✨Đoan Khác Hoàng quý phi

Đoan Khác Hoàng quý phi

Đoan Khác Hoàng quý phi (chữ Hán: 端恪皇貴妃; 1844 - 1910), Đông Giai thị, là một phi tần của Thanh Văn Tông Hàm Phong Hoàng đế.

Thân thế

Dòng dõi đại tông

Đoan Khác Hoàng quý phi sinh ngày 24 tháng 10 (âm lịch) năm Đạo Quang năm thứ 24 (1844), xuất thân từ Mãn Châu Tương Hoàng kỳ Đông Giai thị. Đây là một thế gia thời nhà Thanh, hậu duệ của Đông Quốc Cương (佟國綱).

Đông Quốc Cương là con trai thứ hai của Đông Đồ Lại (佟圖賴), anh của Đông Quốc Duy (佟國維) - cha đẻ của Hiếu Ý Nhân Hoàng hậu, do là vai lớn nên Quốc Cương tập tước [Nhất đẳng Công; 一等公] từ cha, là Thanh sơ trứ danh Cựu huân thế gia. Theo đó, Hiếu Khang Chương Hoàng hậu là chị em ruột của Đông Quốc Cương, Hiếu Ý Nhân Hoàng hậu cùng Khác Huệ Hoàng quý phi đều là chất nữ của Quốc Cương, đến cả Hiếu Thận Thành Hoàng hậu cũng là hậu duệ một chi của Quốc Cương, ta có thể hình dung gia thế cực lớn của một chi hậu duệ Đông Quốc Cương, vượt lên hơn hẳn dòng dõi bình thường.

Dòng dõi của Đoan Khác Hoàng quý phi, so với nhiều hậu phi khác cũng thật sự hiển hách, vì bà là dòng dõi đại tông (con cả thừa tước) chứ không bị phân nhánh trong dòng dõi lớn (như Hiếu Trinh Hiển Hoàng hậu là trường hợp điển hình). Hậu duệ đại tông của Đông Quốc Cương thế tập Nhất đẳng Công truyền đời, Quốc Cương truyền cho con là Khoa Đại (夸岱), Khoa Đại truyền cho Nạp Mục Đồ (納穆圖), Nạp Mục Đồ truyền Tự Tồn (嗣存), và Tự Tồn truyền cho Thư Minh A (舒明阿), cha ruột của Hiếu Thận Thành Hoàng hậu. Thư Minh A chính là tổ phụ của Đoan Khác Hoàng quý phi.

Gia thế hiển hách

Con trai cả của Thư Minh A là Đại học sĩ Dụ Thành (裕誠), kế thừa Nhất đẳng Công, tiếp nối dòng đại tông. Cha của Đoan Khác Hoàng quý phi là Dụ Tường (裕祥), con trai thứ ba của Thư Minh A, nhậm Đầu đẳng Thị vệ. Không rõ mẹ đẻ của Đoan Khác Hoàng quý phi, bà có hai người anh em, một tên Phong Lâm (豐林), làm đến Viên ngoại lang, người kia là Tung Lâm (嵩林) làm đến Ngự sử.

Thuận tiện nói đến, con trai thứ hai của Thư Minh A là Dụ Khoan (裕寬), nhậm [Thừa ân Hầu; 承恩侯] do Hiếu Thận Thành Hoàng hậu mang lại, nhậm "Tán trật Đại thần" (散秩大臣); con trai thứ 4 là Dụ Thụy (裕瑞), nhậm "Tuy Viễn thành Tướng quân" (綏遠城將軍) và con út Dụ Bảo (裕保) làm đến Ngự sử. Ngoài năm con trai, Thư Minh A có ít nhất hai con gái, ngoại trừ Hiếu Thận Thành Hoàng hậu thì người kia là Đích Phúc tấn của Thuần vương phủ Trấn quốc công Dịch Lương (奕粱). Xét theo vai vế, Hiếu Thận Thành Hoàng hậu và Đoan Khác Hoàng quý phi là quan hệ 「Cô tố bà; 姑做婆」, chẳng qua lúc Đoan Khác Hoàng quý phi vào cung, thì Hiếu Thận Thành Hoàng hậu đã qua đời.

