✨Từ Cung Hoàng thái hậu

Từ Cung Hoàng thái hậu

Từ Cung Hoàng thái hậu (chữ Hán: 慈宮皇太后; 28 tháng 1 năm 1890 - 9 tháng 11 năm 1980), phong hiệu chính thức là Đoan Huy Hoàng thái hậu (端徽皇太后), là phi thiếp của Hoằng Tông Tuyên hoàng đế, thân mẫu của hoàng đế Bảo Đại thuộc triều đại Nhà Nguyễn trong lịch sử Việt Nam.

Bà là Hoàng thái hậu cuối cùng của triều đại Nhà Nguyễn cũng như của nền quân chủ chuyên chế Việt Nam.

Xuất thân

Từ Cung Hoàng thái hậu tên thật là Hoàng Thị Cúc (黃氏菊), người ở làng Mỹ Lợi, Phú Lộc, Thừa Thiên Huế. Thân sinh của bà là ông Hoàng Trọng Tích (黃仲錫), từng đậu Tú tài làm Tri huyện Hòa Đa (Bình Thuận), mẹ của bà là bà La Thị Sơn (羅氏山).

Theo gia phả của họ Hoàng làng Mỹ Lợi, sinh thời ông Tích lấy bà La Thị Huân và có với bà hai người con, một trai một gái. Khi người con gái thứ 2 là Hoàng Thị Như chào đời, ông đón người chị gái của vợ là bà La Thị Sơn đến giúp lo toan việc nhà. Tuy nhiên, ông Tích dần có tình cảm với bà Sơn, dẫn đến bà Sơn có con và sinh ra một người con gái chính là bà Hoàng Thị Cúc. Sau khi sinh bà Cúc, bà La Thị Sơn cảm thấy ân hận với em gái, nên đã để lại con gái cho ông Hoàng Trọng Tích và bà La Thị Huân nuôi, còn mình thì về quê rồi sau này đi lấy chồng khác.

Sinh ra trong một gia đình quan Tri huyện, nhưng từ nhỏ, Hoàng Thị Cúc đã sống cuộc sống hết sức vất vả, khó khăn. Ông bà Tri huyện mất sớm, khi Hoàng Thị Cúc còn nhỏ tuổi, phải sống nhờ gia đình người anh trai cả là Hoàng Trọng Khanh. Nhưng chẳng may người anh cả Hoàng Trọng Khanh lại là người ham mê cờ bạc, có bao nhiêu tiền đều ném vào hết các chiếu bạc. Do mê cờ bạc rồi sinh ra nợ nần, ông Khanh đã "bán" các em gái cho những nơi quyền quý. Bà Hoàng Thị Cúc được đưa vào làm cung nữ hầu hai bà Thánh Cung Nguyễn Hữu Thị Nhàn và Tiên Cung Dương Thị Thục – vợ góa của vua Đồng Khánh.

Từ đây, bà dần tiếp xúc với ông Phụng Hóa công Nguyễn Phúc Bửu Đảo (奉化公阮福寶嶹), con của bà Tiên cung. Trong một lần vào thỉnh an Mẫu hậu, Hoàng tử Bửu Đảo đã sủng hạnh Hoàng Thị Cúc và kết quả là vị cung nữ mang thai.

Phi tần

Lúc quen biết ông hoàng, thì ông đã có chính thất là bà Trương Như Thị Tịnh, con gái đại thần phụ chính Trương Như Cương, nhưng cả hai chung sống không hòa thuận và cũng không có một mụn con nào. Đến một ngày, ông hoàng bị thua bạc to, xin bà về nhà cha ruột để đòi tiền trả nợ, bà Tịnh quá nhục nhã mà khóc lóc, chạy ra khỏi phủ và xuất gia tu hành, từ đấy ông hoàng để trống ngôi vị chính thất.

Đầu năm 1913, bà mang thai và nhận là của Phụng Hóa công. Hai bà Tiên Cung và Thánh Cung đã nhiều lần tra khảo, có lần còn ép bà phải nằm úp bụng bầu xuống đất và đánh, bắt bà phải khai đó là thai của ai sao lại dám đặt điều nhưng bà vẫn một mực khẳng định đây là con của Phụng Hóa Công. Kể từ đó bà mới được tha và hưởng thời kỳ dưỡng thai.

