✨Hoàng thái phi

Hoàng thái phi

Hoàng thái phi (chữ Hán: 皇太妃) là một tôn xưng từ tước Phi dành cho mẹ ruột của Hoàng đế, trong trường hợp người mẹ ấy vốn là phi tần và một người mẹ cả (thường từng là Hoàng hậu) đang tại vị Hoàng thái hậu. Danh vị này bắt nguồn từ lịch sử Trung Quốc, và tiếp tục được sử dụng trong hai nước chịu ảnh hưởng là Việt Nam và Nhật Bản.

Sự phổ biến của danh vị này không nhiều, bởi vì đại đa số các triều đại đều tôn thẳng mẹ mình làm Hoàng thái hậu. Hai triều đại nhà Minh và nhà Thanh còn bắt đầu đồng tôn làm Hoàng thái hậu, do vậy đã không còn tồn tại danh vị này ở Trung Quốc, nhưng hai quốc gia Việt Nam và Nhật Bản vẫn giữ. Nhất là Việt Nam, tận thời nhà Nguyễn triều Vua Khải Định vẫn còn dùng, khi nhà Vua tôn mẹ đẻ là Dương Thị Thục làm Hoàng thái phi, trong khi mẹ cả Nguyễn Hữu Thị Nhàn đã là Hoàng thái hậu.

Và tuy đôi khi được gọi tắt, nhưng "Hoàng thái phi" hoàn toàn có địa vị khác các Thái phi thông thường, bởi vì "Thái phi" trong đại đa số trường hợp đều chỉ đến các phi tần góa phụ của Hoàng đế tiền nhiệm, không có liên hệ quan hệ sinh mẫu với Hoàng đế kế nhiệm.

Khái niệm

Trung Quốc

Nhà Tây Hán thành lập, quy định sinh mẫu của các Hoàng tử không kế vị thì đều trở thành Vương thái hậu sau khi con trai được thụ phong tước Vương và ban đất phong ấp. Nhưng kể từ thời Đông Hán và nhất là Tào Ngụy, những người phi tần của Tiên Hoàng đế, mẹ của các tước Vương, dần không trở thành "Vương thái hậu" vì chính sách hạn chế Phiên vương, bọn họ dần chỉ còn được gọi thành Phi để tỏ ý ở dưới mẹ của Hoàng đế là Hoàng thái hậu, do đó có tước hiệu Vương thái phi (王太妃). Ví dụ con trai là "Lâm Giang vương" thì người mẹ chính là "Lâm Giang vương thái phi" mà không phải "Lâm Giang vương thái hậu" như thời Tây Hán. Danh xưng "Hoàng thái phi" này được tạo ra trong thời kỳ mà tước Phi đã được sử dụng phổ biến như vậy. Mục đích của tước xưng này là khi Hoàng đế muốn tôn huy hiệu cho mẹ đẻ, nhưng người mẹ cả trong hoàng thất đã là Hoàng thái hậu, đồng thời triều đình khi ấy không muốn hoặc không chấp nhận việc đồng tôn cùng lúc hai Thái hậu.