Mặt khác, thân thuộc của Đoan Khác Hoàng quý phi không ít lần cùng Hoàng gia liên hôn, mối liên hệ chằn chịt. Ví dụ đường huynh thừa kế Tam đẳng Công Khôn Lâm (堃林), cưới con gái thứ năm của Đôn Cần Thân vương Dịch Thông - em trai của Hàm Phong Đế. Bà còn có vài vị đường tỷ muội, phân biệt làm phu nhân của Lý vương phủ Trấn quốc công Phổ Mậu (溥楙), Trịnh vương phủ Phụ quốc Tướng quân Khoan Lược (寬略) và Duệ vương phủ Trấn quốc Tướng quân Nhạc Thọ (岳壽), tất cả đều là Vương phủ đại tông hậu duệ, địa vị quả thực không tầm thường.

Đại Thanh tần phi

Hiện tại xác định năm Hàm Phong thứ 8 (1858), ngày 25 tháng 3 (âm lịch) là thời điểm mà Đông Giai thị tiến cung, cùng lúc đó là Ngọc Quý nhân Na Lạp thị, đưa từ nhà mẹ đẻ trực tiếp vào Viên Minh Viên.

Căn cứ lý lẽ của học giả Vương Bội Hoàn (王佩環) dựa vào hồ sơ Thanh triều, Đông Giai thị cùng Na Lạp thị là trường hợp "không qua tuyển tú mà nhập cung", trường hợp hiếm hoi, dần về sau trở thành một điều khẳng định. Tuy vậy, xét vào năm Hàm Phong thứ 2 là lần đầu tuyển tú, thì cư theo lệ tính toán 3 năm tuyển tú một lần, năm Hàm Phong thứ 5 là đợt thứ 2 và sang năm Hàm Phong thứ 8 là đợt thứ 3 rồi, hoàn toàn phù hợp thời gian tuyển tú. Một điều nữa, theo lệ Tuyển tú của Thanh triều, tất cả như nhau diễn ra vào đầu năm ấy, Tú nữ trúng tuyển rồi cũng không lập tức tiến cung. Lấy ví dụ đợt tuyển tú năm Hàm Phong thứ 2, đại khái ở tháng 2 lựa chọn Tú nữ, sang tháng 4 và tháng 5 mới bắt đầu tiến hành đưa vào cung. Tuy vậy, do vấn đề hồ sơ thiếu thốn, cũng không có khẳng định gì vào năm Hàm Phong thứ 8 có từng tổ chức tuyển Tú nữ hay không.

Cùng năm đó, Đông Giai thị nhập cung liền được sách phong thẳng lên Kỳ tần (祺嬪), không qua bậc Quý nhân, mà trong triều Hàm Phong chỉ có duy nhất hai trường hợp sơ phong đã là Tần, ngoài Đông Giai thị thì người kia chính là Hiếu Trinh Hiển hoàng hậu. Phong hiệu "Kỳ", căn cứ Hồng xưng thông dụng (鴻稱通用) của Nội vụ phủ ghi lại, có Mãn văn là 「Fengšen」, ý là "Phúc phận", "Phúc lợi". Sang ngày 24 tháng 12 (âm lịch) cùng năm, chính thức hành lễ tấn phong Tần vị, cư ngụ Thừa Càn cung (承乾宮).

Sách văn phong Tần, viết:

Năm Hàm Phong thứ 11 (1861), tháng 7, Hàm Phong Đế băng hà, Đồng Trị Đế nối ngôi. Ngày 10 tháng 10 (âm lịch) cùng năm, tấn tôn Kỳ phi (祺妃). Năm Đồng Trị thứ 13 (1874), ngày 16 tháng 11 (âm lịch), Quang Tự Đế phụng Lưỡng cung Hoàng thái hậu ý chỉ, tấn tôn Kỳ phi Đông Giai thị làm Kỳ Quý phi (祺贵妃).