Hoàng thái hậu cuối cùng của Việt Nam

Ngày 6 tháng 11, năm 1925, vua Khải Định băng hà, hưởng dương 40 tuổi. Lăng của hoàng đế có tên hiệu là Ứng Lăng, tại làng Chân Chữ, huyện Hương Thủy, tỉnh Thừa Thiên. Hậu phi Hoàng thị được di chiếu lập làm Hoàng thái hậu, còn hoàng tử con trai bà là Vĩnh Thụy được đưa lên làm Hoàng đế kế vị. Năm 1926, Hoàng tử Nguyễn Phúc Vĩnh Thụy được tôn lên kế vị, lấy niên hiệu là Bảo Đại. Sau đó, Hoàng đế trở lại Pháp học tập.

Năm 1933, ngày 20 tháng 3, Bảo Đại mới tôn phong cho mẹ mình làm Đoan Huy Hoàng Thái Hậu (端徽皇太后). Vào ngày sinh nhật hàng năm của bà triều đình tổ chức lễ mừng rất trọng thể, gọi là Từ Cung tiết (慈康節), nên người trong cung thường gọi bà là Từ Cung hoàng thái hậu (慈宮皇太后) hay giản gọi là Đức Từ Cung (德慈宮)

Năm 1939, Bảo Đại xây ngôi chùa đầu tiên trên đất Buôn Mê Thuột, lấy hai chữ đầu trong hiệu của phụ mẫu ông đặt tên cho ngôi chùa là Chùa Khải Đoan, vì lẽ bà rất sùng đạo Phật, nhiều người lầm tưởng bà theo đạo Cao Đài nhưng thực chất bà chỉ theo đạo Phật. Tháng nào, đức Từ Cung cũng dành ra 10 ngày ăn chay, mỗi ngày lại dành ra vài tiếng đọc Kinh, niệm Phật, ăn uống rất đơn giản. Ngoài 10 ngày ăn chay trong tháng, bữa ăn của bà cũng không bao giờ bày sơn hào, hải vị, mà chỉ bày những món ăn được chế biến đơn giản, bình dân.

Sau Cách mạng Tháng Tám

Năm 1945, Bảo Đại giao ấn kiếm cho chính quyền Cách mạng, tuyên bố thoái vị, bà Từ Cung cùng bà Nam Phương hoàng hậu và con cháu hoàng thất dọn ra cung An Định ở. Khi cựu hoàng Bảo Đại ra Hà Nội làm cố vấn cho chủ tịch Hồ Chí Minh, bà Từ Cung và bà Nam Phương cùng các hoàng tử, hoàng nữ vẫn ở tại cung An Định.

Năm 1955, khi Quốc trưởng Bảo Đại bị lật đổ, Ngô Đình Diệm lên làm Tổng thống đã đuổi bà Từ Cung ra khỏi cung An Định. Trong tình cảnh này bà đã mua lại ngôi nhà của bà Ân phi Hồ Thị Chỉ, là nhà 79 phố Phan Đình Phùng và ở đây cho đến ngày cuối đời. Trong thời gian chiến tranh loạn lạc, mọi hoạt động cúng bái các bậc tiên tổ, hội họp Nguyễn Phước Tộc đều diễn ra tại căn nhà này. Cũng trong thời gian này bà hoàn toàn mất liên lạc với ông hoàng Bảo Đại.

Bà Lê Thị Dinh là người phục vụ bà Từ Cung hơn 60 năm, là người cung nữ cuối cùng triều Nguyễn phục vụ cho Từ Cung Hoàng Thái hậu. Bốn cung nữ hầu Hoàng Thái Hậu gồm: bà Lê Thị Dinh (nhiệm vụ là trang điểm cho Đức Bà, là người hầu hạ Đức Bà tới lúc cuối đời), Lê Thị Tìm (đọc truyện cổ tích và tụng kinh cho Đức Bà nghe hàng đêm), Nguyễn Thị Vân và Trần Thị Vui. Đây là bốn cung nữ cuối cùng của triều Nguyễn, cũng là những cung nữ cuối cùng của Việt Nam đang sống vào thế kỷ XXI.

Năm 1980, Từ Cung thái hậu qua đời, thọ 91 tuổi, bà được an táng gần Lăng Đồng Khánh tại xã Thủy Xuân, thành phố Huế, Thừa Thiên Huế. Căn nhà 79 Phan Đình Phùng mà bà đã ở những ngày cuối đời hiện nay được tu bổ trở thành điểm tham quan cho khách du lịch.

Theo "Bức Tâm Thư" tức "Di Chúc" của đức Đoan Huy Hoàng Thái hậu - Từ Cung thì ngôi nhà của Bà sau khi Bà qua đời, sẽ là nơi thờ phụng "Liệt Thánh" (tức Tổ Tiên nhà Nguyễn) và thờ Bà.