Khởi nguồn của danh vị này bắt đầu ở triều đại nhà Tấn, khi Tấn Ai Đế lên ngôi, mẹ ông là Chu quý nhân nên 「"Mẫu dĩ Tử quý"」 mà có tôn xưng long trọng. Câu "Mẫu dĩ tử quý" chính là nói đến người mẹ nên vì con mà hưởng phú quý, tước xưng tôn hiệu chính là phạm trù phú quý của hoàng gia. Nhưng mà khi ấy Hoàng hậu triều trước là Chử Toán Tử đã độc vị Hoàng thái hậu trong hoàng tộc, nên không thể tôn xưng Chu thị làm Thái hậu. Thời Hán và Ngụy, mẹ ruột của Hoàng đế nếu không phải Hoàng hậu thì đều không gia tôn huy hiệu nào, chỉ gia tôn mẹ cả, như trường hợp sinh mẫu của Hán Chương Đế là Giả quý nhân vẫn không có gia tôn, Chương Đế chỉ tôn đích mẫu Minh Đức Mã Hoàng hậu làm Hoàng thái hậu, còn sinh mẫu chỉ được ban đặc quyền đãi ngộ hàng Vương. Bên cạnh đó, mẹ ruột của Hán Linh Đế là Đổng Thái hậu, do bản thân Linh Đế là con thừa tự của Hán Hoàn Đế, nên Đổng thị chỉ được giữ huy hiệu "Hiếu Nhân Hoàng hậu" đến hết đời. Quy định nghiêm ngặt về tước hiệu hoàng gia các triều đại trước nhà Tấn vào lúc ấy, hoàn toàn không có việc xử lý mẹ cả cùng mẹ ruột đồng vị thỏa đáng, thế nên Tấn Ai Đế vì muốn tôn vinh mẹ ruột đành phải cho vời triều thần vào nghị sự về huy hiệu cho mẹ mình. Ban đầu, các quan đầu triều là Thái úy Hoàn Ôn đề nghị nên tấn tôn Chu thị làm 「Phu nhân; 夫人」, còn Thượng thư bộc xạ Giang Bân (江虨) nghị xin tôn làm 「Thái phu nhân; 太夫人」. Tấn Ai Đế đều không nghe, lấy ["Hoàng thái"] kèm theo địa vị Phi, tôn làm 「Hoàng thái phi」, nghi chế đều như Chử Thái hậu. Cũng trong triều nhà Tấn, Phu nhân Lý Lăng Dung là sinh mẫu của Tấn Hiếu Vũ Đế, do vốn chỉ là phi tần nên vào thời điểm khi Hiếu Vũ Đế lên ngôi thì Lý thị chỉ được tôn làm Hoàng thái phi, nhưng nghi thức đều mô phỏng Hoàng thái hậu. Sau đó, Chử Thái hậu mất, mà "Mẫu dĩ Tử quý", Lý thị cuối cùng cũng được tôn làm Hoàng thái hậu.

Các triều đại về sau, đa phần vẫn tuân theo việc tôn mẹ cả làm Hoàng thái hậu, còn mẹ đẻ nếu còn sống là Hoàng thái phi. Triều đại nhà Tống có quy luật đích-thứ nghiêm khắc, tuy mẹ đẻ về sau có thể được truy tặng thụy hiệu như một Hoàng hậu, nhưng sinh thời chỉ là Hoàng thái phi, như Chu Đức phi, hoặc phải đợi Đích mẫu qua đời mới được truy tôn, như trường hợp Hướng Thái hậu và Trần Quý nghi. Nhưng việc tôn như thế nào cũng là do Hoàng đế. Trong lịch sử cũng có rất nhiều ngoại lệ về thân phận của người mang tước hiệu Hoàng thái phi, như triều Tống Dương Thục phi chỉ là dưỡng mẫu của Tống Nhân Tông, nhưng lần lượt được tôn Hoàng thái phi và cuối cùng trở thành Hoàng thái hậu sau khi Lưu Thái hậu qua đời. Sang thời đại nhà Nam Đường dưới thời Lý Tồn Úc, Hoàng đế thiên vị tôn mẹ đẻ là Trinh Giản Hoàng hậu Tào thị làm Hoàng thái hậu, mà mẹ cả Lưu thị làm Hoàng thái phi. Hoặc lại như Hậu Tấn Xuất Đế kế vị khi bác là Thạch Kính Đường qua đời, tôn bà thím là Hoàng hậu Lý thị (vợ của Kính Đường) làm Hoàng thái hậu, còn mẹ đẻ là Vương phi An thị, tuy vốn là vợ cả, vẫn chỉ là Hoàng thái phi để phân biệt ngôi thứ. Sang thời Tiền Thục, Hậu chủ là Vương Diễn kế vị, tôn mẹ là Từ thị làm Hoàng thái hậu, và em gái của Thái hậu là Thục phi Từ thị làm Hoàng thái phi, lúc này Hoàng thái phi lại là dì của Hoàng đế.