Năm Quang Tự thứ 34 (1908), ngày 18 tháng 11 (âm lịch), Tuyên Thống Đế tấn tôn Văn Tông Kỳ Quý phi Đông Giai thị lên làm Kỳ Hoàng quý thái phi (祺皇贵太妃).

Năm Tuyên Thống thứ 2 (1910), ngày 28 tháng 3 (âm lịch), Kỳ Hoàng quý thái phi Đông Giai thị qua đời, hưởng thọ 67 tuổi, sang tháng 5 dâng tôn thụy hiệu là Đoan Khác Hoàng quý phi (端恪皇貴妃). Sang năm sau (1911), ngày 21 tháng 9 (âm lịch), đưa Kim quan của Hoàng quý phi nhập Phi viên tẩm của Định lăng (定陵).

👁️ 1 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Đoan Khác Hoàng quý phi** (chữ Hán: 端恪皇貴妃; 1844 - 1910), Đông Giai thị, là một phi tần của Thanh Văn Tông Hàm Phong Hoàng đế. ## Thân thế ### Dòng dõi đại tông Đoan
**Đoan Hòa Hoàng quý phi Vương thị** (chữ Hán: 端和皇貴妃王氏, ? - 1553), là một phi tần của Minh Thế Tông Gia Tĩnh Hoàng đế. Bà nổi tiếng là cùng Trang Thuận hoàng quý phi
**Hiếu Ninh Thái hoàng thái hậu** (chữ Hán: 孝宁太皇太后; 1565 - 1630), thường được gọi là **Trịnh Quý phi** (鄭貴妃), là sủng phi của Minh Thần Tông Vạn Lịch hoàng đế. Bà là mẹ của
thumb|[[Lệnh Ý Hoàng quý phi (Hiếu Nghi Thuần Hoàng hậu) - sinh mẫu của Gia Khánh Đế.]] **Hoàng quý phi** (phồn thể: 皇貴妃; giản thể: 皇贵妃; bính âm: _Huáng guìfēi_) là một cấp bậc, danh
**Ôn Tĩnh Hoàng quý phi** (chữ Hán: 溫靖皇貴妃, 6 tháng 10, năm 1873 – 20 tháng 10, năm 1924), còn gọi là **Đức Tông Cẩn phi** (德宗瑾妃) hoặc **Đoan Khang Thái phi** (端康太妃), là một
**Hiến Triết Hoàng quý phi** (chữ Hán: 獻哲皇貴妃; 2 tháng 7, năm 1856 - 5 tháng 2, năm 1932), Hách Xá Lý thị, cũng được gọi rằng **Kính Ý Thái phi** (敬懿太妃), là một trong
**Cung Túc Hoàng quý phi** (chữ Hán: 恭肅皇貴妃; 20 tháng 9, năm 1857 - 14 tháng 4, năm 1921), A Lỗ Đặc thị (阿魯特氏), cũng gọi là **Trang Hòa Thái phi** (莊和太妃), là một phi
**Vinh An Hoàng quý phi Diêm thị** (chữ Hán: 榮安皇貴妃阎氏, ? - 1541), là một phi tần của Minh Thế Tông Gia Tĩnh Hoàng đế. Bà là Hoàng quý phi đầu tiên của Minh Thế
**Hiếu Hiến Đoan Kính Hoàng hậu** (chữ Hán: 孝獻端敬皇后; ; 1639 - 23 tháng 9, năm 1660), Đổng Ngạc thị, thường được gọi là **Đổng Ngạc phi** (董鄂妃), **Đổng Ngạc Hoàng quý phi** (董鄂皇貴妃), **Đoan
**Khác Thuận Hoàng quý phi** (chữ Hán: 恪順皇貴妃; 27 tháng 2, năm 1876 - 15 tháng 8, năm 1900), được biết đến với tên gọi **Trân phi** (珍妃), là một phi tần rất được sủng
**Hiếu Nghi Thuần