Ngôi nhà của Bà sẽ giao cho Hội đồng Hoàng Tộc Nguyễn Phước (gọi tắt là Hội đồng Nguyễn Phước Tộc) quản lý và sử dụng làm Văn phòng của Nguyễn Phước Tộc để đón tiếp bà con và sinh hoạt Hoàng tộc. (Vì năm 1980, khi Bà mất, Nguyễn Phước Tộc chưa có những sinh hoạt như hiện nay trong Kinh Thành, tại Đại Nội Huế).

Nhưng do hiện nay ở Huế vẫn chưa có ai trong Nguyễn Phước Tộc chính thức đến tiếp nhận thừa kế gia sản cho nên ngôi nhà của bà và các hiện vật bên trong tạm thời được giao cho Trung tâm Bảo tồn di tích cố đô Huế quản lý.

Mối quan hệ với Nam Phương Hoàng Hậu

Mối quan hệ giữa bà và con dâu là Nam Phương hoàng hậu được nhiều người nhận định là "bằng mặt không bằng lòng". Có lẽ, nguồn cơn của sự bất hòa giữa Nam Phương Hoàng Hậu và Đức Từ Cung bắt nguồn ngay từ khi bà chính thức được Vua Bảo Đại lựa chọn để kết hôn. Bởi lẽ, trước đó, Đức Từ Cung – mẹ ruột của Vua Bảo Đại đã chọn sẵn cho con trai mình một người con gái “chuẩn” truyền thống là cô Bạch Yến –con quan Tham tri bộ Lễ, là người gia giáo, giữ đúng phép tắc lễ nghi cung đình.

Thế nhưng Vua Bảo Đại lại vì yêu cô gái Thị Lan mà bất chấp cãi lời mẹ để cưới cô làm vợ. Khi vua Bảo Đại tuyên bố muốn kết hôn với cô gái Nguyễn Hữu Thị Lan, cả Từ Cung Thái hậu và triều đình Nguyễn đều không đồng ý. Có rất nhiều nguyên nhân dẫn đến sự phản đối đó, trong đó lý do lớn nhất chính là sự khác biệt về tôn giáo khi mà Thị Lan theo Công giáo còn Bảo Đại là người theo đạo Phật. Sự hiện diện của Thị Lan khiến người con trai duy nhất cãi lời mình đã tạo một vết xước không hề nhỏ trong mối quan hệ của Đức Từ Cung với người con dâu tài giỏi này.

Không chỉ vậy, sự khác biệt về tôn giáo và hoàn cảnh xuất thân cũng như học thức đã tạo nên lối sống khác biệt hoàn toàn giữa Đức Từ Cung và Nam Phương Hoàng Hậu. Đức Từ Cung là người theo đạo Phật và là người vô cùng khuôn thước. Cả đời bà sống ở Huế với quan điểm bất di bất dịch của người Huế là “có thể phụ người sống chứ không bao giờ phụ người chết”. Với Đức Từ Cung, chuyện thờ cúng tổ tiên, hương hỏa là nhiệm vụ tối thượng phải đặt lên hàng đầu của một người phụ nữ. Thế nhưng trái ngang là ở chỗ, con dâu Nam Phương – Hoàng Hậu của triều đình của bà lại là một người theo đạo Công giáo. Nàng không thắp hương, khấn bái, thờ cúng tổ tiên. Việc con dâu chính thất lại không thực hiện lễ nghi thờ cúng tổ tiên hương hỏa cho cả triều đình thực sự là một đả kích quá lớn với Đức Từ Cung. Sự ngược dòng trong lối sống này càng khiến cho cả hai không thể chung tiếng nói.

Khi Nam Phương Hoàng Hậu hạ sinh hoàng tử, người sẽ kế vị ngai vàng, với Đức Từ Cung đây là một sự kiện không thể nào vui hơn. Thời ấy, nước Việt, ngay cả trong gia đình thường dân thì cháu trai cũng là “bảo bối” và thuộc quyền của ông bà nội huống chi trong một gia đình vua chúa. Thế nhưng Nam Phương lại chủ động hướng con trai của mình theo một cách trái ngược với mẹ chồng nên Đức Từ Cung không thể nào chịu được.

Để cưới được Nam Phương, Bảo Đại đã cam kết cho bà giữ đạo Thiên Chúa. Và để Hoàng hậu không bị Vatican rút phép thông công vì lấy chồng ngoại đạo, ông cũng chấp nhận điều kiện của Tòa thánh: các con sinh ra sẽ rửa tội theo đạo của mẹ. Chính vì vậy, Hoàng tử Nguyễn Phúc Bảo Long đã chịu phép rửa tội và đặt tên thánh là Philippe, dĩ nhiên cái lễ “nhạy cảm” này được Hoàng hậu tổ chức lặng lẽ và kín đáo. Được mẹ “bồi dưỡng” mỗi ngày nên Hoàng Tử Bảo Long cũng chăm chỉ cầu nguyện, đọc kinh.