Sang đời nhà Minh và nhà Thanh, ["Thái phi"] trở thành danh xưng cho các Di sương phi tần của Tiên Đế, về mặt ý nghĩa thì họ không phải "Hoàng thái phi" thật sự, các Hoàng đế đời sau gọi như vậy để tăng phần cung kính mà thôi.

Các nước đồng văn

Tại Việt Nam, lần đầu xuất hiện tước vị này là ở thời đại nhà Lý, Lý Nhân Tông tôn mẹ cả Hoàng hậu Dương thị làm Thượng Dương Hoàng thái hậu, còn mẹ đẻ Ỷ Lan Nguyên phi Lê thị làm Hoàng thái phi. Sau khi Thượng Dương Hoàng thái hậu qua đời, Ỷ Lan trở thành Hoàng thái hậu. Tước vị này tiếp tục xuất hiện vào đời nhà Trần, khi Trần Minh Tông tôn mẹ đẻ là bà Huy Tư Hoàng phi làm Hoàng thái phi, do mẹ cả là Thuận Thánh hoàng hậu vẫn còn sống.

Đời nhà Nguyễn, tôn xưng đích-thứ vẫn giữ, Vua Hiệp Hòa là con của Vua Thiệu Trị, sau khi lên ngôi đã tôn mẹ đẻ là Thụy tần Trương Thị Thận làm Hoàng thái phi, do bà mẹ cả - mẹ của Vua Tự Đức là bà Từ Dụ Thái hậu vẫn đang tại vị. Sau khi Vua Hiệp Hòa bị phế, Thụy tần cũng bị tước đi danh vị. Học phi Nguyễn Văn Thị Hương thời Vua Kiến Phúc từng được đề nghị tôn làm Hoàng thái phi, nhưng nhanh chống bị Vua Đồng Khánh tước bỏ. Thực tế, được tấn tôn đàng hoàng và có nghi lễ chỉ diễn ra thời Vua Khải Định, khi ông tôn mẹ cả Nguyễn Hữu Thị Nhàn là Hoàng thái hậu, tiếp tục tôn mẹ đẻ là Dương Thị Thục làm Hoàng thái phi. Năm Khải Định thứ 8 (1923), tháng 10, nhà Vua quyết định tôn Hoàng thái phi làm Hoàng thái hậu. Để phân biệt Đích-thứ khác biệt giữa hai cung, Hoằng Tông tôn Hoàng thái hậu huy hiệu Khôn Nguyên Hoàng thái hậu (坤元皇太后), còn Hoàng thái phi là Khôn Nghi Hoàng thái hậu (坤儀皇太后). Từ đây danh vị ["Hoàng thái phi"] biến mất khỏi lịch sử Việt Nam.

Tại Nhật Bản, đời trước Thiên hoàng Đề Hồ, vị Hoàng hậu sinh ra Thiên hoàng mới có tư cách được tôn Hoàng thái hậu, còn như Phi sinh ra chỉ được tôn Hoàng thái phi, Phu nhân sinh ra sẽ thành Hoàng thái phu nhân. Sau khi dưỡng mẫu của Thiên hoàng Đề Hồ là Đằng Nguyên Ôn Tử (藤原溫子) làm Hoàng thái phu nhân, lại được trao [Trung cung chức; 中宮職], thì các mẹ của Thiên hoàng không cần thiết đã từng là Hoàng hậu hay chưa, vẫn có thể được tôn làm Hoàng thái hậu.

Địa vị

Bởi vì nguyên nhân xuất hiện tước vị này là nhằm tạo ra một biệt lệ tôn trọng, địa vị của Hoàng thái phi ngoài tôn vinh người mẹ đẻ không thể tôn làm Hoàng thái hậu. Trên lý thuyết, các Hoàng thái phi do là sinh mẫu của Tân Hoàng đế, các Hoàng hậu và Phi tần của Tân Hoàng đế cũng phải có sự tôn trọng nhất định. Tuy nhiên điều này cũng thật sự còn tùy quy định của từng triều đại. Khi nghị luận tôn vị cho Chu Quý nhân, Thượng thư bộc xạ Giang Bân đã dâng tấu viết:

