông thường được gọi là **Trưởng Tôn hoàng hậu** (長孫皇后), là Hoàng hậu duy nhất của Đường
**Bắc Tề Hậu Chủ** (北齊後主, 557–577), tên húy là **Cao Vĩ** (高緯), tên tự **Nhân Cương** (仁綱), đôi khi được đề cập đến với tước hiệu do Bắc Chu phong là **Ôn công** (溫公), là