Hiểu được việc con trai là đích tôn của Hoàng Tộc, Nam Phương Hoàng Hậu cũng cố gắng chiều lòng mẹ chồng, thế nhưng Nam Phương đã cố gắng tránh cho con trai mình tham dự quá nhiều lễ nghi cổ truyền mang màu sắc đạo Phật. Điều này, bà Từ Cung hẳn cũng cảm nhận được tuy không có cớ bắt bẻ con dâu. Nhưng mâu thuẫn càng lớn hơn khi Thái hậu bắt cháu đeo những đạo bùa cầu an, trừ tà ở cổ tay mà Nam Phương Hoàng Hậu nhất quyết phản đối.

Không chỉ có vậy, Nam Phương Hoàng Hậu còn dạy con trai nói tiếng Pháp. Nàng cho rằng đó là ngôn ngữ phổ biến lúc bấy giờ và là “cầu nối” để con sau này dễ dàng thành đạt, giỏi giang hơn. Điều này thêm một lần nữa xoáy sâu vào hiềm khích giữa Nam Phương Hoàng Hậu và mẹ chồng bởi mỗi khi nàng nói tiếng Pháp cùng con, dạy bảo con thì Đức Từ Cung không thể nào hiểu nổi cháu nội đang nói gì.

Bà Từ Cung vốn xuất thân không cao sang nên hẳn không thoải mái, dễ chịu gì trước việc nàng dâu hiểu nhiều biết rộng, tiếng Pháp “nói như gió”, có thể qua mặt bà trong việc dạy dỗ đứa cháu đích tôn. Vì thế, tuy không công khai đả kích Nam Phương nhưng tình cảm mẹ chồng nàng dâu không thể nói là tốt đẹp, mâu thuẫn cứ ngấm ngầm phát triển.

Chính vì không hài lòng về nàng dâu trưởng nên Đức Từ Cung lại đặc biệt dành tình cảm cho “nhân tình” của con trai là Mộng Điệp. Mặc dù chế độ phi tần đã bị chính Bảo Đại bãi bỏ thế nhưng Thái Hậu vẫn coi Mộng Điệp như một thứ phi đích thực. Mộng Điệp chẳng những được Bảo Đại yêu quý, luôn kề cận chăm sóc cho Bảo Đại, được ông ân sủng, sinh con cho nhà vua mà lại còn được rất được lòng mẹ chồng.

Mộng Điệp theo đạo Phật nên cùng chung quan điểm và lối sống với Đức Từ Cung. Cho dù đây là người vợ không cưới xin, không hôn thú, nhưng bà vẫn nghiễm nhiên coi Mộng Điệp là dâu, và tin tưởng giao cho việc thờ cúng tổ tiên nhà chồng. Bà Mộng Điệp cũng tâm niệm mình suốt đời là vợ của Bảo Đại nên đã làm việc đó một cách thành tâm, chu đáo nhất. Tình cảm giữa bà Từ Cung và Mộng Điệp rất tốt đẹp. Thái hậu thậm chí còn ban mũ áo cho “thứ phi” để thay mặt hoàng hậu Nam Phương trong các cuộc cúng tế, mà bà Nam Phương không muốn dính vào.

Sau sự kiện Bảo Đại thoái vị năm 1945, bà Từ Cung chuyển về cung An Định sống với con dâu và các cháu. Tuy không hoà hợp nhưng Nam Phương hoàng hậu vẫn hết mực hiếu kính nên quan hệ mẹ chồng nàng dâu dần có phần tốt đẹp hơn trước.

Đánh giá chung

Từ Cung Hoàng Thái hậu rất trọng đạo Phật và chú tâm đến việc thờ cúng các vị vua triều Nguyễn. Bà được coi là người có công lớn trong việc chấn hưng Phật giáo thời Nhà Nguyễn. Chính bà đã khuyên vua Bảo Đại dành nhiều tiền đóng góp cho An nam Phật giáo Hội, vận động Bảo Đại góp tiền xây chùa và phát triển Phật giáo.