Sau lời tâu của Giang Bân, Ai Đế quyết định tôn Chu thị làm Hoàng thái phi, lại cho nghi lễ đều như Hoàng thái hậu, cũng tạo tiền lệ về lễ nghi và quần áo của Hoàng thái phi đều mô hỏng Hoàng thái hậu. Nhưng không phải lúc nào cũng như vậy, ví dụ chính là trường hợp của Chu Đức phi triều Tống, là sinh mẫu của Tống Triết Tông nên được tôn làm Hoàng thái phi (Hoàng thái hậu khi ấy là Hướng Thái hậu), lễ nghi vẫn như cũ là bậc của phi tần, vẫn không có danh phận trưởng bối ưu việt. Về sau, Thái hoàng thái hậu Cao Thao Thao lấy tích Xuân Thu mà ban cho nghi lễ của Chu Thái phi như Hoàng hậu, trực tiếp nâng địa vị của Chu Thái phi làm trưởng bối trong cung.

Triều đại nhà Nguyễn lần nghị về lễ tấn tôn Hoàng thái phi đầu tiên, là khi Vua Hiệp Hòa lên ngôi. Lúc ấy, nhà Vua tôn Từ Dụ Thái hậu làm Thái hoàng thái hậu là do di chiếu của Vua Tự Đức, bởi vì vốn dĩ di chiếu này để chỉ định cho Vua Dục Đức, như thế vai vế của nhà Vua sẽ là cháu của Từ Dụ Thái hậu, hợp tình hợp lý. Nhưng sau đó Vua Dục Đức bị phế, em út Vua Tự Đức là Vua Hiệp Hòa nối ngôi. Dù thân phận nhà Vua so với Từ Dụ Thái hậu là con út của chồng cùng mẹ cả, nhưng vẫn như cũ tấn tôn làm Thái hoàng thái hậu. Lúc này, nhà Vua muốn tôn mẹ ruột là Thụy tần Trương Thị Thận làm Hoàng thái phi, cũng đề nghị gia tôn Trung phi Vũ Thị Duyên làm Hoàng thái hậu theo di chiếu của Vua Tự Đức. Nhưng vấn đề vai vế của nhà Vua tạo thành vấn đề tương đối phức tạp. Đại Nam thực lục, Đệ tứ kỷ, Quyển LXX, kỷ về Vua Hiệp Hòa có thuật lại:

Lần thứ hai triều Nguyễn diễn ra suy xét tôn Hoàng thái phi, là khi Vua Kiến Phúc lên ngôi. Theo vai vế, Vua Kiến Phúc là con nuôi của Vua Tự Đức, do vậy Khiêm Hoàng hậu Vũ Thị Duyên là mẹ cả, mà mẹ nuôi là Học phi Nguyễn Văn Thị Hương sẽ trở thành mẹ ruột theo xưng hô tông pháp của hoàng gia. Án theo như thế, nhà Vua định tôn Khiêm Hoàng hậu làm "Hoàng thái hậu" và Học phi làm "Hoàng thái phi" theo đúng vị thứ, nhưng cuối cùng chỉ diễn ra lễ tấn tôn Khiêm Hoàng hậu mà thôi. Đại Nam thực lục, Đệ ngũ kỷ, quyển 1, kỷ về Vua Kiến Phúc có thuật lại sự kiện này khá tỉ mỉ:

Căn cứ theo việc chuẩn bị này, Hoàng thái phi cũng như Hoàng thái hậu đều có sách vàng và ấn vàng. Địa vị của Hoàng thái phi cũng chỉ dưới Hoàng thái hậu và trên các Cung tần khác, bất kể triều nào, trong Thực lục triều Kiến Phúc cũng ghi chép không ít lần tên của Hoàng thái phi chỉ sau Hoàng thái hậu. Ở triều Khải Định, địa vị của Hoàng thái phi cũng tương tự, đều có sách vàng và ấn vàng khi gia tôn, và cũng đều mặc áo mão tương đồng Hoàng thái hậu. Dù vậy, về hình thức số lượng và quy cách theo lẽ đều sẽ giảm đi so với Hoàng thái hậu, như tiền mừng thọ, tiền cung ứng và vị trí của Hoàng thái phi khi hiến tế đều kém hơn Hoàng thái hậu.