Hoàng hậu** (chữ Hán: 孝儀純皇后, ; 23 tháng 10, năm 1727 – 28 tháng 2 năm 1775), còn được biết đến dưới thụy hiệu **Lệnh Ý Hoàng quý phi** (令懿皇貴妃), là phi
**Thục Gia Hoàng quý phi** (chữ Hán: 淑嘉皇貴妃, 14 tháng 9 năm 1713 - 17 tháng 12 năm 1755), Kim Giai thị (金佳氏), Chính Hoàng kỳ Bao y, là một phi tần người gốc Triều
**Triết Mẫn Hoàng quý phi** (chữ Hán: 哲憫皇貴妃; ? - 20 tháng 8, năm 1735), thuộc gia tộc Phú Sát thị, Chính Hoàng kỳ Bao y, là một phi tần của Thanh Cao Tông Càn
**Thục Thận Hoàng quý phi** (chữ Hán: 淑慎皇贵妃; 24 tháng 12, năm 1859 - 13 tháng 4, năm 1904), Mãn Châu Tương Hoàng kỳ, Sa Tế Phú Sát thị, cũng gọi **Mục Tông Tuệ phi**
**Đôn Túc Hoàng quý phi** (chữ Hán: 敦肅皇貴妃; Khoảng 1695 - 27 tháng 12, năm 1725), Niên thị (年氏), Hán Quân Tương Hoàng kỳ, là một phi tần rất được sủng ái của Thanh Thế
**Tuệ Hiền Hoàng quý phi** (chữ Hán: 慧賢皇貴妃; khoảng 1711 - 25 tháng 2, năm 1745), Cao Giai thị (高佳氏), xuất thân Mãn Châu Tương Hoàng kỳ, là một phi tần của Thanh Cao Tông
**Cung Thuận Hoàng quý phi** (chữ Hán: 恭顺皇贵妃; 1787 - 23 tháng 4, năm 1860), Nữu Hỗ Lộc thị, Mãn Châu Tương Hoàng kỳ, là một phi tần của Thanh Nhân Tông Gia Khánh Đế.
**Cung Thuận Hoàng quý phi** (_chữ Hán_:恭顺皇贵妃) là thụy hiệu của một số vị quý phi trong lịch sử các vương triều phong kiến Trung Quốc. ## Danh sách *Minh Thần Tông Cung Thuận hoàng
**Dương Quý phi** (chữ Hán: 楊貴妃, 719 – 756), còn gọi là **Dương Ngọc Hoàn** (楊玉環) hay **Dương Thái Chân** (楊太真), là một phi tần rất được sủng ái của Đường Huyền Tông Lý Long
**Hiếu Thận Thành Hoàng hậu** (chữ Hán: 孝慎成皇后; ; 16 tháng 6, năm 1790 - 16 tháng 6 năm 1833), kế thất nhưng là Hoàng hậu đầu tiên của Thanh Tuyên Tông Đạo Quang Hoàng
**Hãn Quý phi Đới Giai thị** (chữ Hán: 忻贵妃戴佳氏, ? - 28 tháng 4 năm 1764), Mãn Châu Tương Hoàng kỳ, là 1 phi tần của Thanh Cao Tông Càn Long Hoàng đế. ## Nhập
**Hoàng hậu** (chữ Hán: 皇后; Kana: こうごうKōgō; Hangul: 황후Hwang Hu; tiếng Anh: Empress consort) là danh hiệu dành cho chính thê của Hoàng đế, bởi Hoàng đế sách lập. Danh hiệu này tồn tại trong
thumb|Hậu cung ở Trung Á **Phi tần** (chữ Hán: _妃嬪_, tiếng Anh: _Imperial consort_ / _Royal concubine_), **Thứ phi** (_次妃_), **Tần ngự** (_嬪御_) hoặc **Cung nhân** (_宮人_), là những tên gọi chung cho nàng hầu