Bà chưa khi nào rời khỏi Kinh thành Huế ngay cả khi con trai và con dâu bà sang Pháp sống lưu vong. Bà nguyện sống cả đời ở đây để giữ gìn nơi thờ phụng các bậc tiên đế, các bảo vật của triều Nguyễn. Những năm 1968-1972, trong lúc chiến tranh đang diễn ra ác liệt ở cả hai miền Nam - Bắc, người ta vẫn thấy bà hằng ngày tụng kinh niệm Phật trong căn nhà 79 Phan Đình Phùng mong cho quốc thái dân an. Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu nhiều lần cử người đại diện bay ra Huế mời bà vào Sài Gòn nhưng bà từ chối và nói: Ta sinh ra ở đâu thì sẽ chết ở đó. Tổ tiên Nhà Nguyễn còn ở Huế thì ta còn phải ở lại lo chuyện thờ cúng, chăm sóc lăng mộ các bậc tiền nhân. Nhà Nguyễn đã cho ta hưởng lộc cả đời. Ta có chết cũng chưa báo đáp hết được. Bà chưa bỏ một lễ giỗ nào, kể cả khi tiền bạc gần như đã suy kiệt hoàn toàn.

Khi rời khỏi cung Diên Thọ , hay là khi bị Ngô Đình Diệm đuổi khỏi cung An Định, Từ Cung Thái hậu vẫn luôn mang theo bên mình tất cả những bảo vật của triều Nguyễn và cả những bộ y phục mà nhà vua đã từng mặc trước đây. Để có thể duy trì cuộc sống, bà đã phải bán dần từng món đồ trang sức mà mình có. Phần lớn tài sản mà Từ Cung Thái hậu mang ra khỏi cung Diên Thọ bà dùng để phục vụ cho việc thờ cúng,.

Lúc còn sống trong cung, Từ Cung Thái hậu đã ăn uống rất đơn giản, bà ăn chay 10 ngày mỗi tháng và hiếm khi dùng sơn hào hải vị. Sau khi Nhà Nguyễn mất, càng về già, Từ Cung Thái hậu càng ăn uống đơn giản hơn bao giờ hết. Y phục bà mặc và những thứ đồ dùng của bà cũng hết sức giản dị.

Từ Cung Thái hậu là một người rất khó tính nhưng lại khoan dung, độ lượng.

Cả đời bà không có phước phận được gần con cháu. Khi Bảo Đại còn nhỏ thì bà Tiên Cung nuôi, đến lúc bà Tiên Cung mất thì Bảo Đại cũng đi học ở Pháp. Sau này khi Bảo Đại trở về (1932), lấy vợ và sinh được các hoàng tử, hoàng nữ, Từ Cung Thái hậu có một thời gian vui vẻ bên con cháu, nhưng từ sau năm 1945, bà hầu như sống một mình, cô đơn, lạnh lẽo. Khi Bảo Đại cùng Nam Phương hoàng hậu, bà Thứ phi Mộng Điệp cùng các hoàng nam, hoàng nữ đều sang Pháp sống, thì Từ Cung Thái hậu hoàn toàn không còn cơ hội gặp lại con cháu mình nữa. Bà sống như thế cho đến tận cuối đời, trong nỗi đau dằn vặt xa con, xa cháu.