Lần thứ ba và cũng là lần cuối cùng đề cập gia tôn huy hiệu Hoàng thái phi của triều Nguyễn, xảy ra vào năm Khải Định nguyên niên (1916). Tháng 5, ngày mồng 6, xuống sắc đón Hoàng nguyên từ (Nguyễn Hữu thị) cùng Hoàng lệnh từ (Dương thị) về thị hầu tại Tây Cung. Chuẩn hằng năm lấy ngày mồng 1 tháng 12 (ngày sinh của Nguyên Từ) làm Thánh Thọ tiết, còn ngày 26 tháng 3 (ngày sinh của Lệnh Từ) làm Tiên Thọ tiết, từ đó nhà Vua phân biệt gọi là [Thánh mẫu] cùng [Tiên mẫu]. Tháng 12 năm đó, dâng tôn hiệu Hoàng nguyên từ làm Hoàng thái hậu và Hoàng lệnh từ làm Hoàng thái phi. Trước đó ra sắc dụ như sau:

👁️ 0 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Hoàng thái phi** (chữ Hán: 皇太妃) là một tôn xưng từ tước Phi dành cho mẹ ruột của Hoàng đế, trong trường hợp người mẹ ấy vốn là phi tần và một người mẹ cả
**Khâm Thành Hoàng hậu** (chữ Hán: 欽成皇后; 1052 - 1102), còn gọi là **Chu Đức phi** (朱德妃) hoặc **Chu Thái phi** (朱太妃), là một phi tần của Tống Thần Tông Triệu Húc và là sinh
**Minh Từ Hoàng thái phi** (chữ Hán: 明慈皇太妃; ?– 1365), người họ Lê, không rõ tên húy, còn được gọi là **Anh Tư Phu nhân** (英姿夫人) hay **Anh Tư Nguyên phi** (英姿元妃), là một cung
**Đôn Từ Hoàng thái phi** (chữ Hán: 惇慈皇太妃; ? – 1347), người họ Lê, không rõ tên húy, còn được gọi là **Quang Hiến Thần phi** (光憲宸妃), là một thứ phi của vua Trần Minh
**Hoàng thái hậu** (chữ Hán: 皇太后; Kana: こうたいごうKōtaigō; Hangul: 황태후Hwang Tae Hu; tiếng Anh: _Dowager Empress_, _Empress Dowager_ hay _Empress Mother_), thường được gọi tắt là **Thái hậu** (太后), là một tước vị được quy
**Khác Huệ Hoàng quý phi** (chữ Hán: 愨惠皇貴妃; 1668 - 1743), Đông Giai thị, là một phi tần của Thanh Thánh Tổ Khang Hi Hoàng đế và là em gái của Hiếu Ý Nhân Hoàng
**Chương Huệ Hoàng hậu** (chữ Hán: 章惠皇后; 984 - 1036), nhưng Tống sử chỉ ghi **Dương Thục phi** (杨淑妃), là một phi tần của Tống Chân Tông Triệu Hằng và là dưỡng mẫu của Tống
**Thái phi** (chữ Hán: 太妃) là một tước hiệu được sử dụng trong vùng văn hóa chữ Hán, tước Phi có địa vị góa phụ. Về cơ bản khi nhắc đến tước hiệu này, thông
**Hiếu Trang Văn Hoàng hậu** (chữ Hán: 孝莊文皇后; ; 28 tháng 3, 1613 - 27 tháng 1, 1688), thường được gọi là **Hiếu Trang Thái hậu** (孝莊太后), **Chiêu Thánh Thái hậu** (昭聖太后) hoặc **Hiếu Trang
**Hiếu Thánh Hiến Hoàng hậu** (chữ Hán: 孝聖憲皇后, tiếng Mãn: ; tiếng Mãn Châu: hiyoošungga