**Thanh Cao Tông Kế Hoàng hậu** (chữ Hán: 清高宗繼皇后, 11 tháng 3, năm 1718 - 19 tháng 8, năm 1766), Na Lạp thị, là Hoàng hậu thứ 2 của Thanh Cao Tông Càn Long Đế.
**Hiếu Chiêu Hoàng hậu** (chữ Hán: 孝昭皇后; 1601 - 12 tháng 7 năm 1661), hay còn gọi **Đoàn Quý phi** (段貴妃) hoặc **Trinh Thục Từ Tĩnh Huệ phi** (貞淑慈靜惠妃), là Chánh phi của chúa Nguyễn
**Hiếu Đoan Văn Hoàng hậu** (chữ Hán: 孝端文皇后, ; 13 tháng 5 năm 1600 – 17 tháng 5 năm 1649), kế thất nhưng là Hoàng hậu tại vị duy nhất của Thanh Thái Tông Hoàng
**Hiếu Đoan Hiển Hoàng hậu** (chữ Hán: 孝端顯皇后; 7 tháng 11, 1564 - 7 tháng 5, 1620), là Hoàng hậu tại vị duy nhất dưới triều Minh Thần Tông Vạn Lịch Hoàng đế. Tuy giữ
**Ý Tĩnh Đại Quý phi** (chữ Hán: 懿靖大貴妃; ? - 1674), Bát Nhĩ Tể Cát Đặc thị, thông gọi **Nang Nang** (囊囊), có thuyết tên thật là **Đức Lặc Cách Đức Lặc** (德勒格德勒), lại có
**Minh Đạt Hoàng hậu** (chữ Hán: 明達皇后; 1086 - 1113), hay **Tống Huy Tông Lưu Quý phi** (宋徽宗劉貴妃), là một phi tần rất được sủng ái của Tống Huy Tông Triệu Cát. Dưới thời nhà
thumb|Ảnh chụp Hoàng thành Huế ngày [[11 tháng 9, năm 1932.]] **Hoàng thành Huế** (chữ Hán: 皇城) hay còn được gọi là **Đại Nội** (大內), là vòng thành thứ hai bên trong Kinh thành Huế,
**Hiếu Toàn Thành Hoàng hậu** (chữ Hán: 孝全成皇后, ; 24 tháng 3, năm 1808 - 13 tháng 2, năm 1840), là Hoàng hậu thứ hai của Thanh Tuyên Tông Đạo Quang Hoàng đế và là
**Hiếu Hiền Thuần Hoàng hậu** (chữ Hán: 孝賢纯皇后, ; 28 tháng 3, năm 1712 - 8 tháng 4, năm 1748), là nguyên phối Hoàng hậu của Thanh Cao Tông Càn Long Đế. Xuất thân vọng
**Hiếu Ý Nhân Hoàng hậu** (chữ Hán: 孝懿仁皇后; ; ? - 24 tháng 8 năm 1689), là Hoàng hậu thứ ba của Thanh Thánh Tổ Khang Hi Đế, đồng thời là mẹ nuôi của Thanh
**Hiếu Trang Văn Hoàng hậu** (chữ Hán: 孝莊文皇后; ; 28 tháng 3, 1613 - 27 tháng 1, 1688), thường được gọi là **Hiếu Trang Thái hậu** (孝莊太后), **Chiêu Thánh Thái hậu** (昭聖太后) hoặc **Hiếu Trang
**Hiếu Huệ Chương Hoàng hậu** (chữ Hán: 孝惠章皇后, , 5 tháng 11 năm 1641 - 7 tháng 1 năm 1718), **Thanh Thế Tổ Kế hậu** (清世祖继后) hay còn gọi **Nhân Hiến Hoàng thái hậu** (仁憲皇太后),
**Thuần Trinh Hiếu Hoàng hậu** (chữ Hán: 純貞孝皇后; Hangul: 순정효황후; 19 tháng 9 năm 1894 - 3 tháng 2 năm 1966) là vợ thứ hai của Triều Tiên Thuần Tông, đồng thời bà cũng là
**Phi** (chữ Hán: 妃; Kana: ひ; Hangul: 비) là một xưng hiệu thuộc Hoàng thất