Trong văn hoá đại chúng

👁️ 3 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Từ Cung Hoàng thái hậu** (chữ Hán: 慈宮皇太后; 28 tháng 1 năm 1890 - 9 tháng 11 năm 1980), phong hiệu chính thức là **Đoan Huy Hoàng thái hậu** (端徽皇太后), là phi thiếp của Hoằng
**Hiếu Khang Chương Hoàng hậu** (chữ Hán: 孝康章皇后; ; 29 tháng 2, năm 1640 - 20 tháng 3, năm 1663), thường gọi **Từ Hòa Hoàng thái hậu** (慈和皇太后), là phi tần của Thanh Thế Tổ
**Hiếu Định hoàng thái hậu** (chữ Hán: 孝定皇太后, 21 tháng 12, 1540 - 18 tháng 3 năm 1614), thường gọi là **Từ Thánh hoàng thái hậu** (慈聖皇太后) hoặc **Từ Ninh cung hoàng thái hậu** (慈寧宮皇太后),
**Hoàng thái hậu** (chữ Hán: 皇太后; Kana: こうたいごうKōtaigō; Hangul: 황태후Hwang Tae Hu; tiếng Anh: _Dowager Empress_, _Empress Dowager_ hay _Empress Mother_), thường được gọi tắt là **Thái hậu** (太后), là một tước vị được quy
**Hiếu Trang Văn Hoàng hậu** (chữ Hán: 孝莊文皇后; ; 28 tháng 3, 1613 - 27 tháng 1, 1688), thường được gọi là **Hiếu Trang Thái hậu** (孝莊太后), **Chiêu Thánh Thái hậu** (昭聖太后) hoặc **Hiếu Trang
**Hiếu Định Cảnh Hoàng hậu** (chữ Hán: 孝定景皇后; ; 28 tháng 1 năm 1868 – 22 tháng 2 năm 1913), còn gọi là **Thanh Đức Tông Hoàng hậu** (清德宗皇后), **Long Dụ Hoàng hậu** (隆裕皇后) hay
**Hiến Từ Tuyên Thánh Hoàng hậu** (chữ Hán: 憲慈宣聖皇后, 1299 - 14 tháng 12, 1369), còn hay gọi là **Hiến Từ Hoàng thái hậu** (憲慈皇太后), sách Khâm định chép **Huệ Từ Thái hậu** (惠慈太后), là
**Từ Hiếu Hiến Hoàng hậu** (chữ Hán: 慈孝獻皇后; 7 tháng 3, 1478 - 23 tháng 12, 1538), thông gọi **Hưng Quốc Thái hậu** (興國太后), **Hưng Hiến hậu** (興獻后) hay **Chương Thánh Thái hậu** (章聖皇太后), là
**Hiếu Thánh Hiến Hoàng hậu** (chữ Hán: 孝聖憲皇后, tiếng Mãn: ; tiếng Mãn Châu: hiyoošungga enduringge temgetulehe hūwangheo; 1 tháng 1 năm 1693 - 2 tháng 3 năm 1777), thường gọi là **Sùng Khánh Hoàng
**Hiếu Tĩnh Thành Hoàng hậu** (chữ Hán: 孝静成皇后, ; 19 tháng 6, năm 1812 - 21 tháng 8, năm 1855), còn gọi **Hiếu Tĩnh Khang Từ Hoàng hậu**, **Khang Từ Hoàng thái hậu** hay **Khang
**Nhân Thọ Hoàng thái hậu** (chữ Hán: 仁壽皇太后; ; 28 tháng 4 năm 1660 - 25 tháng 6 năm 1723) hay còn gọi là **Hiếu Cung Nhân hoàng hậu** (孝恭仁皇后), là phi tần của Thanh
**Hiếu Huệ Thiệu Hoàng hậu** (chữ Hán: 孝惠邵皇后 ; ? - 1522), là một phi tần của Minh Hiến Tông Chu Kiến Thâm. Bà sinh ra Hưng Hiến vương, truy tôn Minh Duệ Tông Chu
**Thọ Hòa Hoàng hậu** (chữ Hán: 寿和皇后; 1210 - 1283), còn gọi là **Thọ Hòa Hoàng thái hậu** (寿和皇太后), là Hoàng hậu duy nhất của Tống Lý Tông Triệu Quân. Với thân phận Hoàng thái
**Chương Huệ Hoàng hậu** (chữ Hán: 章惠皇后; 984 - 1036), nhưng Tống sử chỉ ghi **Dương Thục phi** (杨淑妃), là một phi tần của Tống Chân Tông Triệu Hằng và là dưỡng mẫu của Tống
**Hiếu Khâm Hiển Hoàng hậu**; (chữ Hán: 孝欽顯皇后; ; ; trước đây La Mã hóa là **Từ Hi Thái hậu T'zu-hsi**; 29 tháng 11 năm 1835 – 15 tháng 11 năm 1908), thường được gọi
**Hiếu Trinh Hiển Hoàng hậu** (chữ Hán: 孝貞顯皇后; ; 12 tháng 8, năm 1837 – 8 tháng 4, năm 1881), được biết đến như **Từ An Hoàng thái hậu** (慈安皇太后) hoặc **Đông Thái hậu** (東太后),