enduringge temgetulehe hūwangheo; 1 tháng 1 năm 1693 - 2 tháng 3 năm 1777), thường gọi là **Sùng Khánh Hoàng
**Hiếu Tĩnh Thành Hoàng hậu** (chữ Hán: 孝静成皇后, ; 19 tháng 6, năm 1812 - 21 tháng 8, năm 1855), còn gọi **Hiếu Tĩnh Khang Từ Hoàng hậu**, **Khang Từ Hoàng thái hậu** hay **Khang
**Ôn Tĩnh Hoàng quý phi** (chữ Hán: 溫靖皇貴妃, 6 tháng 10, năm 1873 – 20 tháng 10, năm 1924), còn gọi là **Đức Tông Cẩn phi** (德宗瑾妃) hoặc **Đoan Khang Thái phi** (端康太妃), là một
**Hiếu Định Cảnh Hoàng hậu** (chữ Hán: 孝定景皇后; ; 28 tháng 1 năm 1868 – 22 tháng 2 năm 1913), còn gọi là **Thanh Đức Tông Hoàng hậu** (清德宗皇后), **Long Dụ Hoàng hậu** (隆裕皇后) hay
**Nhân Thọ Hoàng thái hậu** (chữ Hán: 仁壽皇太后; ; 28 tháng 4 năm 1660 - 25 tháng 6 năm 1723) hay còn gọi là **Hiếu Cung Nhân hoàng hậu** (孝恭仁皇后), là phi tần của Thanh
**Hiếu Định hoàng thái hậu** (chữ Hán: 孝定皇太后, 21 tháng 12, 1540 - 18 tháng 3 năm 1614), thường gọi là **Từ Thánh hoàng thái hậu** (慈聖皇太后) hoặc **Từ Ninh cung hoàng thái hậu** (慈寧宮皇太后),
**Từ Cung Hoàng thái hậu** (chữ Hán: 慈宮皇太后; 28 tháng 1 năm 1890 - 9 tháng 11 năm 1980), phong hiệu chính thức là **Đoan Huy Hoàng thái hậu** (端徽皇太后), là phi thiếp của Hoằng
**Hiếu Huệ Thiệu Hoàng hậu** (chữ Hán: 孝惠邵皇后 ; ? - 1522), là một phi tần của Minh Hiến Tông Chu Kiến Thâm. Bà sinh ra Hưng Hiến vương, truy tôn Minh Duệ Tông Chu
**Thọ Hòa Hoàng hậu** (chữ Hán: 寿和皇后; 1210 - 1283), còn gọi là **Thọ Hòa Hoàng thái hậu** (寿和皇太后), là Hoàng hậu duy nhất của Tống Lý Tông Triệu Quân. Với thân phận Hoàng thái
**Từ Hiếu Hiến Hoàng hậu** (chữ Hán: 慈孝獻皇后; 7 tháng 3, 1478 - 23 tháng 12, 1538), thông gọi **Hưng Quốc Thái hậu** (興國太后), **Hưng Hiến hậu** (興獻后) hay **Chương Thánh Thái hậu** (章聖皇太后), là
**Hiếu Khang Chương Hoàng hậu** (chữ Hán: 孝康章皇后; ; 29 tháng 2, năm 1640 - 20 tháng 3, năm 1663), thường gọi **Từ Hòa Hoàng thái hậu** (慈和皇太后), là phi tần của Thanh Thế Tổ
**Kính Mẫn Hoàng quý phi** (chữ Hán: 敬敏皇貴妃; ? - 25 tháng 7 năm 1699), Chương Giai thị, nguyên gọi **Mẫn phi** (敏妃), là một phi tần của Thanh Thánh Tổ Khang Hi Hoàng đế.