và Vương thất của khối quốc gia thuộc vùng văn hóa chữ Hán như Trung Quốc, Việt Nam, Hàn Quốc
**Hiếu Triết Nghị Hoàng hậu** (chữ Hán: 孝哲毅皇后; ; 25 tháng 7, năm 1854 - 27 tháng 3, năm 1875), là vị Hoàng hậu duy nhất của Thanh Mục Tông Đồng Trị Hoàng đế. Bà
**Hiếu Định Cảnh Hoàng hậu** (chữ Hán: 孝定景皇后; ; 28 tháng 1 năm 1868 – 22 tháng 2 năm 1913), còn gọi là **Thanh Đức Tông Hoàng hậu** (清德宗皇后), **Long Dụ Hoàng hậu** (隆裕皇后) hay
**Hiếu Tĩnh Thành Hoàng hậu** (chữ Hán: 孝静成皇后, ; 19 tháng 6, năm 1812 - 21 tháng 8, năm 1855), còn gọi **Hiếu Tĩnh Khang Từ Hoàng hậu**, **Khang Từ Hoàng thái hậu** hay **Khang
**Đoan Thuận phi** (chữ Hán: 端順妃; ? - 1709), Bát Nhĩ Tế Cát Đặc thị, là một phi tần của Thanh Thế Tổ Thuận Trị Hoàng đế. ## Tiểu sử Đoan Thuận phi xuất thân
nhỏ|Di cốt còn sót lại của Tả phu nhân, một trong những người vợ của vua [[Triệu Văn Vương|Triệu Văn Đế]] nhỏ|Tượng [[Đại Thắng Minh Hoàng Hậu Dương Vân Nga ở Hoa Lư, người duy
**Thái phi** (chữ Hán: 太妃) là một tước hiệu được sử dụng trong vùng văn hóa chữ Hán, tước Phi có địa vị góa phụ. Về cơ bản khi nhắc đến tước hiệu này, thông
**Hiếu Hòa Duệ Hoàng hậu** (chữ Hán: 孝和睿皇后, ; 20 tháng 11, năm 1776 - 23 tháng 1, năm 1850), còn được biết đến dưới tên gọi **Cung Từ Hoàng thái hậu** (恭慈皇太后), là Hoàng
**Vinh phi Mã Giai thị** (chữ Hán: 荣妃马佳氏; 1652- 6 tháng 3, năm 1727), là một trong những phi tần vào hầu sớm nhất Thanh Thánh Tổ Khang Hi Đế. ## Thân thế ### Nhập
**Thư phi Diệp Hách Lặc thị** (chữ Hán: 舒妃叶赫勒氏, 1 tháng 6 năm 1728 - 30 tháng 5 năm 1777), Mãn Châu Chính Hoàng kỳ, là một phi tần của Thanh Cao Tông Càn Long
**Tuyên phi Bát Nhĩ Tế Cát Đặc thị** (chữ Hán: 宣妃博爾濟吉特氏; ? - 1736), Khoa Nhĩ Thấm Mông Cổ, là một phi tần của Thanh Thánh Tổ Khang Hi Hoàng đế. ## Thân thế Bát
**Hoàng Quý** (31 tháng 10 năm 1920 – 26 tháng 6 năm 1946) là một nhạc sĩ Việt Nam thuộc thời kì nhạc tiền chiến. Ông được xem là một trong những nhạc sĩ tiên
**Dung phi Hòa Trác thị** (chữ Hán: 容妃和卓氏; 11 tháng 10, năm 1734 - 24 tháng 5, năm 1788), hoặc **Hoắc Trác thị** (霍卓氏), người Duy Ngô Nhĩ, nổi tiếng là phi tần người Hồi
**Thuận Ý Mật phi** (chữ Hán: 顺懿密妃; Thập niên 1660 - 16 tháng 10 năm 1744), Vương thị (王氏), là một phi tần của Thanh Thánh Tổ Khang Hi Hoàng đế. ## Thân thế Thuận