**Thái hoàng thái hậu** (chữ Hán: 太皇太后; Kana: たいこうたいごうTaikōtaigō; Hangul: 태황태후Tae Hwang Tae Hu; tiếng Anh: _Grand Empress Dowager_ hay _Grand Empress Mother_), thông thường được giản gọi là **Thái Hoàng** (太皇) hay **Thái Mẫu**
**Hồ thái hậu** (chữ Hán: 胡太后, ? - 17 tháng 5, năm 528), còn thường gọi là **Linh thái hậu** (靈太后), một phi tần của Bắc Ngụy Tuyên Vũ Đế, và Hoàng thái hậu nhiếp
**Hiến Thánh Từ Liệt Hoàng hậu** (chữ Hán: 憲聖慈烈皇后, 18 tháng 9, 1115 - 19 tháng 12, 1197), còn gọi là **Thọ Thánh Hoàng thái hậu** (壽聖皇太后), là Hoàng hậu thứ hai của Tống Cao
**Linh Chiếu hoàng thái hậu** (chữ Hán: 靈詔皇太后, trước năm 1108 - tháng 7, 1161), còn được biết đến là **Lê Thái hậu** (黎太后) hay **Cảm Thánh phu nhân** (感聖夫人), một phi tần của Lý
**Hiếu Minh Trịnh Thái hậu** (chữ Hán: 孝明鄭太后, ? - 26 tháng 12, 865), hay **Hiếu Minh Trịnh hoàng hậu** (孝明鄭皇后), là một cung nhân của Đường Hiến Tông Lý Thuần, đồng thời còn là
nhỏ|Ảnh chụp Anh Chiếu Hoàng hậu, Chuẩn hậu của Thiên hoàng Komei , khuê danh là Nữ ngự, chính thất của Thiên hoàng Hiếu Minh. Đồng thời, bà là mẹ trên danh nghĩa của Thiên
**Chiêu Linh hoàng thái hậu** (chữ Hán: 昭靈皇太后, ? - tháng 7, 1200 ), là một Hoàng hậu, Hoàng thái hậu của nhà Lý, vợ của Lý Anh Tông, mẹ của Phế Thái tử Bảo
**Mẫn Thái hậu Nguyễn thị** (chữ Hán: 愍太后 阮氏, ? - 1799), là vợ thứ Thái tử Lê Duy Vĩ, mẹ Mẫn đế Lê Chiêu Thống, vị Hoàng đế cuối cùng của triều đại nhà
**Tích Khánh Tiêu Thái hậu** (chữ Hán: 積慶蕭太后, ? - 1 tháng 6, năm 847), còn được gọi là **Trinh Hiến hoàng hậu** (貞獻皇后), là một phi tần của Đường Mục Tông Lý Hằng, và
**Nghĩa An Vương Thái hậu** (chữ Hán: 義安王太后, ? - 22 tháng 2, năm 845 ), còn gọi là **Bảo Lịch Thái hậu** (寶曆太后) hoặc **Cung Hi hoàng hậu** (恭僖皇后), là một phi tần của
**Cung thái hậu** (chữ Hán: 龔太后), không rõ tên thật, (?-562), thụy hiệu: **Nguyên thái hậu** (元太后) là một hoàng thái hậu của triều đại nhà Lương. Bà là thiếp thất của Chiêu Minh thái
**Chiêu Hiến Hoàng thái hậu** (chữ Hán: 昭憲皇太后; 902 - 17 tháng 7, 961), là Hoàng thái hậu đầu tiên của nhà Tống với vai trò là sinh mẫu của Tống Thái Tổ Triệu Khuông
**Vương thái hậu** (chữ Hán: 王太后, không rõ năm sinh năm mất) là một hoàng thái hậu tại vị trong thời gian ngắn ngủi của triều đại nhà Lương. Bà là mẹ của Phế Đế
**Nghi Thiên Chương Hoàng hậu** (chữ Hán: 儀天章皇后; 20 tháng 6 năm 1810 - 22 tháng 5 năm 1901) là thuỵ hiệu (được truy tôn sau khi qua đời) của một mệnh phụ nhà Nguyễn
**Văn Minh Phùng Hoàng hậu** (chữ Hán: 文明馮皇后, 441 - 17 tháng 10, 490), thường gọi là **Văn Minh Thái hậu** (文明太后) hoặc **Bắc Ngụy Phùng Thái hậu** (北魏冯太后), là Hoàng hậu của Bắc Ngụy
**Hiếu Hòa Duệ Hoàng hậu** (chữ Hán: 孝和睿皇后, ; 20 tháng 11, năm 1776 - 23 tháng 1, năm 1850), còn được biết đến dưới tên gọi **Cung Từ Hoàng thái hậu** (恭慈皇太后), là Hoàng
**Hiếu Huệ Chương Hoàng hậu** (chữ Hán: 孝惠章皇后, , 5 tháng 11 năm 1641 - 7 tháng 1 năm 1718), **Thanh Thế Tổ Kế hậu** (清世祖继后) hay còn gọi **Nhân Hiến Hoàng thái hậu** (仁憲皇太后),
**Hoàng thái