**Trang Thuận Hoàng quý phi** (chữ Hán: 莊順皇貴妃; 29 tháng 11 năm 1822 - 13 tháng 12 năm 1866), Ô Nhã thị (烏雅氏), Mãn Châu Chính Hoàng kỳ, là một phi tần của Thanh Tuyên
**Hiến Từ Tuyên Thánh Hoàng hậu** (chữ Hán: 憲慈宣聖皇后, 1299 - 14 tháng 12, 1369), còn hay gọi là **Hiến Từ Hoàng thái hậu** (憲慈皇太后), sách Khâm định chép **Huệ Từ Thái hậu** (惠慈太后), là
**Ruộng bậc thang Hoàng Su Phì** là một hệ thống gồm nhiều ruộng bậc thang trải dài trên địa bàn 24 xã, thị trấn của huyện Hoàng Su Phì, tỉnh Hà Giang (cũ) với tổng
thumb|[[Lệnh Ý Hoàng quý phi (Hiếu Nghi Thuần Hoàng hậu) - sinh mẫu của Gia Khánh Đế.]] **Hoàng quý phi** (phồn thể: 皇貴妃; giản thể: 皇贵妃; bính âm: _Huáng guìfēi_) là một cấp bậc, danh
**Hiếu Nghi Thuần Hoàng hậu** (chữ Hán: 孝儀純皇后, ; 23 tháng 10, năm 1727 – 28 tháng 2 năm 1775), còn được biết đến dưới thụy hiệu **Lệnh Ý Hoàng quý phi** (令懿皇貴妃), là phi
**Thái hoàng thái hậu** (chữ Hán: 太皇太后; Kana: たいこうたいごうTaikōtaigō; Hangul: 태황태후Tae Hwang Tae Hu; tiếng Anh: _Grand Empress Dowager_ hay _Grand Empress Mother_), thông thường được giản gọi là **Thái Hoàng** (太皇) hay **Thái Mẫu**
**Thục Thận Hoàng quý phi** (chữ Hán: 淑慎皇贵妃; 24 tháng 12, năm 1859 - 13 tháng 4, năm 1904), Mãn Châu Tương Hoàng kỳ, Sa Tế Phú Sát thị, cũng gọi **Mục Tông Tuệ phi**
**Khác Thuận Hoàng quý phi** (chữ Hán: 恪順皇貴妃; 27 tháng 2, năm 1876 - 15 tháng 8, năm 1900), được biết đến với tên gọi **Trân phi** (珍妃), là một phi tần rất được sủng
**Hiếu Hiến Đoan Kính Hoàng hậu** (chữ Hán: 孝獻端敬皇后; ; 1639 - 23 tháng 9, năm 1660), Đổng Ngạc thị, thường được gọi là **Đổng Ngạc phi** (董鄂妃), **Đổng Ngạc Hoàng quý phi** (董鄂皇貴妃), **Đoan
**Đôn Túc Hoàng quý phi** (chữ Hán: 敦肅皇貴妃; Khoảng 1695 - 27 tháng 12, năm 1725), Niên thị (年氏), Hán Quân Tương Hoàng kỳ, là một phi tần rất được sủng ái của Thanh Thế
**Hiến Triết Hoàng quý phi** (chữ Hán: 獻哲皇貴妃; 2 tháng 7, năm 1856 - 5 tháng 2, năm 1932), Hách Xá Lý thị, cũng được gọi rằng **Kính Ý Thái phi** (敬懿太妃), là một trong
**Thục Gia Hoàng quý phi** (chữ Hán: 淑嘉皇貴妃, 14 tháng 9 năm 1713 - 17 tháng 12 năm 1755), Kim Giai thị (金佳氏), Chính Hoàng kỳ Bao y, là một phi tần người gốc Triều
**Đôn Huệ Hoàng quý phi** (chữ Hán: 敦惠皇貴妃; 6 tháng 9, năm 1858 - 18 tháng 5, năm 1933), Tây Lâm Giác La thị (西林覺羅氏), cũng đươc gọi là **Vinh Huệ Thái phi** (榮惠太妃), là
**Cung Túc Hoàng quý phi** (chữ Hán: 恭肅皇貴妃; 20 tháng 9, năm 1857 - 14 tháng 4, năm 1921), A Lỗ Đặc thị (阿魯特氏), cũng gọi là **Trang Hòa Thái phi** (莊和太妃), là một phi
**Trang Tĩnh Hoàng quý phi** (chữ Hán: 莊靜皇貴妃; 27 tháng 2 năm 1838 - 15 tháng 11 năm 1890), thường được gọi là **Lệ phi** (麗妃), là một phi tần của Thanh Văn