phi** (chữ Hán: 皇太妃) là một tôn xưng từ tước Phi dành cho mẹ ruột của Hoàng đế, trong trường hợp người mẹ ấy vốn là phi tần và một người mẹ cả
**Hiếu Trang Duệ Hoàng hậu** (chữ Hán: 孝莊睿皇后; 2 tháng 8, 1426 - 15 tháng 7, 1468), còn gọi là **Từ Ý Hoàng thái hậu** (慈懿皇太后), là Hoàng hậu duy nhất của Minh Anh Tông
**Chương Hiến Minh Túc Lưu Hoàng hậu** (chữ Hán: 章献明肃劉皇后, 968 - 1033), hay còn gọi là **Chương Hiến Lưu Hoàng hậu** (章獻劉皇后), **Chương Hiến Thái hậu** (章獻太后) hoặc **Chương Hiến hậu** (章獻后), thỉnh thoảng
**Thái hậu** (chữ Hán: 太后; tiếng Anh: _Queen Dowager_, _Queen Mother_, _Empress Dowager_ hoặc _Empress Mother_) là một tước hiệu, danh từ để chỉ mẹ hoặc bà nội của vua tại các quốc gia Hán
**Huy Gia Hoàng thái hậu** (chữ Hán: 徽嘉皇太后; 1441 - 8 tháng 4, 1505), hay **Trường Lạc Hoàng hậu** (長樂皇后), là phi tần của hoàng đế Lê Thánh Tông, sinh mẫu của hoàng đế Lê
**Hiếu Chiêu Thượng Quan Hoàng hậu** (chữ Hán: 孝昭上官皇后, 89 TCN - 37 TCN), cũng gọi **Thượng Quan Thái hậu** (上官太后), là Hoàng hậu duy nhất của Hán Chiêu Đế Lưu Phất Lăng, vị Hoàng
**Hiếu Cung Chương Hoàng hậu** (chữ Hán: 孝恭章皇后; 22 tháng 2, 1398 - 26 tháng 9, 1462), còn gọi **Thượng Thánh Hoàng thái hậu** (上聖皇太后), **Thánh Liệt Từ Thọ Hoàng thái hậu** (聖烈慈壽皇太后) hoặc **Tôn
**Cung Thánh Nhân Liệt hoàng hậu** (chữ Hán: 恭聖仁烈皇后; 1162 - 1232), thông gọi **Thọ Minh hoàng thái hậu** (壽明皇太后) hay **Ninh Tông Dương hoàng hậu** (寧宗楊皇后), là Hoàng hậu thứ hai của Tống Ninh
**Hiếu Thành Kính hoàng hậu** (chữ Hán: 孝成敬皇后; 20 tháng 3, 1471 - 28 tháng 8, 1541), còn được gọi là **Từ Thọ Hoàng thái hậu** (慈壽皇太后), là Hoàng hậu duy nhất của Minh Hiếu
**Hiếu An Hoàng hậu** (chữ Hán: 孝安皇后, 20 tháng 2, 1536 - 6 tháng 8, 1596), còn gọi **Nhân Thánh Hoàng thái hậu** (仁聖皇太后) hay **Từ Khánh cung Hoàng thái hậu** (慈慶宮皇太后), là Hoàng hậu
**Lê Cung Hoàng** (chữ Hán: 黎恭皇 26 tháng 7 năm 1507 – 15 tháng 9 năm 1527) là vị hoàng đế thứ 11 của nhà Hậu Lê, ở ngôi từ năm 1522 đến 1527, tổng
**Lã hậu** (chữ Hán: 呂后, 241 – 180 TCN), có âm khác **Lữ hậu**, thường gọi **Lã Thái hậu** (呂太后) hay **Hán Cao hậu** (漢高后), là vị Hoàng hậu duy nhất của Hán Cao Tổ
**Đại Thắng Minh Hoàng hậu** (chữ Hán: 大勝明皇后; 952 - 1000), dã sử xưng gọi **Dương Vân Nga** (楊雲娥), là Hoàng hậu của 2 vị Hoàng đế thời kỳ đầu lập quốc trong Lịch sử
**Hòa Hi Đặng Hoàng hậu** (chữ Hán: 和熹鄧皇后; 81 - 121), hay còn gọi **Hòa Hi Đặng thái hậu** (和熹鄧太后), **Đông Hán Đặng thái hậu** (東漢鄧太后), là Hoàng hậu thứ hai của Hán Hòa Đế
**Đường Trung Tông Vi Hoàng hậu** (chữ Hán: 唐中宗韋皇后, ? - 21 tháng 7, năm 710), thường gọi **Vi hậu** (韋后) hay **Vi Thái hậu** (韋太后) hoặc **Trung Tông Vi Thứ nhân** (中宗韋庶人), kế phối,
thumb|Mỹ Lương Công chúa, húy là [[Nguyễn Phúc Tốn Tùy|Tốn Tùy - chị gái Vua Thành Thái, và hai nữ hầu.]] **Hậu cung nhà Nguyễn** là quy định và trật tự của hậu cung dưới
**Hiếu Văn Đậu Hoàng hậu** (chữ Hán: 孝文竇皇后; 205 - 135 TCN), còn gọi là **Đậu Thái hậu** (竇太后), kế thất nhưng là Hoàng hậu tại vị duy nhất của Hán Văn Đế Lưu Hằng,