Tông Hàm
**Tuệ Hiền Hoàng quý phi** (chữ Hán: 慧賢皇貴妃; khoảng 1711 - 25 tháng 2, năm 1745), Cao Giai thị (高佳氏), xuất thân Mãn Châu Tương Hoàng kỳ, là một phi tần của Thanh Cao Tông
**Hồ thái hậu** (chữ Hán: 胡太后, ? - 17 tháng 5, năm 528), còn thường gọi là **Linh thái hậu** (靈太后), một phi tần của Bắc Ngụy Tuyên Vũ Đế, và Hoàng thái hậu nhiếp
**Đôn Di Hoàng quý phi** (chữ Hán: 惇怡皇貴妃; 16 tháng 10, năm 1683 - 14 tháng 3, năm 1768), Qua Nhĩ Giai thị (瓜尔佳氏) , Mãn Châu Tương Bạch Kỳ là một phi tần của
**Hiếu Tĩnh Hoàng thái hậu** (chữ Hán: 孝靖皇太后; 27 tháng 2, 1565 - 18 tháng 10 năm 1611) còn được gọi là **Vương Cung phi** (王恭妃), là Hoàng quý phi của Minh Thần Tông Vạn
**Thọ Khang Thái phi** (chữ Hán: 壽康太妃; ? - 1665), Khoa Nhĩ Thấm Bát Nhĩ Tế Cát Đặc thị, trong một thời gian dài cũng được gọi là **Nhân Thọ cung Thái Tổ phi** (仁壽宮太祖妃),
**Khâm Thánh Hiến Túc Hoàng hậu** (chữ Hán: 欽聖獻肅皇后, 1046 - 1101), là Hoàng hậu duy nhất của Tống Thần Tông Triệu Húc, đích mẫu của Tống Triết Tông Triệu Hú và Tống Huy Tông
**Hiếu Ninh Thái hoàng thái hậu** (chữ Hán: 孝宁太皇太后; 1565 - 1630), thường được gọi là **Trịnh Quý phi** (鄭貴妃), là sủng phi của Minh Thần Tông Vạn Lịch hoàng đế. Bà là mẹ của
**Hoàng quý phi Đường thị** (chữ Hán: 皇贵妃唐氏, ? - 1457) là một phi tần rất được sủng ái của Minh Đại Tông Cảnh Thái Đế. Bà nổi tiếng là phi tần cuối cùng bị
**Cung Thuận Hoàng quý phi** (chữ Hán: 恭顺皇贵妃; 1787 - 23 tháng 4, năm 1860), Nữu Hỗ Lộc thị, Mãn Châu Tương Hoàng kỳ, là một phi tần của Thanh Nhân Tông Gia Khánh Đế.
**Thuần Ý Hoàng quý phi** (chữ Hán: 純懿皇貴妃; 3 tháng 11, năm 1689 - 17 tháng 12, năm 1784) là một phi tần của Thanh Thế Tông Ung Chính Hoàng đế. ## Tiểu sử Thuần
**Triết Mẫn Hoàng quý phi** (chữ Hán: 哲憫皇貴妃; ? - 20 tháng 8, năm 1735), thuộc gia tộc Phú Sát thị, Chính Hoàng kỳ Bao y, là một phi tần của Thanh Cao Tông Càn
**Đoan Khác Hoàng quý phi** (chữ Hán: 端恪皇貴妃; 1844 - 1910), Đông Giai thị, là một phi tần của Thanh Văn Tông Hàm Phong Hoàng đế. ## Thân thế ### Dòng dõi đại tông Đoan
**Vinh An Hoàng quý phi Diêm thị** (chữ Hán: 榮安皇貴妃阎氏, ? - 1541), là một phi tần của Minh Thế Tông Gia Tĩnh Hoàng đế. Bà là Hoàng quý phi đầu tiên của Minh Thế
**Khánh Cung Hoàng quý phi** (chữ Hán: 慶恭皇貴妃; 12 tháng 8 năm 1724 - 21 tháng 8 năm 1774), Lục thị (陆氏), người Hán, là một phi tần của Thanh Cao Tông Càn Long Đế.